Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn vật lý. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn vật lý. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 27 tháng 10, 2015

CÁC BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA WOLFRAM .Phần 1 .


CÁC BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA WOLFRAM .



Phần 1 .





Stephen Wolfram
Nhà khoa học, nhà phát minh
Website: website chính thức của Stephen Wolfram
http://www.stephenwolfram.com/
Book: A New Kind of Science
Website: Wolfram | Alpha


    Thông tin cá nhân

Stephen Wolfram là tác giả của Mathematica và Wolfram | Alpha, tác giả cuốn sách A New Kind of Science , là người sáng lập và CEO của Wolfram Research.

Stephen Wolfram công bố bài báo khoa học đầu tiên của mình ở tuổi 15, và nhận bằng Tiến sĩ vật lý lý thuyết tại Caltech ở tuổi 20. Sau khi bắt đầu sử dụng máy tính trong năm 1973, Wolfram nhanh chóng trở thành một nhà lãnh đạo trong các lĩnh vực nổi bật về tính toán khoa học.

Năm 1981 Wolfram trở thành người trẻ nhất của một giải thưởng MacArthur Fellowship. Sau đó, ông vạch ra một hướng đi mới đầy tham vọng trong khoa học nhằm tìm hiểu nguồn gốc của sự phức tạp trong tự nhiên. Ý tưởng quan trọng đầu tiên Wolfram là sử dụng các thí nghiệm máy tính để nghiên cứu các hành vi của các chương trình máy tính đơn giản được gọi là tế bào automata . Điều này cho phép ông thực hiện một loạt những khám phá đáng ngạc nhiên về nguồn gốc của sự phức tạp


 Wolfram thành lập các trung tâm nghiên cứu và các tạp chí đầu tiên trong lĩnh vực này, Các hệ thống phức tạp, và bắt đầu sự phát triển của phần mềm Mathematica. Wolfram Research đã sớm trở thành một nhà lãnh đạo thế giới trong ngành công nghiệp phần mềm - được công nhận rộng rãi cho sự xuất sắc trong cả hai công nghệ và kinh doanh.

Sau khi phát hành Mathematica Version 2 năm 1991, Wolfram bắt đầu phân chia thời gian của mình giữa phát triển Mathematica và nghiên cứu khoa học. Xây dựng trên công trình nghiên cứu của mình từ giữa những năm 1980, và bây giờ áp dụng với Mathematica như một công cụ, Wolfram đã thành công nhanh chóng với những khám phá mới mẻ lớn lao hơn , mà ông mô tả trong cuốn sách của mình,  A New Kind of Science.

Xây dựng trên nền tảng Mathematica,  A New Kind of Science, và sự thành công của Wolfram Research, Wolfram gần đây đưa ra nền tảng Wolfram | Alpha - một dự án dài hạn đầy tham vọng nhằm làm cho kiến ​​thức của thế giới có thể tính toán càng nhiều càng tốt , và  tất cả mọi người đều có thể truy cập đến nền tảng tính toán này .


Therese Littleton đã viết :

"Dù gì đi nữa cuộc cách mạng của Wolfram cuối cùng cho chúng ta những chìa khóa để khám phá vũ trụ, ngành khoa học mới của ông thực sự là cực kỳ thú vị và đầy cảm hứng ."


1. Tính toán lý thuyết cho mọi kiến thức (Computing a theory of all knowledge)


00:12
Tôi muốn nói về một ý tưởng. Một ý tưởng lớn. Thật ra, tôi nghĩ rằng dần dần ý tưởng đó sẽ được coi là ý tưởng lớn duy nhất nổi bật trong suốt thế kỷ qua. Đó là một ý tưởng về điện toán. Tất nhiên, ý tưởng đó đã đem lại cho chúng ta tất cả công nghệ máy tính mà chúng ta có ngày nay và hơn thế nữa. Nhưng thật ra điện toán không phải chỉ có thế. Đó là một ý tưởng căn bản sâu sắc và đầy quyền năng mà chúng ta mới chỉ bắt đầu thấy được tác dụng của nó.

 So I want to talk today about an idea. It's a big idea. Actually, I think it'll eventually be seen as probably the single biggest idea that's emerged in the past century. It's the idea of computation. Now, of course, that idea has brought us all of the computer technology we have today and so on. But there's actually a lot more to computation than that. It's really a very deep, very powerful, very fundamental idea, whose effects we've only just begun to see.

00:37
Tôi đã bỏ ra 30 năm làm việc với ba dự án lớn cố gắng áp dụng ý tưởng về điện toán một cách nghiêm túc. Tôi đã khởi đầu khi còn là một nhà vật lý trẻ tuổi sử dụng máy tính như các công cụ. Sau đó, tôi đã bắt đầu đào sâu thêm, nghĩ về các phép toán mà có thể tôi sẽ muốn làm, cố gắng tìm ra các nguyên hàm để làm nền cho các phép toán đó và cách nào để làm cho chúng tự động hóa càng nhiều càng tốt. Cuối cùng thì tôi cũng đã tạo ra được toàn bộ cấu trúc dựa trên phương thức lập trình tượng trưng và vân vân mà đã giúp tôi xây dựng nên Mathematica. Và trong 23 năm qua, với tốc độ ngày càng nhanh, chúng tôi đã liên tục đổ thêm nhiều ý tưởng và chức năng hơn nữa vào Mathematica và tôi rất vui khi có thể nói rằng điều đó đã đem lại nhiều điều tốt trong R&D (nghiên cứu và phát triển) và giáo dục và trong nhiều lĩnh vực khác. Tôi phải thừa nhận rằng thật ra tôi đã có một lý do rất ích kỷ khi viết Mathematica. Tôi đã muốn sử dụng nó cho chính mình, gần giống như Galileo đã sử dụng chiếc ống kính thiên văn của mình vào 400 năm trước. Nhưng tôi đã không muốn ngắm lấy vũ trụ bao la, tôi muốn được tìm hiểu về vũ trụ của điện toán.

 Well, I myself have spent the past 30 years of my life working on three large projects that really try to take the idea of computation seriously. So I started off at a young age as a physicist using computers as tools. Then, I started drilling down, thinking about the computations I might want to do, trying to figure out what primitives they could be built up from and how they could be automated as much as possible. Eventually, I created a whole structure based on symbolic programming and so on that let me build Mathematica. And for the past 23 years, at an increasing rate, we've been pouring more and more ideas and capabilities and so on into Mathematica, and I'm happy to say that that's led to many good things in R & D and education, lots of other areas. Well, I have to admit, actually, that I also had a very selfish reason for building Mathematica: I wanted to use it myself, a bit like Galileo got to use his telescope 400 years ago. But I wanted to look not at the astronomical universe, but at the computational universe.




01:37
Chúng ta thường nghĩ về các phần mềm như những thứ phức tạp mà chúng ta xây dựng cho những mục đích riêng biệt. Nhưng khoảng không gian cho tất cả các phần mềm thì sao? Đây là một phần mềm đơn giản. Nếu chúng ta chạy chương trình này, đây là những gì ta đạt được. Rất đơn giản. Hãy thử đổi công thức cho chương trình một chút xem sao. Bây giờ chúng ta lại có một kết quả khác, nhưng vẫn rất đơn giản. Thử đổi một lần nữa. Ta lại có một thứ khác phức tạp hơn một chút nhưng nếu chúng ta cho nó tiếp tục chạy một lúc ta sẽ thấy rằng mặc dù trình tự mà chúng ta có được rất là rắc rối, nó mang một cấu trúc rất bình thường. Nên câu hỏi là: Liệu có thể có những gì khác xảy ra không? Ừ thì chúng ta có thực hiện một thí nghiệm nho nhỏ. Hãy thử thực hiện một thí nghiệm toán học, thử xem thế nào.

 So we normally think of programs as being complicated things that we build for very specific purposes. But what about the space of all possible programs? Here's a representation of a really simple program. So, if we run this program, this is what we get. Very simple. So let's try changing the rule for this program a little bit. Now we get another result, still very simple. Try changing it again. You get something a little bit more complicated. But if we keep running this for a while, we find out that although the pattern we get is very intricate, it has a very regular structure. So the question is: Can anything else happen? Well, we can do a little experiment. Let's just do a little mathematical experiment, try and find out. 




02:25
Thử chạy tất cả các chương trình có thể thuộc cùng một loại mà chúng ta đang xem xét. Chúng được gọi là thiết bị tế bào tự động. Các bạn có thể thấy được sử đa dạng trong hoạt động của nó. Đa số trong chúng thực hiện những thứ rất đơn giản. Nhưng nếu các bạn nhìn các bức tranh khác nhau này, đến công thức thứ 30, các bạn sẽ thấy có điều gì đó hấp dẫn xảy ra. Hãy nhìn kỹ hơn một chút công thức thứ 30 này. Nó đây. Chúng ta chỉ làm theo cái công thức rất đơn giản ở phía dưới này nhưng chúng ta lại có được một thứ lạ kỳ này. Đó không phải là thứ mà chúng ta quen thuộc với và tôi phải nói rằng, khi tôi nhìn thấy cái này lần đầu tiên, nó đã gây sốc đối với trực giác của tôi và thật ra, để hiểu được nó, tôi đã phải tạo ra một môn khoa học mới.

Let's just run all possible programs of the particular type that we're looking at. They're called cellular automata. You can see a lot of diversity in the behavior here. Most of them do very simple things, but if you look along all these different pictures, at rule number 30, you start to see something interesting going on. So let's take a closer look at rule number 30 here. So here it is. We're just following this very simple rule at the bottom here, but we're getting all this amazing stuff. It's not at all what we're used to, and I must say that, when I first saw this, it came as a huge shock to my intuition. And, in fact, to understand it, I eventually had to create a whole new kind of science. 


03:07
(Tiếng cười)

03:09
Môn khóa học này nói chung là khác với các môn khoa học dựa trên toán học khác mà chúng ta đã có trong vòng 300 năm qua. Các bạn biết đấy, thiên nhiên làm cách nào mà có thể tạo ra nhiều thứ phức tạp một cách dễ dàng đến thế đã luôn là một điều bí ẩn đối với chúng ta. Và tôi nghĩ rằng tôi đã tìm ra được bí mật của nó. Chỉ đơn giản là lấy mẫu những gì có ở ngoài đó vào trong vũ trụ của điện toán và rất thường sẽ có được những thứ như công thức thứ 30 này hay như cái này. Và khi biết được điều này, chúng ta có thể bắt đầu giải thích được nhiều bí ẩn trong khoa học. Nhưng nó cũng sinh ra nhiều vấn đề như tính tối giản của điện toán. Ý tôi là chúng ta đã quen với việc khoa học cho phép ta tiên đoán nhiều thứ nhưng những thứ như thế này thì cơ bản là tối giản. Cách duy nhất để tìm ra hệ quả của nó một cách hiệu quả là nhìn nó phát triển. Nó có liên quan đến một thứ mà tôi gọi là nguyên lý tương đương điện toán mà cho chúng ta biết rằng những hệ thống cực kỳ đơn giản đều có thể thực hiện các phép tính phức tạp. Không cần đền nhiều công nghệ hay sự tiến hóa sinh học để có thể thực hiện các phép tính bất kỳ, chỉ đơn giản là một thứ gì đó diễn ra một cách tự nhiên khắp mọi nơi. Những thứ với các công thức, luật lệ đơn giản như thế này đều có thể làm được điều đó. Điều này mang hàm ý sâu sắc về các giới hạn của khoa học về khả năng tiên đoán và điều hành những thứ như các quá trình sinh học hay kinh tế, về trí thông minh trong vũ trụ, về các câu hỏi như sự tự nguyện và về việc tạo ra các công nghệ mới.

This science is different, more general, than the mathematics-based science that we've had for the past 300 or so years. You know, it's always seemed like a big mystery: how nature, seemingly so effortlessly, manages to produce so much that seems to us so complex. Well, I think we've found its secret: It's just sampling what's out there in the computational universe and quite often getting things like Rule 30 or like this. And knowing that starts to explain a lot of long-standing mysteries in science. It also brings up new issues, though, like computational irreducibility. I mean, we're used to having science let us predict things, but something like this is fundamentally irreducible. The only way to find its outcome is, effectively, just to watch it evolve. It's connected to, what I call, the principle of computational equivalence, which tells us that even incredibly simple systems can do computations as sophisticated as anything. It doesn't take lots of technology or biological evolution to be able to do arbitrary computation; just something that happens, naturally, all over the place. Things with rules as simple as these can do it. Well, this has deep implications about the limits of science, about predictability and controllability of things like biological processes or economies, about intelligence in the universe, about questions like free will and about creating technology. 

04:41
Các bạn biết đấy, làm việc với môn khoa học này qua nhiều năm, tôi đã luôn băn khoăn "Ứng dụng hay ho đầu tiên của nó sẽ là gì?" Từ lúc tôi còn nhỏ, tôi đã nghĩ về các kiến thức về sự hệ thống hóa và làm cách nào để làm nó có thể tính toán được. Những người như Leibniz cũng đã từng suy nghĩ về điều đó vào 300 năm trước. Nhưng tôi đã luôn cho rằng để được kết quả thì tôi sẽ phải tái tạo lại nguyên bộ não. Bây giờ tôi lại nghĩ rằng: Mô hình khoa học này của tôi mang một ý nghĩa khác. Và tiện thể tôi xin nói luôn là giờ tôi đã có được nhiều khả năng tính toán lớn trong Mathematica và tôi là một CEO với một số nguồn vật chất đủ để thực hiện các dự án lớn và dường như điên rồ. Nên tôi đã quyết định thử xem bao nhiêu trong lượng kiến thức ngoài kia trên thế giới có thể làm cho tính toán được.

You know, in working on this science for many years, I kept wondering, "What will be its first killer app?" Well, ever since I was a kid, I'd been thinking about systematizing knowledge and somehow making it computable. People like Leibniz had wondered about that too 300 years earlier. But I'd always assumed that to make progress, I'd essentially have to replicate a whole brain. Well, then I got to thinking: This scientific paradigm of mine suggests something different -- and, by the way, I've now got huge computation capabilities in Mathematica, and I'm a CEO with some worldly resources to do large, seemingly crazy, projects -- So I decided to just try to see how much of the systematic knowledge that's out there in the world we could make computable. 

05:25
Nên dự án đó đã rất lớn và phức tạp mà tôi cũng chẳng rõ sẽ thành công thế nào. Nhưng rất vui là tôi có thể nói rằng dự án đang tiến triển tốt. Và vào năm ngoái chúng tôi đã cho ra đời phiên bản đầu tiên của Wolfram Alpha. Mục đích của trang này là một công cụ kiến thức tính toán các câu trả lời cho các câu hỏi. Nên chúng ta hãy thử xem thế nào. Chúng ta hãy thử bắt đầu với một cái gì đó thật dễ. Và mong điều tốt nhất. Tốt. Được rồi. Đến lúc này thì vẫn tốt. (Tiếng cười) Hãy thử cái gì đó khó hơn. Thử ... Thử một phép toán và may mắn thì nó sẽ tính ra kết quả đúng và sẽ cho chúng ta biết một vài thứ thú vị về các phép toán liên quan. Chúng ta hỏi nó bất kỳ điều gì về thế giới thực. Ví dụ như -- GDP của Tây Ban Nha là nhiêu? Và nó sẽ phải trả lời được cho chúng ta. Bây giờ chúng ta sẽ có thể tính một thứ gì liên quan, ví dụ như GDP của Tây Ban Nha chia cho, tôi không biết, -- hừm ... doanh thu của Microsoft chẳng hạn.

So, it's been a big, very complex project, which I was not sure was going to work at all. But I'm happy to say it's actually going really well. And last year we were able to release the first website version of Wolfram Alpha. Its purpose is to be a serious knowledge engine that computes answers to questions. So let's give it a try. Let's start off with something really easy. Hope for the best. Very good. Okay. So far so good. (Laughter) Let's try something a little bit harder. Let's do some mathy thing, and with luck it'll work out the answer and try and tell us some interesting things things about related math. We could ask it something about the real world. Let's say -- I don't know -- what's the GDP of Spain? And it should be able to tell us that. Now we could compute something related to this, let's say ... the GDP of Spain divided by, I don't know, the -- hmmm ... let's say the revenue of Microsoft. 

06:33
(Tiếng cười)

06:35
Chúng ta có thể gõ vào đây một câu hỏi theo bất kỳ cách nào. Nên ta hãy thử hỏi một câu, ví dụ như một câu hỏi về sức khỏe. Giả dụ như chúng ta tìm thấy trong phòng thí nghiệm rằng -- ta có mức độ LDL (Low-density lipoprotein) tại 140 cho một người đàn ông 50 tuổi. Nên hãy thử gõ cái này vào và Wolfram Alpha sẽ sử dụng các số liệu thống kê được ban hành và xem thử bao nhiêu phần của dân số có cùng chỉ số đó và vân vân. Hay thử hỏi về trạm không gian quốc tế.

 The idea is that we can just type this in, this kind of question in, however we think of it. So let's try asking a question, like a health related question. So let's say we have a lab finding that ... you know, we have an LDL level of 140 for a male aged 50. So let's type that in, and now Wolfram Alpha will go and use available public health data and try and figure out what part of the population that corresponds to and so on. Or let's try asking about, I don't know, the International Space Station. 

07:06
Và những gì đang diễn ra ở đây là Wolfram Alpha không chỉ tìm kiếm cái gì đó; nó đang tính trong thời gina thực xem trạm không gian quốc tế đang ở đâu trong lúc này và nó đang di chuyển nhanh cỡ nào và vân vân. Nên Wolfram Alpha biết rất nhiều thứ. Đến giờ phút này, Wolfram Alpha đã có được gần như tất cả những gì mà bạn có thể tìm thấy trong một thư viện. Nhưng mục đích là để đạt được hơn thế nữa và dân chủ hóa một cách rộng rãi tất cả những kiến thức và trở nên một nguồn thông tin có căn cứ trong mọi lĩnh vực để có thể tính toán ra các câu trả lời cho những câu hỏi cụ thể không phải bằng cách tìm kiếm những gì những người khác có thể đã viết ra từ trước mà bằng cách sử dụng kiến thức có sẵn để tính toán ra các câu trả lời cho các câu hỏi của thể.

 And what's happening here is that Wolfram Alpha is not just looking up something; it's computing, in real time, where the International Space Station is right now at this moment, how fast it's going, and so on. So Wolfram Alpha knows about lots and lots of kinds of things. It's got, by now, pretty good coverage of everything you might find in a standard reference library. But the goal is to go much further and, very broadly, to democratize all of this knowledge, and to try and be an authoritative source in all areas. To be able to compute answers to specific questions that people have, not by searching what other people may have written down before, but by using built in knowledge to compute fresh new answers to specific questions. 

07:54
Tất nhiên, Wolfram Alpha là một dự án khổng lồ, lâu dài với rất nhiều thách thức. Để bắt đầu thì một người phải giáo phó hàng tỷ các nguồn cơ sở và thống kê khác nhau và chúng tôi đã tạo ra một đường ống của sự tự động hóa của Mathematica và các chuyên gia trong lĩnh vực để thực hiện được điều này. Nhưng đó mới chỉ là bắt đầu. Khi có các dữ liệu thống kê để trả lời các câu hỏi, một người phải tính toán, phải sử dụng tất cả các phương pháp và mô hình và phép toán và vân vân mà khoa học và các lĩnh vực khác đã xây dựng nên qua các thế kỷ. Thậm chí kể cả khi bắt đầu từ Mathematica đó vẫn là một lượng công việc lớn. Cho đến bây giờ, có khoảng 8 triệu dòng lệnh từ Mathematica ở Wolfram Alpha viết bởi các chuyên gia từ rất nhiều các lĩnh vực khác nhau.

  Now, of course, Wolfram Alpha is a monumentally huge, long-term project with lots and lots of challenges. For a start, one has to curate a zillion different sources of facts and data, and we built quite a pipeline of Mathematica automation and human domain experts for doing this. But that's just the beginning. Given raw facts or data to actually answer questions, one has to compute: one has to implement all those methods and models and algorithms and so on that science and other areas have built up over the centuries. Well, even starting from Mathematica, this is still a huge amount of work. So far, there are about 8 million lines of Mathematica code in Wolfram Alpha built by experts from many, many different fields. 

08:39
Ý tưởng độc đáo của Wolfram Alpha là các bạn sẽ có thể hỏi các câu hỏi dùng ngôn ngữ con người bình thường, điều này có nghĩa là chúng tôi sẽ phải có thể hiểu được tất cả các cách nói và diễn đạt mà người khác sẽ gõ vào trong mục tìm kiếm và hiểu được chúng. Và tôi phải nói rằng tôi đã nghĩ rằng bước đó sẽ có thể không thực hiện được. Hai sự việc lớn đã xảy ra. Điều đầu tiên là một đống các ý tưởng về ngôn ngữ học đến từ việc nghiên cứu về vụ trụ các phép tính toán. Và điều thứ hai là sự ngộ ra rằng khi có được một ngôn ngữ có thể tính toán được hoàn toàn làm thay đổi cách mà một người có thể hiểu ngôn ngữ. Và tất nhiên, bây giờ với Wolfram Alpha, chúng tha có thể học hỏi bằng cách sử dụng nó. Và đúng thế, đã có một sự đồng phát triển giữa Wolfram Alpha và những người sử dụng. Và điều này thật sự gây khuyến khích. Ngay bây giờ, nếu chúng ta nhìn vào các mục câu hỏi về các trang web, trên 80 phần trăm những câu hỏi đó được trả lời một cách thành công ngay từ đầu. Và nếu các bạn nhìn vào các thứ như các app cho iPhone, tỷ lệ còn cao hơn thế nhiều. Nên tôi khá là hài lòng với nó.

Well, a crucial idea of Wolfram Alpha is that you can just ask it questions using ordinary human language, which means that we've got to be able to take all those strange utterances that people type into the input field and understand them. And I must say that I thought that step might just be plain impossible. Two big things happened: First, a bunch of new ideas about linguistics that came from studying the computational universe; and second, the realization that having actual computable knowledge completely changes how one can set about understanding language. And, of course, now with Wolfram Alpha actually out in the wild, we can learn from its actual usage. And, in fact, there's been an interesting coevolution that's been going on between Wolfram Alpha and its human users, and it's really encouraging. Right now, if we look at web queries, more than 80 percent of them get handled successfully the first time. And if you look at things like the iPhone app, the fraction is considerably larger. So, I'm pretty pleased with it all. 

09:43
Nhưng xét về nhiều mặt, chúng tôi vẫn ở bức tiến ban đầu với Wolfram Alpha. Ý tôi là mọi thứ vẫn đang phát triển lên một cách tốt đẹp. Chúng tôi ngày càng tự tin hơn. Các bạn có thể mong chờ công nghệ Wolfram Alpha xuất hiện ở nhiều và nhiều nơi hơn nữa, làm việc với các dữ liệu công khai như trên trang web và với các nguồn thông tin cá nhân cho các cá nhân và các công ty. Tôi đã nhận ra rằng Wolfram Alpha thật sự đem lại một thể loại tính toán mới mà có thể được gọi là sự tính toán dựa trên kiến thức không phải chỉ là tính toán đơn thuần mà dựa trên một lượng kiến thức khổng lồ có sẵn. Và khi thực hiện điều đó, một người có thể làm thay đổi cả hình thức kinh tế của việc cung cấp các sản phẩm tính toán, dù nó ở trên web hay ở đâu đi nữa.

But, in many ways, we're still at the very beginning with Wolfram Alpha. I mean, everything is scaling up very nicely and we're getting more confident. You can expect to see Wolfram Alpha technology showing up in more and more places, working both with this kind of public data, like on the website, and with private knowledge for people and companies and so on. You know, I've realized that Wolfram Alpha actually gives one a whole new kind of computing that one can call knowledge-based computing, in which one's starting not just from raw computation, but from a vast amount of built-in knowledge. And when one does that, one really changes the economics of delivering computational things, whether it's on the web or elsewhere.


10:24
Hiện chúng tôi đang có một hoàn cảnh khá thú vị. Một mặt, chúng tôi có Mathematica, với ngôn ngữ rõ ràng của mình và một hệ thống to lớn bao gồm các khả năng được thiết kế cẩn thận mà có thể thực hiện được nhiều thứ chỉ qua vài dòng lệnh. Để tôi cho các bạn xem vài ví dụ. Đây là một đoạn lệnh bình thường từ Mathematica. Đây là chỗ mà chúng tôi kết hợp nhiều khả năng lại với nhau. Ở đây, ta sẽ tạo một giao diện ở dòng này mà sẽ cho phép ta làm một cái gì đó thú vị đây. Nếu các bạn tiếp tục, đây là một chương trình phức tạp hơn chút mà làm đủ các phép toán và tạo ra giao diện cho người dùng và vân vân. Nhưng nó là một cái gì đó rất cụ thể. Chi tiết kỹ thuật cụ thể cùng với một ngôn ngữ cụ thể giúp cho Mathematica biết nên làm những gì.

You know, we have a fairly interesting situation right now. On the one hand, we have Mathematica, with its sort of precise, formal language and a huge network of carefully designed capabilities able to get a lot done in just a few lines. Let me show you a couple of examples here. So here's a trivial piece of Mathematica programming. Here's something where we're sort of integrating a bunch of different capabilities here. Here we'll just create, in this line, a little user interface that allows us to do something fun there. If you go on, that's a slightly more complicated program that's now doing all sorts of algorithmic things and creating user interface and so on. But it's something that is very precise stuff. It's a precise specification with a precise formal language that causes Mathematica to know what to do here. 

11:17
Mặt khác, chúng ta lại có Wolfram Alpha cùng với đủ thứ hỗn độn của thế giới và ngôn ngữ con người và những thứ như thế được cấu thành ở bên trong. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đem mọi thứ lại với nhau? Tôi nghĩ rằng đó là một điều tuyệt vời. Với Wolfram Alpha ở bên trong Mathematica, các bạn có thể xây dựng các phần mềm mà sử dụng các số liệu thống kê thực. Đây là một ví dụ đơn giản. Các bạn có thể cho một giá trị vào mơ hồ và sau đó thử và bắt Wolfram Alpha đoán xem các bạn đang nói về cái gì. Hãy thử xem. Tôi nghĩ rằng, thật ra, điều thú vị nhất là Wolfram Alpha thật sự cho chúng ta cơ hội để dân chủ hóa việc lập trình. Ý tôi là, ai cũng sẽ có thể nói bất kỳ cái gì bằng ngôn ngữ thông thường sau đó, Wolfram Alpha sẽ có thể tìm ra được những phần lệnh nào có thể giải quyết được những gì đã được hỏi và sau đó đưa ra các ví dụ mà sẽ cho người sử dụng chọn lấy những gì họ cần để xây dựng nên những phần mềm cụ thể lớn hơn nữa. Đôi khi, Wolfram Alpha sẽ có thể làm mọi thứ ngay lập tức và trả lại một chương trình lớn mà các bạn có thể sử dụng để tính toán. Đây là một trang web lớn nơi mà chúng tôi đã thu thập nhiều thứ về giáo dục và nhiều thứ khác. Tôi sẽ cho các bạn xem một ví dụ. Đây là một ví dụ về một trong những tập tin tính toán ấy. Đây là một mẫu lậnh nhỏ của Mathematica mà chúng ta có thể chạy ở đây.

 Then on the other hand, we have Wolfram Alpha, with all the messiness of the world and human language and so on built into it. So what happens when you put these things together? I think it's actually rather wonderful. With Wolfram Alpha inside Mathematica, you can, for example, make precise programs that call on real world data. Here's a real simple example. You can also just sort of give vague input and then try and have Wolfram Alpha figure out what you're talking about. Let's try this here. But actually I think the most exciting thing about this is that it really gives one the chance to democratize programming. I mean, anyone will be able to say what they want in plain language. Then, the idea is that Wolfram Alpha will be able to figure out what precise pieces of code can do what they're asking for and then show them examples that will let them pick what they need to build up bigger and bigger, precise programs. So, sometimes, Wolfram Alpha will be able to do the whole thing immediately and just give back a whole big program that you can then compute with. Here's a big website where we've been collecting lots of educational and other demonstrations about lots of kinds of things. I'll show you one example here. This is just an example of one of these computable documents. This is probably a fairly small piece of Mathematica code that's able to be run here.

12:43
Ok. Có được môn khoa học mới này, liệu có cách nào để sử dụng nó để tạo ra công nghệ không? Với các vật liệu vật lý, chúng ta đã quen thuộc với việc đi vòng quanh thế giới và phát hiện ra các vật liệu mới mà có ích cho các mục đích công nghệ khác nhau. Chúng ta có thể làm điều tương tự trong vũ trụ của các phép toán. Có một nguồn các phần mềm không đáy ở ngoài kia. Thách thức bây giờ làm sao để thu hoạch chúng cho các mục đích của con người. Một thứ gì đó giống như Rule 30, Rule 30 hóa ra lại là một bộ máy khá tốt trong việc cho ra các số bất kỳ. Các chương trình khác là các mô hình khá tốt cho các quá trình trong thế giới tự nhiện và xa hội. Và Wolfram Alpha và Mathematica hiện giờ có trong mình đầy rẫy các thuật toán mà chúng tôi đã tìm thấy trong quá trình tìm kiếm vụ trụ của các phép toán. Và, vú dụ, cái này -- chúng ta quay lại đây -- Cái này đã trở nên phổ biến một cách lạ thường trong giới nhạc sỹ tìm kiếm các mẫu nhạc bằng cách lục lọi vũ trụ của các phép toán. Chúng ta có thể sử dụng vũ trụ này để đem lại sự sáng tạo tùy biến. Tôi mong rằng chúng ta sẽ có thể sử dụng Wolfram Alpha để thực hiện các phát minh và khám phá và những điều tuyệt với khác mà không nhà kỹ sư nào và không quá trình tiến hóa nào có thể thực hiện được.

 Okay. Let's zoom out again. So, given our new kind of science, is there a general way to use it to make technology? So, with physical materials, we're used to going around the world and discovering that particular materials are useful for particular technological purposes. Well, it turns out we can do very much the same kind of thing in the computational universe. There's an inexhaustible supply of programs out there. The challenge is to see how to harness them for human purposes. Something like Rule 30, for example, turns out to be a really good randomness generator. Other simple programs are good models for processes in the natural or social world. And, for example, Wolfram Alpha and Mathematica are actually now full of algorithms that we discovered by searching the computational universe. And, for example, this -- if we go back here -- this has become surprisingly popular among composers finding musical forms by searching the computational universe. In a sense, we can use the computational universe to get mass customized creativity. I'm hoping we can, for example, use that even to get Wolfram Alpha to routinely do invention and discovery on the fly, and to find all sorts of wonderful stuff that no engineer and no process of incremental evolution would ever come up with.


14:01
Điều này dẫn đến một câu hỏi tối cao. Liệu ta có thể tìm thấy thế giới vật lý của chúng ta ở đâu đó trong vũ trụ các phép toán hay không? Có lẽ có một công thức đơn giản nào đó, một chương trình đơn giản nào đó cho vũ trụ của chúng ta. Lịch sử vật lý sẽ cố gắng thuyết phục ta tin rằng công thức cho vũ trụ quả sẽ phải phức tạp lắm. Nhưng trong vũ trụ các phép toán chúng ta đã thấy được rằng những công thức cực kỳ đơn giản có thể dẫn đến các hoạt động giàu có và phức tạp. Vậy điều gì đang diễn ra với vũ trụ của chúng ta? Nếu các công thức cho vũ trụ là đơn giản, có khả năng cao là chúng sẽ phải rất trừu tượng và cấp thấp, ví dụ như hoạt động dưới cả cấp thời gian và không gian mà rất khó để biểu trưng cho sự vật. Nhưng trong nhiều trường hợp, một người có thể nghĩ răng vũ trụ là một hệ thống mà khi đợt được kích cỡ nhất định sẽ như là một khoảng không gian liên tiếp giống như là hàng loạt các nguyên tố có thể hoạt động như một chất lỏng. Thế nên vũ trụ phát triển bằng cách áp dụng các công thức nhỏ này mà sẽ dần dần làm mới hệ thống. Và mỗi công thức thay mặt cho một vũ trụ.

  Well, so, that leads to kind of an ultimate question: Could it be that someplace out there in the computational universe we might find our physical universe? Perhaps there's even some quite simple rule, some simple program for our universe. Well, the history of physics would have us believe that the rule for the universe must be pretty complicated. But in the computational universe, we've now seen how rules that are incredibly simple can produce incredibly rich and complex behavior. So could that be what's going on with our whole universe? If the rules for the universe are simple, it's kind of inevitable that they have to be very abstract and very low level; operating, for example, far below the level of space or time, which makes it hard to represent things. But in at least a large class of cases, one can think of the universe as being like some kind of network, which, when it gets big enough, behaves like continuous space in much the same way as having lots of molecules can behave like a continuous fluid. Well, then the universe has to evolve by applying little rules that progressively update this network. And each possible rule, in a sense, corresponds to a candidate universe.


15:08
Thật ra, tôi chưa cho các bạn xem, nhưng đây là một vài vũ trụ mà tôi chú ý đến. Một vài trong số này là các vũ trụ không có tương lai, chúng hoàn toàn "vô sinh", với cái căn nguyên như sự vô không, vô thời gian, vô vật chất và các vấn đề khác. Nhưng điều thú vị mà tôi đã tìm được trong vòng vài năm qua là bạn không phải đi xa trong vũ trụ phép toán đến khi bạn có thể bắt đầu tìm thấy các vũ trụ mà không khác vũ trụ chúng ta một cách rõ ràng. Vấn đề là ở đây: Bất kỳ ứng cử viên nào cho vũ trụ của chúng ta hẳn sẽ phải đầy tính tối giản nghĩa là rất khó để tối giản hóa nó để tìm ra nó sẽ hoạt động như thế nào và nó có giống vũ trụ vật lý của chúng ta. Một vài năm trước, tôi đã khám phá ra rằng có các ứng cử viên vũ trụ với các công thức cực kỳ đơn giản mà tái tạo lại một cách thành công thuyết tương đối riêng và thậm chí cả thuyết tương đối tổng quát và trọng lực và ít nhất là cho thấy một vài dấu hiệu về cơ học lượng tử. Vậy ta sẽ tìm được toàn bộ vật lý ư? Tôi không chắc. Nhưng tôi nghĩ là sẽ thật sự xấu hổ nếu ta không thử.

Actually, I haven't shown these before, but here are a few of the candidate universes that I've looked at. Some of these are hopeless universes, completely sterile, with other kinds of pathologies like no notion of space, no notion of time, no matter, other problems like that. But the exciting thing that I've found in the last few years is that you actually don't have to go very far in the computational universe before you start finding candidate universes that aren't obviously not our universe. Here's the problem: Any serious candidate for our universe is inevitably full of computational irreducibility. Which means that it is irreducibly difficult to find out how it will really behave, and whether it matches our physical universe. A few years ago, I was pretty excited to discover that there are candidate universes with incredibly simple rules that successfully reproduce special relativity, and even general relativity and gravitation, and at least give hints of quantum mechanics. So, will we find the whole of physics? I don't know for sure, but I think at this point it's sort of almost embarrassing not to at least try. 

16:19
Đây không phải là một dự án dễ dàng. Sẽ phải xây dựng rất nhiều công nghệ. Sẽ phải xây dựng một hệ thống mà sẽ phải sâu bằng vật lý hiện tại của chúng ta. Và tôi không rõ làm thế nào để sắp xếp toàn bộ mọi thứ. Xây dựng một đội nhóm, khởi đầu dự án, cho các giải thưởng và vân vân. Nhưng hôm nay tôi xin nói với các bạn rằng tôi quyết tâm hoàn thành dự án này để có thể xem xem trong thập kỷ này chúng ta có thể nắm được trong tay chúng ta công thức cho vũ trụ của chúng ta hay không và để biết được rằng vũ trụ chúng ta nằm ở đâu trong khoảng không gian của các vũ trụ -- và để ta có thể gõ vào Wolfram Alpha "thuyết vũ trụ" và bắt nó trả lời cho chúng ta.

Not an easy project. One's got to build a lot of technology. One's got to build a structure that's probably at least as deep as existing physics. And I'm not sure what the best way to organize the whole thing is. Build a team, open it up, offer prizes and so on. But I'll tell you, here today, that I'm committed to seeing this project done, to see if, within this decade, we can finally hold in our hands the rule for our universe and know where our universe lies in the space of all possible universes ... and be able to type into Wolfram Alpha, "the theory of the universe," and have it tell us. 

16:53
(Tiếng cười)

16:56
Tôi đã làm việc với cái ý tưởng về các phép toán đã hơn 30 năm nay, xây dựng các công cụ và phương pháp và biến các ý tưởng thành hàng triệu các dòng lệnh và thành lúa mỳ cho các nông trại các máy chủ và vân vân. Cứ mỗi năm trôi qua, tôi càng hiểu thêm rằng ý tưởng về sự tính toán hùng mạnh đến cỡ nào. Nó đã đem ta đi rất xa nhưng còn rất nhiều thứ nữa đang đợi chờ. Từ các nền tảng khoa học cho đến các giới hạn về công nghệ đến tận định nghĩa về điều kiện của con người, tôi nghĩ rằng các phép tính toán đã được định chức phận để trở thành một ý tưởng xác định của tương lai chúng ta.

So I've been working on the idea of computation now for more than 30 years, building tools and methods and turning intellectual ideas into millions of lines of code and grist for server farms and so on. With every passing year, I realize how much more powerful the idea of computation really is. It's taken us a long way already, but there's so much more to come. From the foundations of science to the limits of technology to the very definition of the human condition, I think computation is destined to be the defining idea of our future. 

17:27
Cảm ơn các bạn.
Thank you.

17:29
(Applause)
17:29
(Vỗ tay)

17:43
Chris Anderson: Thật là kinh ngạc. Anh đứng lại đây chút. Tôi có một câu hỏi.

Chris Anderson: That was astonishing. Stay here. I've got a question. 

17:47
(Vỗ tay)

(Applause)

17:53
Bài nói của anh thật đáng kinh ngạc. Anh có thể nói trong một hai câu làm sao để kiểu suy nghĩ này có thể một lúc nào đó hòa nhập với những thứ như thuyết dây và những thứ mà người ta cho rằng là những lời giải thích căn bản cho vũ trụ?

 So, that was, fair to say, an astonishing talk. Are you able to say in a sentence or two how this type of thinking could integrate at some point to things like string theory or the kind of things that people think of as the fundamental explanations of the universe? 

18:10
Stephen Wolfram: Thì, các phần về vật lý mà chúng ta đã biết là đúng, những thứ như các mô hình vật lý cơ bản. Những gì tôi đang cố gắng làm là tái tạo lại một mô hình chuẩn cho vật lý nếu không thì sai hẳn. Những thứ mà người ta đã cố làm trong vòng 25 năm qua với thuyết dây và vân vân đã là một sự khám phá thú vị mà đã cố gắng quay trở lại với mô hình tiêu chuẩn nhưng chưa hẳn đến nơi. Tôi cho rằng với một ít sự đơn giản hóa những gì tôi đang làm có thể sẽ có phần nào cộng hưởng với những gì đã được làm với thuyết dây, nhưng đó là một thứ phức tạp liên quan đến toán mà tôi không biết nó sẽ ra sao nữa.

Stephen Wolfram: Well, the parts of physics that we kind of know to be true, things like the standard model of physics: what I'm trying to do better reproduce the standard model of physics or it's simply wrong. The things that people have tried to do in the last 25 years or so with string theory and so on have been an interesting exploration that has tried to get back to the standard model, but hasn't quite gotten there. My guess is that some great simplifications of what I'm doing may actually have considerable resonance with what's been done in string theory, but that's a complicated math thing that I don't yet know how it's going to work out.


18:46
CA: Benoit Mandlebrot đang ở trong hội trường. Ông ấy cũng đã cho thấy sự phức tạp cũng có thể xuất hiện từ đầu. Công việc của anh có liên quan đến điều đó không?

 CA: Benoit Mandelbrot is in the audience. He also has shown how complexity can arise out of a simple start. Does your work relate to his?   

18:54
SW: Tôi nghĩ là có. Tôi xem công việc của Benoit Mandlebrot như sự đóng góp nền tảng cho lĩnh vực này. Benoit đã rất chú ý đến các mô hình lồng nhau, "fractal" và vân vân nơi mà cấu trúc là một thứ gì đó giống như mô hình cây và nơi mà có một nhánh lớn sẻ ra các nhánh nhỏ và thậm chí thêm các nhánh nhỏ khác và vân vân. Đó là một trong những cách mà bạn tiến đến sự phức tạp thật sự. Tôi nghĩ rằng những thứ như Công thức 30 dẫn chúng ta đến một cấp bậc khác. Thật ra, cách mà chúng ta lên một cấp bậc khác bởi vì chúng là những thứ phức tạp phức tạp thật sự.

 SW: I think so. I view Benoit Mandelbrot's work as one of the founding contributions to this kind of area. Benoit has been particularly interested in nested patterns, in fractals and so on, where the structure is something that's kind of tree-like, and where there's sort of a big branch that makes little branches and even smaller branches and so on. That's one of the ways that you get towards true complexity. I think things like the Rule 30 cellular automaton get us to a different level. In fact, in a very precise way, they get us to a different level because they seem to be things that are capable of complexity that's sort of as great as complexity can ever get ...    

19:40
Tôi có thể nói thêm nhiều, nhưng tôi sẽ dừng ở đây

I could go on about this at great length, but I won't. (Laughter) (Applause) 

19:43
CA: Stephen Wolfram, cảm ơn anh.

CA: Stephen Wolfram, thank you.

19:45
(Vỗ tay)
(Applause) 


Translated by LD .
Reviewed by Ha Tran

Nguồn :  http://www.ted.com/speakers/stephen_wolfram


.-------------------------------------------------------------------------------------------

Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

Geothe



Thứ Năm, 20 tháng 8, 2015

BẢN GIAO HƯỞNG DANG DỞ CỦA ALBERT EINSTEIN .


BẢN GIAO HƯỞNG DANG DỞ CỦA ALBERT EINSTEIN .

Lắng nghe giai điệu không-thời gian




Tác giả
Marcia Bartusiak



Một thế hệ các đài quan sát mới  hiện đang được hoàn thành trên toàn thế giới, sẽ cung cấp cho các nhà thiên văn không chỉ là một cửa sổ nhìn vào vũ trụ, mà còn là một cảm giác hoàn toàn mới lạ mà với điều ấy có thể khám phá và trải nghiệm các tầng trời phía trên chúng ta. Thay vì thu thập những sóng ánh sáng hoặc sóng vô tuyến, những dụng cụ hiện đại sẽ cho phép các nhà thiên văn cuối cùng sẽ đặt tay mình lên trên các cấu trúc không-thời gian và cảm nhận được nhịp điệu rất đẹp của vũ trụ.

Những dao động trong không -thời gian hoặc sóng hấp dẫn -là những dự báo gần đây của lý thuyết tổng quát Einstein vẫn chưa được quan sát trực tiếp. Chúng là những bản giao hưởng dở dang của ông , hiện vẫn đang chờ đợi gần một thế kỷ để được lắng nghe .Cuối cùng khi chúng đã tiết lộ bản thân cho các nhà thiên văn, chúng ta sẽ lần đầu tiên có thể nghe đến các tai nạn chập chỏa từ các vụ nổ sao, hòa hợp trong các nhịp đập định kỳ từ các pulsar quay tít , lắng nghe những tiếng líu lo mở rộng từ việc sáp nhập hai lỗ đen, và thu nhận được những tiếng vọng còn sót lại từ những cú xóc mạnh của bản thân vụ nổ Big Bang.

Khi Einstein đưa ra thuyết tương đối tổng quát vào năm 1915, đó được xem là một thành tích có tính chất khái niệm rất quan trọng. Einstein trở nên cực kỳ nổi tiếng. Nhưng, theo Marcia Bartusiak , một khi các nhà khoa học xác nhận những điều khả dĩ của lý thuyết này, vốn đã đưa ra những thí nghiệm ít ỏi còn thiếu sót vào thời điểm đó, thuyết tương đối đã trở thành " một sự tò mò cực lớn về lý thuyết" .

Ngày nay , sau nhiều thập kỷ tiến bộ về công nghệ, thuyết tương đối tổng quát đang được thử nghiệm với độ chính xác chưa từng có. Thậm chí nó còn ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của chúng ta.Các vệ tinh được cả khách du lịch và binh sĩ trong quân đội sử dụng để xác định vị trí của họ , đòi hỏi phải liên tục điều chỉnh các khái niệm chính xác của Einstein. Trong khi đó, "kính viễn vọng" dựa trên sóng  hấp dẫn đầu tiên -bao gồm các cơ sở LIGO (Laser Interferometer Gravitational-Wave Observatory - giao thoa kế laser quan sát sóng hấp dẫn)- dần sắp trở nên hiện thực.

Trong bản giao hưởng dở dang này của Einstein, tác giả Bartusiak nắm được sự phấn khích giống như hai đài quan sát sóng hấp dẫn ở bang Louisiana và Washington, cũng như những người khác đang nghiên cứu ở Italy, Đức , Nhật Bản và các nhà vật lý học đã bắt đầu tăng tốc công việc của mình để khảo sát các chấn động từ ​​lâu được dự đoán trong không-thời gian.

Từng chương một , Bartusiak lần lượt đưa ra những ẩn dụ âm nhạc của mình trong việc truy tìm những câu chuyện về thuyết tương đối tổng quát, từ lúc "Maestro-Nhạc trưởng" Einstein đi vào vật lý, xuyên qua "Bản luân vũ ánh sáng vì sao -Starlight Waltz" của các ngôi sao neutron tự xoắn không-thời gian xung quanh mình, cho đến những hợp âm "mâu thuẫn " của sự tranh cãi khi các nhà vật lý đang đấu tranh để có được đài quan sát hoàn toàn mới của họ đã được phê duyệt, đến "Chương kết - Finale" như một nỗ lực toàn cầu trong việc nghiên cứu thiên văn sóng hấp dẫn .


Trần hồng Cơ
Biên dịch
Nguồn  :  http://www.nap.edu/catalog/9821/einsteins-unfinished-symphony-listening-to-the-sounds-of-space-time


------------------------------------------------------------------------------------------- 

Trên đời không gì vĩ đại bằng con người. Trong con người không gì vĩ đại bằng trí tuệ. 

A.Hamillton

Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2015

Thomas Edison - Nhà phát minh lỗi lạc .


 Thomas Edison - Nhà phát minh lỗi lạc .


Thomas Edison holding his right hand to his right ear.
Thomas Edison smiling as he holds his hand to his ear.
Thomas Edison NHP Archives

Thomas Edison (1847 - 1931) nhà phát minh số một của Hoa Kỳ và thế giới

1. Thời thơ ấu
Vào khoảng tháng 12 năm 1837, Đại Úy William L. Mackenzie và các đồng chí trong đó có ông Samuel Edison, đã tổ chức một cuộc cách mạng, định đánh chiếm thành phố Toronto thuộc Gia Nã Đại nhưng mưu sự không thành. Để tránh sự lùng bắt, ông Samuel Edison phải trốn sang Michigan, Hoa Kỳ, rồi lưu lại Detroit vì thời bấy giờ, chính phủ Gia Nã Đại dự định lưu đầy các phạm nhân chính trị sang Tasmania, châu Úc.

Sau khi mang được gia đình gồm vợ và hai con sang Hoa Kỳ vào đầu năm 1839, ông Samuel Edison dời nhà tới Milan, thuộc tiểu bang Ohio. Milan là một thị trấn nhỏ bên giòng sông Huron, cách hồ Erie vài dặm đường. Tại Milan, công việc buôn bán khá sầm uất. Từ nơi đây người dân chở đi nào ngũ cốc, rau trái, nào củi gỗ và các nông sản khác. Ông Samuel Edison dựng nên tại nơi đây một xưởng cưa và công việc làm ăn khá phát đạt. Chính tại nơi cư ngụ mới này, gia đình Edison đã có thêm một đứa trẻ vào ngày 11/2/1847. Ông Samuel đặt tên cho đứa bé là Thomas Alva Edison để ghi nhớ Đại Úy Alva Bradley đã có công giúp đỡ gia đình Samuel sang Hoa Kỳ.

Alva hay Al, tên gọi tắt, là một đứa trẻ có cái đầu to khác thường khiến cho bác sĩ bảo cậu sẽ bị đau óc nhưng điều tiên đoán này đã trở thành sai lầm và thực ra, chính bộ óc của Al sau này đã làm tiến triển ngành Kỹ Thuật của Nhân Loại.

Càng lớn, Al càng tỏ ra hiếu kỳ. Cậu thường đặt các câu hỏi “tại sao, thế nào... “ và các câu thắc mắc không bao giờ hết của cậu đã khiến cho những người chung quanh đành phải trả lời “không biết”. Khi lên 5 tuổi, Al thường lang thang bên bờ sông mà coi người lớn làm việc. Tại nơi này, cậu được nghe nhiều bài hát và đã thuộc lòng rất nhanh các câu ca bình dân, điều này chứng tỏ Al có một trí nhớ rất tốt và nhờ trí nhớ này mà về sau, cậu thu thập được nhiều kiến thức sâu rộng.


Vào năm 1850, đường xe lửa được đặt tại nhiều nơi trên đất Hoa Kỳ. Tại Milan, các bô lão từ chối không cho phép đường sắt đi qua làng mình vì e ngại công việc làm trên sông bị tê liệt. Vì thế đường xe lửa chỉ được thiết lập tại phía bắc tiểu bang Ohio và cũng do vậy, thị trấn Milan trở nên kém sầm uất. Ông Samuel đành phải đóng xưởng cưa và dọn nhà qua Port Huron, thuộc tiểu bang Michigan vào năm 1854. Tại Port Huron, ông Samuel buôn bán ngũ cốc, củi gỗ và cũng trồng rau và trái cây. Năm lên 8 tuổi, Al từng giúp cha, chất rau trái lên một chiếc xe ngựa và đi bán hàng từng nhà trong thị xã.

Al cũng được cha mẹ cho đi học tại một ngôi trường độc nhất. Trường chỉ có một lớp với khoảng 40 học sinh, lớn có, nhỏ có, học một ông giáo theo các trình độ khác nhau. Trong phòng học những chỗ ngồi gần ông thầy chỉ để dành cho các trẻ em ngu đần. Tại lớp học, Al đặt rất nhiều câu hỏi hắc búa mà lại không chịu trả lời các câu hỏi của thầy. Al thường đội sổ, khiến cho các bạn cậu chế riễu cậu là đần độn.

Một hôm, nhân có viên thành tra vào thăm lớp học, thầy giáo đã chỉ vào Al và nói : “trò này điên khùng, không đáng ngồi học lâu hơn”. Al rất căm hận về hai chữ “điên khùng” và đem câu chuyện này kể lại với mẹ. Bà Nancy khi nghe kể xong, liền nổi giận, bà dẫn ngay Al đến trường và bảo ông giáo : “ông bảo con tôi điên khùng hả? Tôi nói thật cho ông rõ, trí óc của nó còn hơn ông đấy. Tôi sẽ giữ nó tại nhà và dạy lấy, vì tôi đã là giáo viên, để ông thấy rằng sau này nó sẽ ra sao!”.

Từ đó, Alva không đến trường nữa mà học với mẹ tại nhà trong suốt 6 năm trường. Nhờ mẹ, Al học dần các môn Lịch Sử của Hy Lạp, La Mã và Sử Thế Giới. Al cũng được làm quen với Thánh Kinh, với các tác phẩm của Shakespeare và của các văn sĩ, thi sĩ, sử gia danh tiếng khác. Nhưng đặc biệt nhất, Al ưa thích Khoa Học. Cậu có thể kể lại rành mạch các phát minh, các thí nghiệm và tiểu sử của các đại bác học như Newton, Galileo. . . Chỉ trong vòng 6 năm, bà Nancy đã truyền lại cho con tất cả kiến thức của mình, từ môn Địa Dư với những tên núi sông, tới môn Toán Học chính xác. Bà Nancy không những dạy con về học vấn mà còn huấn luyện Al về hạnh kiểm. Al được mẹ nhắc nhở các đức tính thật thà, ngay thẳng, tự tin và cần cù, cộng với lòng ái quốc và tình yêu nhân loại.

Al học hành tiến bộ rất nhanh chóng khiến cho cha rất hài lòng. Ông Samuel thường cho con các món tiền nhỏ đủ mua dần từng cuốn sách hữu ích, nhờ thế Al đã say sưa với các tác phẩm như Ivanho của Scott, Robinson Crusoe của Defoe và Oliver Twist của Dickens. Nhưng tác giả mà Al ưa thích nhất là Victor Hugo và cậu thường kể lại cho các bạn nghe các câu chuyên đã đọc qua.

Năm 10 tuổi, Al được cha cho cuốn sách toát yếu về Khoa Học của soạn giả Parker (School Compendium of Natural and Experimental Philosophy by Richard Green Paker). Trong cuốn sách toát yếu này, Paker đã giảng giải về máy hơi nước, máy điện báo, cột thu lôi, pin Volta. . . Cuốn sách đã trả lời Al rất nhiều điều mà từ trước, Al vẫn thường thắc mắc. Cuốn sách này đã dẫn đường cho Al tới phạm vi rộng lớn của Khoa Học và khiến cho cậu yêu thích môn Hóa Học.


2. Thời kỳ thực tập.

Năm 12 tuổi, Al nói với cha mẹ : “Thưa cha mẹ, con hiện nay cần nhiều tiền, cha mẹ cho phép con đi xin việc làm”. Hai ông bà Edison đã ngăn cản con vì lo sợ Al sẽ gặp phải các rủi ro, hơn nữa công việc kiếm ăn sẽ làm trở ngại sự học nhưng Al đã quyết định rồi, cậu nằng nặc đòi cha mẹ cho phép thử tự lập và hứa rằng sẽ hết sức thận trọng.

Thời bấy giờ, công ty xe lửa Grand Trunk thiết lập một ga nhỏ tại Port Huron. Al xin được phép bán báo, tạp chí, sách vở, trái cây và bánh kẹo trên xe lửa chạy quãng đường Port Huron và Detroit dài 101 cây số. Từ đó cậu bé 12 tuổi này mỗi tháng thức dậy lúc 6 giờ để đáp chuyến xe lửa 7 giờ và tới Detroit lúc 10 giờ. Thông thường tới Detroit, Al vội vã đến thư viện và nghiền ngẫm trong nhiều giờ các cuốn sách mà cậu không thể tìm thấy tại nơi mình cư ngụ. Al tập dần cách đọc nhanh và cậu quyết định bắt đầu đọc các sách của các tác giả từ vần A cho tới hết 16,000 cuốn của thư viện. Tới 6 giờ chiều, Al lại ra xe và trở về Port Huron lúc 9 giờ 30 tối. Ít khi Al đi ngủ trước 11 giờ đêm vì cậu còn phải làm các thí nghiệm hóa học trong hơn một giờ đồng hồ.

Trong thời gian bán báo và kẹo bánh trên xe lửa, Al làm quen được nhiều người gồm các chuyên viên điện báo, các công nhân và nhân viên nhà ga. Cậu được các người này giúp đỡ trong nhiều trường hợp khó khăn.

Vào năm 1861, cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ bùng nổ. Các trận đánh càng ác liệt thì số báo lại càng bán chạy. Al bèn nghĩ tới việc bán báo tại tất cả các nhà ga phụ. Vào ngày 01 tháng 4 năm 1862, tờ báo Free Press loan tin trận đánh quyết định tại Shiloh trong tiểu bang Tennessee. Al liền chạy vội tới tòa báo Free Press là tờ báo lớn nhất tại Detroit và hỏi mua 1,000 tờ trả tiền sau, rồi Al và hai người bạn vác báo lên tầu. Tại các ga đầu, số báo bán được còn ít ỏi nhưng càng đi xa hơn, số người hỏi mua báo càng gia tăng khiến cho Al nghĩ cả đến việc tăng giá báo từ 5 xu tới 10 xu, rồi sau cùng bán tới 25 xu một tờ. Nội trong ngày hôm đó, Al đã bán hết 1,000 tờ báo trước khi tới Port Huron và thu được hơn 100 đô la, một số tiền lớn nhất mà cậu kiếm được từ trước tới nay.


3. Ông chủ báo nhỏ tuổi và điện tín viên.

Một sáng kiến khác lại nẩy ra trong đầu óc của cậu bé đầy nghị lực này : Al định ra báo. Cậu liền mua một máy in quay tay và cậu thiết lập thêm trong toa hành lý “một cơ sở báo chí” nữa. Al đã cho ra đời tờ tuần báo khổ nhỏ có tên là “The Weekly Herald” (Diễn Đàn Hàng Tuần). Viên chủ nhiệm nhỏ tuổi này nhận thấy không thể cạnh tranh với các báo chí tại Detroit về các tin tức chiến sự nên quyết định chỉ phổ biến mọi tin xẩy ra trong vùng dọc theo hai bên con đường sắt. Cậu thu lượm tin tức nhờ các chuyên viên điện báo địa phương. Al vừa là chủ nhiệm, quản lý, vừa là ký giả, thợ in và người bán báo. Từ đó tuần báo The Weekly Herald 2 trang, được in mỗi mặt 3 cột. Ngoài các tin tức địa phương, Al còn cho phổ biến các tin về hiếu hỉ, các tai nạn, hỏa hoạn. . .

Báo của Al bán được khá chạy. Ngay ở số đầu tiên đã tiêu thụ được chừng 400 tờ trong một tháng. Al còn nhận cả việc quảng cáo trên báo nữa. Tuần báo The Weekly Herald đã có lần được bán cho nhà phát minh người Anh là ông Stephenson khi viên kỹ sư này một hôm đi trên chuyến xe lửa qua miền Port Huron. Ông Stephenson đã ngợi khen các ý tưởng của Al và ông quả quyết rằng báo của cậu cũng giá trị như các báo của những người lớn gấp đôi tuổi.

Muốn làm gia tăng số độc giả, Al cho thêm vào tuần báo một đề mục chuyện nói chuyện ngồi lê mách lẻo và ký dưới tên hiệu Paul Pry (Paul, người tọc mạch). Al đã dùng báo chí của mình để chỉ trích một vài người trong vùng và cậu đã cẩn thận ghi tên của họ bằng mẫu tự đầu tiên. Nhưng quãng đường 101 cây số rất ngắn ngủi, không thể giúp Al tránh khỏi sự săn đuổi của những nạn nhân bị chế nhạo. Rồi vào một ngày đẹp trời, khi Al đang đi bộ trên bờ sông Saint Clair, bỗng có một người vạm vỡ tiến lại gần Al, túm cổ viên chủ nhiệm nhỏ tuổi, ném xuống sông. Al ngoi lên bờ, quần áo ướt như chuột. Bực mình vì bị một số độc giả luôn rình rập quấy rầy, Al quyết định ngưng việc làm báo.

Vào một buổi sáng tháng 8 năm 1862, Al đứng nói chuyện với ông Mackenzie, nhân viên nhà ga kiêm chuyên viên điện báo. Ông Mackenzie có một đứa con trai 2 tuổi rưỡi, tên là Jimmy, thường hay lân la chơi tại sân ga. Khi đang trò chuyện, bỗng Al trông thấy Jimmy đang đi dọc theo đường sắt trong khi đó, một toa xe goòng đang phóng đến. Nhận thấy sự nguy hiểm trước mắt, Al liền lao mình tới chỗ đứa bé, ôm lấy nó mà lăn ra phía ngoài. Để đền đáp ơn cứu tử đứa con của mình, ông Mackenzie nhận dạy Al nghề điện báo và hứa sẽ xin việc cho cậu khi nào Al thành thạo.

Từ đó Al bắt đầu bỏ ra mỗi ngày 18 giờ để học về điện báo và chữ Morse. Chỉ trong vài tuần lễ, Al đã theo kịp tất cả các tín hiệu do ông Mackenzie đánh đi. Sau 3 tháng học hỏi, không những Al tiến bộ đến nỗi ông Mackenzie phải gọi Al là chuyên viên điện báo hạng nhất, và Al còn chế tạo được một máy điện tín có đầy đủ tính cách toàn hảo cũng như cho phép người xử dụng máy gửi điện tín đi thật nhanh chóng.

Trong thời kỳ Nội Chiến Nam Bắc Mỹ, hàng trăm điện tín viên bị gọi nhập ngũ vào các đội truyền tin. Kết quả của sự kiện này là các công ty thương mại cũng như hỏa xa thiếu chuyên viên. Vì thế xin một chân làm việc về điện tín là một điều dễ dàng và một người mới học nghề cũng có thể kiếm được việc. Vào khoảng năm 1864, Al nhận thấy có đủ khả năng nhận một chân điện tín viên nên từ bỏ nghề bán báo và tới Stradford, Gia Nã Đại, xin làm việc vào tháng 5. Al trở thành điện tín viên tại ga Stratford này và lãnh lương mỗi tháng 25 đô la.

Từ năm 1864 tới năm 1868, Al đã làm việc tại nhiều nơi như New Orleans, Indianapolis, Louisville, Memphis và Cincinnati. . . Chàng thanh niên này cũng bắt đầu bỏ cách gọi tắt là Al mà dùng tới tên chính là Thomas hay cách gọi thân mật là Tom.

Thomas Edison bây giờ là một chàng thanh niên khỏe mạnh, nhiều thiện cảm và vui tính. Sự cởi mở, lòng chân thật đã khiến Tom có nhiều bạn nhưng cách làm việc đặc biệt của Tom đã khiến cho các bạn bè cho chàng là người kỳ quặc. Tom ăn mặc giản dị, quần áo cũ kỹ và dính mực, đôi giày của chàng mòn đế cũng không khiến chàng nghĩ đến việc thay đôi mới. Vào mùa lạnh, Tom cố chịu rét hơn là bỏ tiền mua một áo choàng bằng nỉ vì chàng đã dồn tiền vào việc mua sắm các sách vở khoa học và dụng cụ thí nghiệm.

Vào đêm hôm 14/ 4/1865, cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ chấm dứt, làm cho hàng trăm điện tín viên mất việc. Tom Edison trở về Louisville rồi tới cuối năm 1868, từ biệt cha mẹ đi Boston để nhận chân chuyên viên điện tín. Năm 21 tuổi, Tom thực hiện được phát minh đầu tiên, đó là một máy đầu phiếu. Tom gửi sáng kiến này tới Phòng Văn Bằng Sáng Chế rồi đưa trình lên Quốc Hội, nhưng vào thời đó không nghị sĩ nào ưa thích thứ máy móc tân kỳ đó. Mặc dù thất bại, Tom lại bắt đầu làm nhiều việc khác. Chàng đã chế ra được một máy điện báo cùng một lúc gửi đi hai điện tín trên một đường dây.



4. Thời kỳ thành công.

Vào một buổi sáng tháng 6 năm 1869, con tầu khởi hành từ Boston tiến dần vào hải cảng New York. Edison, chàng thanh niên 22 tuổi, đứng trên boong tầu, mơ màng nhìn vào thành phố xa lạ, không người quen biết, trong túi không có một đồng nào bởi vì chàng đang mang nợ 800 đô la. Edison rời Boston với hai bàn tay trắng vì chàng đã để lại tất cả các dụng cụ thí nghiệm cùng sách vở cho chủ nợ, hứa sẽ trở lại lấy khi có đủ tiền thanh toán. Nhưng có nhiều thứ mà không ai có thể lấy bớt được ở chàng, đó là lòng cam đảm, ý chí theo đuổi mục đích, học vấn và kinh nghiệm kỹ thuật cùng với các đức tính khác mà chàng đã thu lượm được vào thời niên thiếu.

Ngày đầu tiên tại New York, Tom đi tới tất cả các cơ sở điện báo để tìm kiếm người quen và đã vay mượn được một đô la. Sống với đồng tiền nhỏ mọn này cho tới ngày thứ ba, Tom khi đi qua Công Ty Hối Đoái Gold Indicator thì thấy hàng trăm người đang chen chúc chờ đợi. Tom tiến lại gần thì được biết rằng chiếc máy ghi giá vàng bị trục trặc và vì thế thị trường vàng hoàn toàn bị trở ngại. Khi đó viên giám đốc của công ty, Bác Sĩ Laws, đang la ầm lên : “Tôi trả lương cho hàng tá người mà chẳng ai làm được việc gì ! Ôi, tôi chỉ cần một người thợ có tài là đủ!”. Nghe thấy vậy, Tom tiến lại gần ông Laws và nói : “Thưa ông, tôi không phải là thợ của ông nhưng tôi tự xét có thể sửa chữa được chiếc máy”. Trong vòng hai giờ, chiếc máy do Tom sửa chữa lại chạy đều như trước. Ngày hôm sau, sau khi khảo sát khả năng, Bác Sĩ Laws đã thuê Tom làm quản đốc kỹ thuật với lương tháng 300 đô la.

Mặc dù lương bổng cao, Tom Edison luôn chán nản trước hoàn cảnh làm công cần cù vì trong đầu óc của chàng đang chứa đựng hàng tá sáng kiến sôi động. Trong khoảng thời gian làm việc tại công ty hối đoái, Edison được gặp Franklin L. Pope và hai người bàn với nhau hợp tác trong một công cuộc kinh doanh. Ngày 01/ 10/1869, Edison và Pope lập ra xưởng điện cơ và điện báo rồi ít lâu sau, lại có J. N. Ashley của tờ báo Telegraph cộng tác. Để sống gần người bạn cộng sự, Edison dọn nhà tới thị xã Elizabeth, thuộc tiểu bang New Jersey. Vì muốn tiết kiệm thời giờ dùng cho các công việc cần thiết, Edison tự luyện tập các giấc ngủ thật ngắn, mỗi ngày ngủ 3 hay 4 lần. Ngoài 5 giờ để ngủ, thời gian được chàng dùng cho các cải tiến kỹ thuật và công việc chuyên môn.

Vào thời bấy giờ, điện tín được ghi bằng các chấm và gạch in trên những băng giấy dài, rồi người ta lại phải chép tay ra các bản điện tín trước khi gửi cho người nhận. Nếu có cách nào in bằng chữ lên các phiếu điện tín, người ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian vô giá. Điều này làm Edison suy nghĩ. Vì Edison nổi tiếng về giỏi Kỹ Thuật, Tướng Marshall Lefferts, giám đốc công ty Gold and Stock Telegraph liền nhờ Edison biến đổi loại máy thường ra máy điện tín in chữ. Sau vài tháng tìm tòi, Edison đã thành công và lấy bằng phát minh vào năm 1869. Máy móc mới này của Edison vừa giản dị hơn, vừa chính xác hơn loại cũ nên đẵ khiến ông Lefferts đề nghị mua lại bằng sáng chế.

Công việc làm ăn của Edison tăng lên một cách rất nhanh chóng khiến chàng và các hội viên khác đồng ý đổi cơ xưởng cũ thành Công Ty Điện Báo Tự Động (The Automatic Telegraph Co.). Lúc đầu chàng chỉ mướn 18 người thợ rồi số thợ tăng lên dần tới 50 và sau này tới 250 người. Nhiều người làm việc với Edison đã trở nên các kỹ sư tài ba và đã cộng tác với chàng cho tới chết. Edison chia thợ ra từng toán, làm từng phiên cả sáng lẫn đêm. Mặc dù mới 23 tuổi, Edison được nhiều người tặng cho biệt hiệu “lão già” vì chàng điều kiển nhóm chuyên viên của mình một cách chín chắn, đôi khi hơi tàn ác nhưng ngược lại, chàng trả lương các nhân viên rất hậu, căn cứ vào tài khéo và thời gian làm việc vì chàng muốn họ đóng góp với tất cả lương tâm nghề nghiệp.

Vóc người mập mạp, Thomas Edison có đôi mắt sắc sảo dưới hàng mi rậm rạp và chiếc trán rộng. Với dáng đi nặng nề, chàng đi đi, lại lại trong xưởng, quần áo vừa bẩn lấm, vừa tả tơi, mang vào mình hình ảnh một tên vô nghề nghiệp hơn là một viên đốc công, một vị giám đốc và cũng là một kỹ nghệ gia đầy tương lai hứa hẹn. Thực vậy, người ta phải ngạc nhiên về cơ xưởng của Edison, không những do các hoạt động mà còn vì giờ giấc. Edison đã treo trong xưởng tất cả 6 chiếc đồng hồ, chỉ các giờ giấc khác nhau và nhân viên của chàng thường theo chàng làm đến hết việc chứ không phải hết giờ. Trong khoảng thời gian từ năm 1870 tới 1876, bắt đầu với tuổi 23, Thomas Edison đã cầu chứng 122 phát minh và như thế, mỗi tháng trung bình chàng có hơn một sáng kiến được thực hiện.

Vào thời kỳ của phát minh thứ 46, Thomas Edison được nghe người ta kể lại rằng Christopher Sholes tại Milwakee đang thí nghiệm về một thứ máy móc gọi là “máy đánh chữ”. Vì biết rằng thứ máy mới này sẽ góp phần to lớn trong việc chế tạo máy điện báo tự động, Edison liền mời Sholes mang mẫu máy tới Newark và chàng đã đề nghị nhiều sửa đổi hợp lý. Công Ty The Automatic Telegraph là nơi đầu tiên chế tạo máy đánh chữ rồi dùng nó trong văn phòng và chiếc máy đánh chữ đó đã mở đường cho các máy Remington mà sau này được dùng trên khắp thế giới. Nếu Morse phát minh ra máy điện báo thì Edison lại góp vào đó rất nhiều cải tiến quan trọng khiến cho chính Morse cũng khó nhận ra được phát minh của mình. Không những Edison hoàn thành máy điện báo kép cho phép gửi đồng thời 2 điện tín trên cùng một đường dây mà còn phát minh ra một phương pháp gửi đồng thời 4 hay 5 điện tín. Edison còn cứu vãn Công Ty Western Union khỏi bị phá sản bằng một hệ thống truyền tin mới.

Vào một buổi chiều năm 1870, Edison ngồi một mình trong văn phòng. Các thợ thuyền đã ra về trong khi nhà phát minh còn nán lại vì chàng muốn ghi chép cho xong các nhận xét về một thứ máy đang hoàn thành. Edison định ra về thì một trận mưa lớn đổ xuống. Lúc ra cửa, chàng gặp hai thiếu nữ đứng trú mưa tại lối đi. Edison liền tự giới thiệu : “Tôi là Thomas Edison, chủ nhân tiệm này. Xin mời các cô vào văn phòng chờ hết mưa. Tôi sẽ đi thắp đèn lên”. Một thiếu nữ trả lời chàng : “Chúng tôi không dám phiền ông, ông Edison ạ. Tôi là Mary Stilwell, còn đây là em Alice của tôi”. Edison cúi chào hai thiếu nữ và nói chuyện xuông với hai chị em Stilwell cho qua thời giờ. Nhưng ánh mắt trong sáng, khuôn mặt xin xắn và cử chỉ thanh lịch của Mary đã làm tâm hồn Edison xao xuyến.

Từ đây, Edison không thể quên hình ảnh của Mary. Chàng hỏi dò bạn bè thì được biết Mary là một giáo viên tại Newark. Edison liền nhờ bạn đưa lại thăm gia đình Stilwell và sau buổi viếng thăm, chàng thấy rằng mình đã tìm được người vợ mong ước. Sau đó, Edison thường cùng Mary đi coi hát, dự các buổi hòa tấu nhạc hay đi cắm trại ngoài trời. Sau một năm trường chờ đợi sự ưng thuận của gia đình Stilwell, Edison đã cử hành hôn lễ với Mary vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1871.

Cuối năm 1871, Edison đã có ba tiệm khác nhau tại Newark. Ba cơ xưởng ở rải rác trong một thành phố lớn đã làm mất nhiều thời giờ và năng lực quý báu của nhà phát minh. Vì vậy Edison quyết định tìm kiếm nơi xây cất một cơ xưởng lớn hơn cách Newark 40 cây số. Menlo Park là một ga nhỏ trong tiểu bang New Jersey nhưng khá yên tĩnh, thích hợp cho nhà phát minh làm việc. Ngày 3/ 01/1876, công cuộc xây cất bắt đầu. Edison đã phác họa từng chi tiết cho đồ án phòng thí nghiệm và cơ xưởng.

Cũng trong năm này, công ty Western Union lại nhờ Edison cải tiến máy điện thoại của Alexander Graham Bell vừa mới cầu chứng cách đó ít lâu. Thời bấy giờ, điện thoại của Bell là một bộ máy còn rắc rối, ống nói và loa nghe được làm chung, và người ta để loa lên miệng để nói rồi đặt vào tai nghe. Tầm hoạt động của máy bị giới hạn và dù nói từ phòng nọ sang phòng kia, những tiếng sè sè của máy sinh ra do bộ ma nhê tô đã làm cho việc đối thoại rất khó khăn. Sau hai năm tìm tòi, Edison đã phát minh ra bộ vi âm (microphone), hoàn thành một máy truyền (transmetteur) dùng thỏi than và đã thành công rực rỡ trong việc truyền tiếng nói qua 225 cây số đường dây. Edison làm cho cường độ tiếng nói qua máy điện thoại lớn gấp bội và âm thanh trở nên rõ ràng. Hãng Western Union đã mua lại bằng sáng chế chiếc máy truyền với giá 100,000 đô la. Thành công của Edison trong việc cải tiến máy điện thoại đã khiến người đời phải nói rằng “Bell đã phát minh ra máy điện thoại nhưng chính nhờ Edison mà máy điện thoại trở thành hữu dụng”.



5. Phát minh ra Máy Hát.

Lúc bấy giờ Edison đã có phòng thí nghiệm tại Menlo Park, một nơi có đủ phương tiện cho nhà phát minh tìm tòi, nghiên cứu. Edison có một cách làm việc rất đặc biệt. Khi một ý tưởng nẩy ra trong trí óc, ông liền thử ngay bằng ngàn cách khác nhau với sự cộng tác của những người giúp việc. Vào thời đó, mặc dù nhà phát minh có hàng trăm bằng sáng chế nhưng danh tiếng của Edison chỉ thực sự được đại chúng biết tới sau ngày ông cho ra đời chiếc máy hát.My Webpage

Thực ra sự phát minh này do khả năng nhận xét và suy luận của ông hơn là do công lao tìm kiếm. Vào một chiều mùa hè năm 1877, trong khi Edison đang loay hoay với chiếc máy dịch điện tín tự động, chiếc máy này gồm một mũi kim thép rạch các rãnh trên một đĩa giấy, đột nhiên khi cho đĩa quay nhanh hơn Edison đã nghe thấy tiếng cọ sát tăng lên và giảm đi tùy theo sự gồ ghề của chiếc đĩa. Sự kiện này đã ám ảnh nhà phát minh. Ông liền làm lại thí nghiệm nhưng lần này, thêm vào chiếc kim bộ phận chứa một màng mỏng. Edison nhận thấy cơ phận này đã làm tăng âm độ lên một cách đáng kể.

http://files.gereports.com/wp-content/uploads/2012/07/TimelessThomas1.jpg

Các công trình khảo cứu về máy điện thoại đã khiến Edison nhận thức rằng một màng kim loại mỏng đã rung động khi nói vào một máy phát. Như thế có thể ghi lại sự rung động này trên một chất gì đó để rồi làm cho màng kim loại rung động trở lại mà phát ra các âm thanh như tiếng nói. Nửa đêm hôm đó, Edison ngồi lại văn phòng và vẽ trên giấy một bức họa về thứ máy móc sẽ thực hiện. Ngày 24/12/1877, Edison cầu chứng cho chiếc máy hát và bằng phát minh được chính phủ Hoa Kỳ cấp cho ông vào ngày 19/ 02/1878.

Một bộ máy ghi được tiếng nói và lại phát ra tiếng nói làm cho đại chúng phải bàn tán. Để làm cho mọi người tin chắc rằng máy hát nói được là một sự thật, Edison quyết định trình bày chiếc máy kỳ lạ trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Hoa Kỳ. Sáng ngày 8/ 4/1878, nhà phát minh Edison đã xử dụng chiếc máy hát trước ông Joseph Henry, Chủ Tịch Viện Smithsonian, rồi vào buổi chiều, ông biểu diễn máy trước Hàn Lâm Viện Khoa Học. Ngay buổi tối hôm đó, Edison lại nhận được giấy mời trình bày máy hát trước Tổng Thống Rutherford B. Hayes. Nhà phát minh đã làm cho các nhân vật Tòa Bạch Cung cũng như dân chúng tin tưởng. Cả thế giới sôi nổi về phát minh này. Danh tiếng Thomas Edison được nhắc nhở tại khắp nơi. Báo chí đã nói nhiều về nhà phát minh 31 tuổi. Môt tờ báo gọi Edison là “Thầy Phù Thủy vùng Menlo Park” và danh hiệu này đã được phổ thông hóa.

Chiếc máy hát là một phát minh mà Edison rất ưa chuộng. Ông đã cải tiến máy dần dần trong nhiều năm trường để về sau này, máy được thay đổi khối trụ và tay quay bằng một đĩa tròn chuyển động do một bộ phận đồng hồ. Sự sản xuất máy hát càng ngày càng gia tăng, vào năm 1910 tiền bán máy và đĩa hát đã lên tới 7 triệu đô la. Vào năm 31 tuổi, Thomas Edison có 157 bằng phát minh và đang chờ đợi 78 bằng sáng chế khác từ Washington gửi về. Mặc dù vậy, ông vẫn không ngừng làm việc, mỗi ngày từ 18 tới 20 giờ.


6. Phát minh ra Đèn Điện.


Tháng 3 năm 1878 là đầu thời kỳ Edison bắt tay vào việc nghiên cứu đèn điện. Vào thời bấy giờ người ta chỉ biết tới nguyên tắc của đèn hồ quang là loại đèn được phát minh vào khoảng năm 1809. Khi đốt đèn hồ quang, người ta phải luôn luôn thay thỏi than, ngoài ra đèn còn phát ra tiếng cháy sè sè và cho một sức nóng quá cao, kèm theo một mùi khó chịu, không thích hợp với việc xử dụng trong nhà.

Vào năm 1831, Michael Faraday tìm ra nguyên tắc của máy ma-nhê-tô là bộ máy sinh ra các tia lửa đốt loại khí bên trong động cơ dầu lửa. Tới năm 1860, một loại đèn điện sơ sài ra đời tuy chưa thực dụng nhưng đã khiến cho người ta nghĩ tới khả năng của điện lực trong việc làm phát sáng. Thomas Edison cũng cho rằng điện lực có thể cung cấp một thứ ánh sáng dịu hơn, rẻ tiền hơn và an toàn hơn ánh sáng của đèn hồ quang của William Wallace. Edison đã tìm đọc tất cả các sách báo liên quan tới điện học. Ông muốn thấu triệt sâu rộng lý thuyết về điện lực để có thể mang kiến thức của mình vào các áp dụng thực tế. Ngày nay trong số 2,500 cuốn sổ tay 300 trang được Viện Edison cất giữ, người ta còn thấy hơn 200 cuốn ghi chép về điện học. Chính những điều ghi chép này đã là căn bản của các khám phá vĩ đại của thiên tài Edison trong phạm vi Khoa Học và Kỹ Thuật.



Thời bấy giờ, báo chí nói nhiều đến công cuộc nghiên cứu của Edison về đèn điện làm cho các công ty đèn thắp bằng khí đốt lo ngại trong khi đó Edison khuyên các hội viên của Công Ty Đèn Điện Edison (the Edison Electric Light Co.) bỏ thêm 50,000 đô la để ông theo đuổi công trình nghiên cứu. Hồi đó trong phòng thí nghiệm tại Menlo Park có vào khoảng 50 người làm việc không ngừng. Bình điện, dụng cụ, hóa chất và máy móc chất cao trong các phòng nghiên cứu. Đồng thời với việc nghiên cứu đèn điện, Edison còn phải cải tiến rất nhiều máy móc khác cũng như tìm ra các kỹ thuật cần thiết vì vào thời bấy giờ, kỹ nghệ điện lực còn trong giai đoạn phôi thai. Cũng nhờ nghiên cứu đèn điện, Edison đã sáng chế ra cầu chì, cái ngắt điện, đynamô, các lối mắc dây. . .

Căn cứ từ đèn hồ quang của Wallace, Edison thấy rằng có thể có ánh sáng từ một vật cháy sáng bằng cách đốt nóng. Edison đã dùng nhiều vòng dây kim loại rất mảnh rồi cho dòng điện có cường độ lớn đi qua để những vòng dây đó nóng đỏ lên, nhưng chỉ sau chốc lát, các vòng đó đều cháy thành than. Vào tháng 4 năm 1879, Edison nẩy ra một sáng kiến. Ông tự hỏi cái gì sẽ xẩy ra nếu sợi dây kim loại được đặt trong một bóng thủy tinh không chứa không khí? Edison liền cho gọi Ludwig Boehm, một người thợ thổi thủy tinh tại Philadelphia tới Menlo Park và phụ trách việc thổi bóng đèn. Việc rút không khí trong bóng đèn cũng đòi hỏi một máy bơm mạnh mà vào thời đó chỉ có tại trường đại học Princeton. Cuối cùng Edison cũng mang được chiếc máy bơm đó về Menlo Park.

Edison thử cho một sợi kim loại rất mảnh vào trong bóng thủy tinh rồi rút không khí ra hết, khi nối dòng điện, ông có được thứ ánh sáng trắng hơn, thời gian cháy cũng lâu hơn nhưng chưa đủ. Ngày 12/ 04/1879, để bảo vệ phát minh của mình, Edison xin bằng sáng chế về bóng đèn cháy trong chân không mặc dù ông biết rằng loại đèn này chưa hoàn hảo vì ông chưa tìm ra được một thứ gì dùng làm tóc trong bóng đèn. Edison đã dùng sợi Platine nhưng thứ này quá đắt tiền lại làm tốn nhiều điện lực hơn là cho ánh sáng hữu ích. Edison đã thử với nhiều thứ kim loại hiếm, chẳng hạn như Rhodium, Ruthenium, Titane, Zirconium và Baryum nhưng tất cả những chất đó chưa cho kết quả khả quan.

Vào 3 giờ sáng ngày Chủ Nhật, 19/ 10/ 1879, trong khi Edison và Batchelor, người cộng sự, đang cặm cụi thí nghiệm thì nhà phát minh chợt nghĩ tại sao không dùng một sợi than rất mảnh. Edison nghĩ ngay tới thứ thường dùng nhất trong nhà là sợi chỉ may. Ông liền bảo Batchelor đốt cháy sợi chỉ để lấy các sợi than rồi cho vào bóng đèn. Khi nối dòng điện, đèn cháy sáng, phát ra một thứ ánh sáng không đổi và chói chan. Edison và các cộng sự viên thở ra nhẹ nhõm. Nhưng mọi người đều không rõ đèn cháy sáng như vậy được bao lâu? 2 giờ trôi qua, rồi 3, 4. . . rồi 12 giờ. . . đèn vẫn sáng. Edison đành nhờ các cộng sự viên thay thế để đi ngủ. Chiếc đèn điện đầu tiên của Thomas Edison đã cháy liền trong hơn 40 giờ đồng hồ khiến cho mọi người hân hoan, tin tưởng vào kết quả. Lúc đó, Edison mới tăng điện thế lên khiến cho sợi dây cháy sáng gấp bội rồi đứt hẳn.

Rất hãnh diện về phát minh của mình, Edison viết thư mời viên chủ nhiệm tờ báo New York Herald gửi đặc phái viên tới Menlo Park. Ký giả Marshall Fox đã tới phòng thí nghiệm của Edison và cùng nhà phát minh làm việc trong hai tuần lễ. Sáng Chủ Nhật 21/12/1879, tờ báo Herald tường thuật về sự phát minh ra chiếc đèn điện nhưng bài tường trình này đã làm đại chúng nghi ngờ và có người còn cho rằng “một thứ ánh sáng như vậy trái với định luật thiên nhiên”. Có nhà báo lại khôi hài câu chuyện và bảo “đèn điện của Edison đã được ông dùng bóng bay thả lên trời thành những ngôi sao lấp lánh ban chiều”.

Edison rất buồn cười về những lời phủ nhận sự thật. Ông quyết định trình bày trước đại chúng chiếc đèn điện để phá tan mọi mối hoài nghi. Ông cho treo hàng trăm bóng đèn điện quanh phòng thí nghiệm, quanh nhà ở và dọc theo các con đường tại Menlo Park. Ngày 31/12/1879, một chuyến xe lửa đặc biệt đã xuôi ngược New York - Menlo Park, mang theo hơn 3,000 người hiếu kỳ gồm cả các nhà khoa học, các giáo sư, các nhân viên chính quyền cũng như các nhà kinh tài tới quan sát tận mắt chiếc đèn điện. Đêm hôm đó cả vùng Menlo Park tràn ngập trong ánh sáng chan hòa của một thứ đèn mới.My Webpage


7. Công Ty Đèn Điện Edison.

Thành công của chiếc đèn điện làm cho công ty khí thắp xuống dốc trong khi đó, Edison vẫn cho rằng đèn điện chỉ đắc dụng khi nào ông tìm ra được một thứ sợi tóc rẻ và bền hơn. Ông cho thử hơn 6,000 thứ sợi thảo mộc, cuối cùng đã chọn một thứ tre Nhật Bản và loại sợi này đã được dùng trong suốt 10 năm trường trước khi bị chất Tungstène thay thế.

Edison lại tính tới việc dùng điện lực thắp sáng một khu vực rộng lớn hơn. Ông quyết định dùng một quận trong thành phố New York rộng 2,500 mét vuông làm nơi thí nghiệm. Ông tìm ra nhiều phương pháp cách điện và chính ông trông coi việc đặt đường dây. Vào năm 1881, số chuyên viên về điện lực rất hiếm. Edison liền mở ra một trường dạy nghề và đặt những cộng sự viên cũ của mình vào các chân giảng viên. Chính ông cũng viết ra một cuốn sách kỹ thuật về điện học. Nhờ cách làm việc có phương pháp như vậy, sang năm sau Edison đã có hơn 1,500 người chuyên đào đường, đặt đường dây và bắt dây điện vào tư gia. Một nhu cầu mới cần thiết nữa lại được đặt ra là việc thiết lập một nhà máy phát điện mạnh. Việc này đòi hỏi nhiều triệu đô la. Một công ty vì thế được thành lập với tên là Công Ty Đèn Điện Edison tại New York (the Edison Electric Lighting Company of New York).

Edison lập ra một xưởng chế tạo các thành phần của máy phát điện, một xưởng chuyên làm bóng đèn điện và một cơ xưởng đặc biệt chuyên sản xuất các đồng hồ điện, các đui đèn, ngắt điện cùng các phụ tùng cần thiết cho ngành kỹ nghệ mới này.

Từ trước, công ty khí thắp độc quyền phụ trách việc đốt đèn các con đường và cung cấp khí đốt cho dân chúng. Edison muốn thay thế những phương tiện thắp sáng cũ đó bằng một cách khác, vừa tiện lợi hơn, vừa rẻ tiền hơn. Ông biết rằng ông đã tham dự một cuộc mạo hiểm rất khó khăn, nếu thất bại, ông sẽ mất hết danh tiếng, tiền bạc và tín nhiệm của dân chúng cũng như của bạn bè. Nhưng Edison vẫn không sờn lòng. Ông tuyên bố rằng tiền phí tổn về điện lực sẽ rẻ hơn tiền khí thắp và ông chỉ nhận tiền của thân chủ khi nào họ thấy thỏa mãn về cách cung ứng điện lực. Cuộc thí nghiệm đại quy mô này đã khiến Edison phải từ chối đi dự các bữa tiệc, các buổi diễn thuyết. . . Người ta thường thấy nhiều đêm ông Edison, với chiếc khăn quàng quấn quanh cổ, bước xuống những đường rãnh đặt dây điện hoặc trông coi việc thiết lập nhà máy điện trên đường Pearl.

Tới ngày 4 tháng 9 năm 1882, tất cả các công tác thiết kế đã hoàn thành và sẵn sàng chờ đợi sự thí nghiệm. Tại nhà máy phát điện đường Pearl, người thợ đổ than vào lò, các động cơ bắt đầu chuyển vận, Edison hạ chiếc cần xuống và trong khoảng khắc, dòng điện đi qua 24 cây số đường dây khiến cho hàng trăm bóng đèn Edison cháy sáng trong các công sở, cơ xưởng và các tư gia. Ông Thomas Edison đã thắng cuộc và lấy lại được niềm tin của toàn thể dân chúng.

Mặc dù là một nhà kỹ thuật có tài, Edison rất ghét sự trục lợi, đầu cơ. Khi đã đạt được các công trình nghiên cứu rồi, Edison lấy làm thỏa mãn về sự thành công mà coi thường các lời lãi do phát minh của mình mang tới. Edison đã bán xưởng chế tạo bóng đèn cho một công ty điện và công ty này về sau trở nên rất phát đạt và nổi danh trên thế giới : Công Ty General Electric.

Hai năm sau ngày thành công về đèn điện, bà Mary mắc bệnh thương hàn và qua đời, để lại cho chồng ba đứa con và lòng thương nhớ. Quá buồn phiền, Edison gửi các con về ông bà ngoại tại New York còn mình thì tìm quên trong phòng thí nghiệm. Edison nhận thấy cần phải có một cơ xưởng rộng lớn hơn cơ xưởng Menlo Park. Ông đã chọn thành phố West Orange, thuộc tiểu bang New Jersey. Công việc xây cất được bắt đầu. Cũng trong thời gian này, Edison cho thiết lập thêm một phòng thí nghiệm để làm việc trong mùa đông, vì thế một cơ xướng mới được lắp ráp tại Fort Myers, một nơi gần bờ biển trong tiểu bang Florida.

Trong khoảng thời gian từ năm 1881 tới năm 1887, Thomas Edison nghiên cứu nhiều thứ và phát minh ra các máy móc thuộc nhiều loại. Ông đã tìm ra cách gửi điện tín từ một ga tới một xe lửa đang chạy. Ông đã thử cách cất giữ trái cây trong chân không, phác họa ra máy bay trực thăng, máy gặt bông gòn, máy may điện, thang máy điện, xe lửa điện, xe gạt tuyết và ông khảo cứu cả về vô tuyền điện. Ngày nay “hiện tượng Edison” còn được áp dụng vào các bóng đèn máy vô tuyến truyền thanh.

Công việc quá bận rộn đã khiến Edison quên bớt nỗi buồn phiền về người vợ đã khuất. Ông bắt đầu cảm thấy cần phải ra khỏi tháp ngà. Người ta thường thấy ông đi dự các buổi trình diễn âm nhạc hay có mặt tại các bữa yến tiệc. Vào một buổi chiều năm 1885, trong một bữa ăn do một người bạn tổ chức, Edison đã gặp một thiếu nữ rất đẹp và duyên dáng, hôm đó đang ngồi tại đàn dương cầm. Nàng tên là Mina Miller, là con gái của ông Lewis Miller, một kỹ nghệ gia và cũng là người phát minh ra chiếc máy gặt lúa. Hai người trở nên đôi bạn thân.

Lần gặp gỡ cô Mina đã làm cho Edison hết cô đơn. Edison đã dạy cho Mina tín hiệu Morse vì ông kém về thính giác. Trong một buổi đi coi hát, Edison đã dùng tín hiệu Morse để hỏi cảm tình của Mina đối với ông. Cô Mina cũng đáp lại bằng thứ tín hiệu đó. Hai người cưới nhau vào năm 1886, khi đó chàng 39, nàng 21 tuổi, nhưng sự chênh lệch về tuổi tác không là hàng rào ngăn cách hai người. Edison thường ăn mặc lôi thôi như một đứa trẻ và Mina đã săn sóc chồng từng chút một. Mina thường dấu chiếc áo ngoài của chồng nên khi muốn ra đường, Edison phải gọi tới nàng, đó là lúc nàng kiểm soát cách ăn mặc, bắt chồng phải cạo râu, chải tóc.

Mina còn săn sóc Edison cả về sự ăn uống. Chính nàng tự tay mang thức ăn tới phòng thí nghiệm cho chồng và luôn luôn khuyến khích chồng bằng những lời nói êm dịu. Nếu Mary Stitwell, người vợ thứ nhất của Edison, là người đã góp phần quan trọng vào các thành công đầu tiên thì Mina Miller lại là người bạn trung thành và cộng sự viên đắc lực của Edison. Nàng luôn luôn theo chồng trong các chuyến du lịch hay tham dự những buổi yến tiệc, nàng nhắc lại cho Edison những gì ông không nghe rõ. Trong các buổi tiếp tân tại nhà, các bạn của Edison đã tặng Mina danh hiệu “Bà chủ nhà duyên dáng nhất Mỹ Quốc”. Mina còn làm cho gia đình Edison gồm 4 trai, 2 gái, trong đó có 3 người con của Mary, tất cả đều cảm thấy hạnh phúc.



8. Phát minh ra Máy Chiếu Bóng.

Vào một buổi chiều năm 1887, Thomas Armat tới thăm Edison và đưa cho nhà phát minh xem một máy chiếu hình, khi đó chưa hoàn hảo. Armat biết rằng chỉ có Edison mới có đủ tài cải biến máy móc đó ra một thứ có ích lợi thực tế. Khi nhìn thấy chiếc máy kinematoscope (do chữ Hy Lạp kinema là chuyển động), Edison nhận ra ngay giá trị của nó. Ông đã bỏ ra 4 năm công sức vào việc cải tiến máy chiếu bóng và chế tạo máy quay phim và như vậy, đã mở đầu cho một ngành kỹ nghệ rộng lớn trên thế giới, chuyên cung cấp món giải trí bình dân nhất.

Edison đã bỏ ra 100,000 đô la để lập phim trường tại Bronx Park. Ông đã thuê võ sĩ vô địch quyền Anh hạng năng tên là James J. Corbett tới Orange biểu diễn, để quay thành phim. Edison đã sản xuất được nhiều cuốn phim và còn cho phối hợp chiếc máy hát vào việc chiếu phim nói.



Khi kỹ nghệ chiếu bóng bắt đầu phát triển, Edison lại quay sang các lãnh vực mới. Ông làm nhiều thí nghiệm về quang tuyến X, thời đó vừa được Roentgen tìm ra. Công trình nghiên cứu của ông khiến ông chế tạo được máy huỳnh quang nghiệm (fluoroscope) và đèn huỳnh quang (lampe fluorescente). Edison còn lấy bằng phát minh cho bình ắc quy, loại đèn điện an toàn dùng trong hầm mỏ, cải tiến máy tính, tìm ra hợp chất sắt nickel. . . Ngoài ra còn rất nhiều phát minh nhỏ mọn khác mà ngày nay đối với chúng ta coi là tầm thường nhưng ở vào thời kỳ đó chưa có ai nghĩ tới cả.

Vào tuổi 60, Thomas Edison vẫn còn làm việc hăng hái như xưa. Ông đã “giải trí bằng cách thay đổi công việc làm”. Người ta hỏi ông về nghệ thuật của “Thành Công” và được ông trả lời : “Đó là khả năng kiên nhẫn”. Ông đã định nghĩa : “Thiên tài gồm 2 phần trăm cảm hứng và 98 phần trăm cực nhọc”. Edison cho rằng cách làm việc miệt mài bằng trí óc chính là bí quyết của sức khỏe và sự sống lâu, và ông còn nói thêm “Tôi chỉ cần tới thân xác để nuôi dưỡng bộ óc”.

Năm Thomas Edison 67 tuổi, một trận hỏa hoạn đã đốt sạch 7 dãy nhà không bảo hiểm tại West Orange, thiệt hại lên tới 5 triệu đô la. Edison đã mỉm cười với số phận. Ông liền bắt tay vào việc thiết lập lại cơ xưởng cũ.

Vào năm 1915, chính quyền Hoa Kỳ dự định tổ chức một cuộc triển lãm tại San Francisco, lấy tên là Cuộc Triển Lãm Panama Thái Bình Dương (Panama Pacific Exposition) để kỷ niệm ngày hoàn thành Kênh Đào Panama. Ban tổ chức Cuộc Triển Lãm có nhã ý dành ngày 21/10 làm “Ngày Edison”. Vào sáng ngày 21/10/1915 đó, ngày sinh nhật thứ 36 của chiếc đèn điện, Thomas Edison cùng Luther Burbank và Henry Ford tới thăm Phòng Triển Lãm. 50,000 người đã đứng hai bên đường để đón chào ba nhân vật đã mở mang con đường dẫn tới Văn Minh. Tại Phòng Đại Hội, Edison đã nhận lãnh huy chương đặc biệt trước hàng ngàn dân chúng hâm mộ và huy chương này được trao tặng về các công trình tốt đẹp mà ông đã thực hiện cho Nhân Loại.

Ngày 28/ 6/1914, Trận Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ và lan dần tới Mỹ Quốc khiến cho quốc gia này cũng bị liên hệ. Các nhà Khoa Học và Phát Minh đều theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Mặc dù gần 70 tuổi, Thomas Edison cũng tình nguyện gia nhập Hải Quân và nhận làm Chủ Tịch Ủy Ban Cố Vấn Kỹ Thuật với lòng mong ước mang lại Vinh Quang cho Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ông Edison đã phát minh ra máy dò tầu ngầm và thủy lôi, đèn soi sáng dưới nước và phương pháp ngụy trang tầu chiến. . . Hơn 40 phát minh có tính cách chiến thuật của ông đã mang lại cho ông Quân Công Bội Tinh (the Distinguished Service Medal), một trong những huy chương cao quý nhất của Quân Lực Hoa Kỳ.


9. Danh vọng cuối cùng

Từ năm 12 tuổi tới lúc già, Thomas Edison đã làm việc miệt mài mà không biết mỏi. Ông đã tự học từ năm lên 7 tuổi, khi bà Nancy kéo con về nhà. Ông Edison là một người đọc sách không biết mệt và thường hay thực hiện 6 dự án cùng một lượt. Lúc 70 tuổi, ông còn coi mình như một người đang độ sung sức.

Năm 1918 khi Thế Chiến Thứ Nhất kết thúc, ông Edison trở về phòng thí nghiệm và bắt tay vào việc nghiên cứu một chất cần thiết cho cả thời chiến lẫn thời bình : chất cao su. Tới năm 75 tuổi, ông Edison mới chịu giảm bớt thời giờ làm việc xuống 16 giờ một ngày. Ông thực hiện thứ đĩa hát quay lâu (disque de longue durée) vào năm 80 tuổi.

Ngày 21/ 10/1929, ông Thomas Edison được mời làm khách danh dự trong một bữa tiệc tổ chức tại Detroit. Tối hôm đó Tổng Thống Hoa Kỳ Herbert Hoover đã đứng lên ca tụng nhà Đại Phát Minh. Edison đã đáp từ bằng mấy câu cảm ơn ngắn. Bỗng bà Mina thấy mặt ông tái xanh đi rồi ông ngã người xuống ghế. Bác sĩ riêng của Tổng Thống điều trị cho ông nhưng sức mạnh không thể trở lại với ông. Edison yếu dần từ đó.

Sáng ngày Chủ Nhật, 18/10/1931, Thomas Edison lìa trần và 3 ngày sau, đúng ngày sinh nhật thứ 52 của chiếc đèn điện đầu tiên, đám tang nhà Đại Phát Minh được cử hành rất trọng thể tại thành phố West Orange, New Jersey. Buổi tối hôm đó, tất cả đèn điện trên toàn thể lãnh thổ Hoa Kỳ đều tắt trong một phút để tưởng nhớ một Vĩ Nhân, một “Người Bạn của Nhân Loại” mà 52 năm về trước, đã cho Nhân Loại một thứ đèn quý giá.

Vào 2 năm trước, 1929, nhân ngày kỷ niệm chiếc đèn điện được 50 tuổi, ông Henry Ford cho thiết lập tại Greenfield Park, thuộc tiểu bang Michigan, một ngôi làng lịch sử nhắc nhở lại cuộc đời và công trình của Thomas Edison. Phòng thí nghiệm tại Menlo Park cũng được dựng lại với tất cả chi tiết cũ cùng các máy móc xưa. Henry Ford cũng cho tìm kiếm và mua lại được 2 tờ báo The Weekly Herald, tờ báo mà hơn 70 năm về trước, Thomas Edison đã in trên xe lửa. Không những chỉ có Henry Ford là người kính trọng Thomas Edison mà hầu hết các người cộng sự của nhà Đại Phát Minh đều kính mến ông cho tới khi ông qua đời.

Trong suốt cuộc đời tận tụy, Thomas Edison đã lãnh tất cả 1,097 bằng phát minh. Thomas Edison là gương sáng của người tự học. Ngoài nền giáo dục do mẹ ban cho, Edison tìm học tại các thư viện công cộng. Tính ra ông đã đọc hơn 10,000 cuốn sách nhờ cách “ăn bớt thời giờ làm việc để ngốn hết 3 cuốn sách mỗi ngày”. Trí nhớ và óc thông minh siêu việt của ông đã giúp ông thấu hiểu và lưu trữ được tất cả kiến thức thu thập cho tới khi chết. Ngoài học vấn về Khoa Học và Sử Học, Thomas Edison còn là một học giả chuyên khảo cứu nền Văn Minh Hy Lạp và La Mã.

Lòng tận tụy đối với Nhân Loại của Thomas Alva Edison đã được ông thực hiện đúng như câu nói mà ông thường nhắc nhở : “Tổ Quốc của tôi là Thế Giới và Tôn Giáo của tôi là làm Việc Thiện”.


 Nguồn : 

http://mrnussbaum.com/thomas_edison/
http://easyscienceforkids.com/all-about-thomas-edison/
http://z3.invisionfree.com/superstudents_10a/ar/t146.htm
http://www.softschools.com/facts/biography/thomas_edison_facts/861/
http://www.theschoolrun.com/homework-help/thomas-edison
http://www.nps.gov/edis/faqs.htm
http://www.watchknowlearn.org/Video.aspx?VideoID=23758

-------------------------------------------------------------------------------------------

Trên đời không gì vĩ đại bằng con người. Trong con người không gì vĩ đại bằng trí tuệ.

A.Hamillton

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran