Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Thứ Hai, 18 tháng 6, 2018

SÁO THẦN PAN và NHỮNG GIAI ĐIỆU QUYẾN RŨ TÂM HỒN .

SÁO THẦN PAN và  NHỮNG GIAI ĐIỆU QUYẾN RŨ TÂM HỒN .



Sáo pan (còn được gọi là panpipes hoặc syrinx) thuộc nhóm nhạc cụ hơi dựa trên nguyên tắc ống kín,  gồm nhiều ống có chiều dài tăng dần (và đôi khi tăng chu vi). Nhiều loại sáo pan từ lâu đã được phổ biến như các nhạc cụ dân tộc . Các ống sáo thường được làm từ tre, nứa, hoặc lau sậy mọc tại địa phương. Các vật liệu sản xuất khác cũng có thể là gỗ, nhựa, kim loại và ngà voi.

Từ nguyên gốc .
Sáo pan được đặt tên theo từ Pan -  trong thần thoại Hy lạp là thần của thiên nhiên và mục tử - thường được mô tả như một nhạc cụ thuộc bộ hơi .
Trong thần thoại Hy Lạp, Syrinx (Σύριγξ) là  Nữ thần rừng xanh. Trong nỗ lực thoát khỏi tình cảm của thần Pan (một sinh vật nửa  dê  nửa người ), Syrinx đã tự biến hình thành sậy nước [hoặc calamos (mía sậy)] . Sau đó, thần Pan vì nhớ thương Syrinx nên đã cắt những ống sậy rỗng , xếp song song cạnh nhau và gắn chúng lại , tạo ra một nhạc cụ có tiếng thổi du dương mỗi khi nhớ đến nữ thần Syrinx . Người Hy Lạp cổ đại gọi công cụ này là Syrinx, để vinh danh Muse, và Pandean, hoặc Pan-pipe , Pan-flute . Syrinx hay Panflute ban đầu được xem là một nhạc cụ hơi chủ yếu của người Hy Lạp, sau đó đã được xử dụng bởi các người Etruscans tại các lễ hội và tiệc chiêu đãi của họ; người Etruscans gọi nó là sáo rò. Người La Mã cũng đã học cách dùng Syrinx từ người Hy Lạp và Etruscans, và họ cũng biểu diễn sáo Pan tại các buổi tiệc, lễ hội  cũng như trong đám rước tôn giáo và tang lễ.

Pan và Daphnis - thế kỷ thứ nhất TCN bản sao La Mã của thế kỷ thứ 2 TCN gốc Hy Lạp
Nguồn https://en.wikipedia.org

Kết cấu


Hai sáo pan Rumani
Nguồn :  https://en.wikipedia.org


Các ống rỗng của sáo pan được chốt lại ở một đầu, tại đó sóng âm đứng bị phản xạ tạo ra một nốt ngắn hơn quãng tám được tạo ra bởi một ống mở có chiều dài bằng nhau. Theo phong cách truyền thống Nam Mỹ, các ống sáo đều được tinh chỉnh để đạt được cao độ cần thiết bằng cách đặt những viên sỏi nhỏ hoặc hạt ngô khô vào đáy ống. Các nhà sản xuất đương đại các loại panpipes kiểu Rumani cong cũng xử dụng sáp (thường sáp ong) để điều chỉnh âm vực , dùng nút chai hoặc nút cao su để điều chỉnh đường kính ống sáo một cách linh hoạt hơn.


sáo pan Andean , hoặc zampoña (Nam Mỹ)
Nguồn https://en.wikipedia.org

Âm học
Nguyên lý âm học của sáo pan dựa trên hơi thổi thoát ra ở phần cuối ống. Âm thanh được tạo ra bởi sự dao động luồng khí thổi qua lỗ mở ở đầu ống cộng hưởng. Chiều dài của ống xác định tần số cơ bản. Một âm thổi mức cao nhất nằm quãng âm 12 cơ bản của các ống sáo , nhưng có thể tạo một bước nhảy quãng 8 nếu sử dụng côn giảm dần.
Nguyên tắc cơ bản sáo pan là tần số và chiều dài của ống là tỷ lệ nghịch với nhau . Mỗi lần cao độ tăng lên một quãng tám thì tần số tăng gấp đôi. Vì có 12 nốt trong một thang âm hoặc một quãng tám đủ, nên mỗi nửa quãng trong một thang âm được nhân 2/12 nốt cơ bản để có được nốt bên cạnh nó. Bằng cách này, có thể tính toán chiều dài của bất kỳ ống sáo nào, nếu biết tần số cơ bản của một ống cho trước . Công thức tính chiều dài của ống sáo pan là L = (c / f) / 4 ("chiều dài lý thuyết L"  bằng tốc độ của âm thanh c = 343 m / s, chia cho tần số mong muốn  f (hertz), lấy số này chia thêm cho 4, Có thể đơn giản hóa và sắp xếp lại như sau : Chiều dài của ống (tính bằng cm) × Tần số ( hertz) = 8575). Do có sự nén hơi trong ống nên chiều dài phải ngắn hơn một chút để điều chỉnh âm vực .


Việc tăng thêm chiều dài cho ống sáo rất hữu ích cho nhà sản xuất, người ta có thể sử dụng nút chai hoặc phích cắm ở phía dưới để điều chỉnh cao độ. Một số dụng cụ sử dụng sáp hoặc bột viên để điều chỉnh âm vực cơ bản của mỗi ống. Một ống có đường kính bằng 1/10 chiều dài của nó mang lại một tông màu điển hình ( Timbre). Đường kính trong của ống khoảng từ 1/7 đến 1/14 chiều dài L là chấp nhận được. Một ống hẹp sẽ có âm thanh "reedy"( sáo sậy - âm rè) , trong khi một ống rộng sẽ có âm "flutey" (sáo ống -âm thánh thót ) . Một phương pháp chính xác hơn là nhân đường kính lỗ khoan cho 0,82 và lấy chiều dài ống trừ đi giá trị này . Điều này bù đắp cho tần số nén chậm trong ống và môi nhằm phụ thêm một phần cho thanh âm phát ra . Chỉ cần tinh chỉnh là có thể thay đổi cao độ cơ bản cho cả mật độ không khí lẫn nhiệt độ.


Xử dụng nhạc cụ 

Sáo pan được chơi bằng cách thổi theo chiều ngang trên một đầu mở ngược với các cạnh bén trong của các ống. Mỗi ống được điều chỉnh tương ứng với một nốt chuẩn, được gọi là tần số cơ bản. Bằng cách thổi , nghĩa là, tăng áp lực hơi thở và lực căng của môi, các âm lẻ (các nốt có tần số là bội số lẻ của âm chuẩn), cũng có thể được tạo ra. Sáo pan Rumani có các ống được sắp xếp theo một mảng cong, cho phép người chơi dễ dàng tiếp cận tất cả các nốt bằng cách xoay đầu sáo. Những dụng cụ này cũng có thể chơi tất cả các âm sắc và trầm , với một kỹ thuật đặc biệt của cả hai cách nghiêng ống và chuyển động hàm , do đó làm giảm kích thước của ống mở và tạo ra một sự thay đổi cao độ. Một người chơi chuyên nghiệp có thể chơi bất kỳ âm vực nào và bất kỳ nốt nào. Có hai kiểu rung , rung bằng tay và bằng hơi thở . Với kiểu rung bằng tay , người chơi áp dụng một chuyển động nhẹ nhàng đến một đầu của sáo pan (thường là nốt cao) giống như cách rung violon đạt được bằng cách lắc bàn tay từ cổ tay. Với kiểu rung bằng hơi là kỹ thuật tương tự được sử dụng bởi người chơi sáo và các bộ gỗ hơi  khác bằng cách sử dụng cơ hoành của người chơi.



Một phi công người Mỹ gốc Peru đang chơi Incan zampoña
Nguồn https://en.wikipedia.org


Các sáo pan kiểu cong đã được phổ biến rộng rãi bởi nhạc sĩ Gheorghe Zamfir người Rumani  . Ông đã đi lưu diễn rộng rãi và thu âm nhiều album âm nhạc sáo trong thập niên 1970. Một số nghệ sĩ khác cùng thời cũng đã bắt đầu thu âm nhiều tác phẩm được biểu diễn bằng sáo pan cong . Ngày nay có hàng ngàn người biểu diễn loại sáo này khắp châu Âu, châu Á và châu Mỹ. Cả hai biến thể sáo pan cong và truyền thống Nam Mỹ cũng rất phổ biến trong các nhóm nhạc truyền thống ở Peru và các nước khác được làm từ cây sồi trong sáng tác và biểu diễn âm nhạc Andean .

Tại Lào và Thái Lan, có một phiên bản sáo pan hình trụ được gọi là wot, được sử dụng trong âm nhạc dân gian . Người chơi thay đổi các nốt bằng cách xoay dụng cụ bằng tay, thay vì chuyển động đầu.


Nhạc sĩ người Mỹ Dom Flemons Nhóm Carolina Chocolate Drops biểu diễn sáo truyền thống của người Mỹ gốc Phi , cùng với harmonica .
Nguồn  https://en.wikipedia.org



Nguồn :  https://en.wikipedia.org/wiki/Pan_flute

* The Panflute Classics

0:03 Bright Eyes
3:56 Sound Of Silence
7:06  Lonely Shepherd
11:28  Amazing Grace
14:34  If I Could
19:02  Memory
 23:08 Sailing
26:56  Feelings
30:22 Wind of Change
34:45 Soleado
37:39  Unchained Melody
40:58  Exodus
44:03  Annie's Song
47:28  Anak
 51:27 Love Changes Everything
54:49  Love Story
58:07 Hymne Vangelis
1:00:51 You Raise Me Up
1:04:48 The Winner Takes It All
1:09:30  Without you
1:13:09  I Have A Dream
1:17:38  It Must Have Been Love
1:21:52 A Whiter Shade Of Pale
1:26:50 Hey Jude
1:31:11 My Heart Will Go On
1:35:49 Sacrifice
1:40:41 One Day In Your Life
1:44:41 Yesterday
1:47:48 I Just Call To Say I Love You
1:51:56 Imagine
1:55:05  Hello
1:59:08  All At Once




* Der Einsame Hirte - The Lonely Shepherd - Người chăn cừu cô đơn

"Nhạc phẩm này có tên tiếng Đức là Der Einsame Hirte, tiếng Anh là “The Lonely Shepherd”, tiếng Việt tạm dịch là chàng mục đồng/chăn cừu cô đơn. Nhạc phẩm khi được thể hiện bằng Sáo Thần Pan là một sự kết hợp tuyệt vời. Nghe tiếng sáo khi nỉ non thánh thót, khi rộn rã tưng bừng ta như hình dung ra cảnh đồi núi mênh mang vùng Trung Âu, thấy tiếng gió rít qua các đồi núi làm tê tái người chăn cừu cô độc… Sở dĩ nhạc cụ này mang tên Sáo Thần Pan vì nó gắn liền với thần thoại Hy lạp về thần Pan và nàng Syrinx nên có các tên gọi là: Panflute, Panpipes hoặc Syrinx, người Việt ta hay gọi là Panflute, Sáo Thần Pan hoặc sáo quạt. Panflute cũng là nhạc cụ truyền thống của Rumania được Georghe Zamfir cải biên tăng số lượng từ 20 ống lên 22, 24…30 để mở rộng âm vực của nhạc cụ.

Nghệ sỹ Georghe Zamfir và nhạc phẩm Der Einsame Hirte lại có mối liên hệ mật thiết với một tên tuổi lẫy lừng khác của âm nhạc thế giới đương đại – Nhạc sỹ người Đức James Last, ông hoàng của những bản nhạc dễ nghe - đã bán được 80 triệu đĩa nhạc trên toàn thế giới, ở tuổi 86, ông vẫn thực hiện tour Non Stop Music, lưu diễn tại 21 thành phố châu Âu.
The Lonely Shepherd được James Last viết và phát hành lần đầu năm 1977 trong album Memories From Russia. Năm 1979 Zamphir thu âm The Lonely Shepherd cùng dàn nhạc James Last. Nhưng có lẽ phải đến khi The Lonely Shepherd được dùng làm nhạc nền cho phim Kill Bill 1 của Quentin Tarantino năm 2003 thì nó mới trở thành một bản nhạc có sức lan tỏa và lay động lòng người đến thế. Các DJs và độc giả các chương trình phát thanh âm nhạc của Mỹ đã xếp The Lonely Shepherd vào hàng “haunting music” là những bài nhạc khi nghe xong vẫn còn muốn nghe nữa, nghe mãi. Những bài nhạc này có cái gì đó hớp hồn, đi vào lòng người và mọi lứa tuổi đều thích nghe.
Nhạc phẩm với sáo Thần Pan này đang được đón nhận với sự tươi mới trong phần thể hiện của các nghệ sỹ trẻ, thế hệ sau Georghe Zamfir như: Petruța Cecilia Küpper, Leo Rojas./.



Phần trình diễn trong clip này thuộc chương trình biểu của Dàn nhạc “Johann Strauss Orchestra” (do Nghệ sỹ người Hà lan Andre Rieu sở hữu và chỉ huy) tại Bucharest vào các ngày 6,7,11,12,13, 14/6/2015. Jamfir là khách mời danh dự. Sân khấu cho dàn nhạc được dựng trên Quảng trường Hiến pháp đối diện Cung Nghị viện trước đây là Cung Ceaușescu. 19 ngàn vé của ngày biểu diễn đầu tiên đã được bán hết trong 2 ngày. Mọi người để ý màn hình ở đoạn từ “-3:44 đến – 3:38” sẽ thấy hình ảnh một chỉ huy dàn nhạc, đó chính là cha đẻ của nhạc phẩm, nhạc sỹ - chỉ huy dàn nhạc James Last. Điều đáng buồn là công chúng yêu âm nhạc nói chung và người mộ điệu nhạc phẩm The Lonely Sheppherd đã mất ông vào ngày 9/6/2015 giữa lúc tác phẩm yêu thích này đang được tấu lên và làm say đắm lòng người tại quê hương của Zamfir người góp công lớn trong việc phổ biến nhạc phẩm đến với công chúng yêu nhạc toàn cầu.





Leo Rojas' official music video for 'Der einsame Hirte'
Đây là nghệ sỹ sáo Thần Pan : Leo Rojas người Ecuador, hiện đang sinh sống tại Berlin. Nghệ sỹ tuổi tí này đã đoạt giải nhất cuộc thi "tìm kiếm tài năng" của Đài THQG Đức mùa 2011. Màn trình diễn của Leo đối với nhạc phẩm hơn trăm tuổi El Condo Pasa cũng được rất nhiều người mến mộ





JAMES LAST with GHEORGHE ZAMFIR - The Lonely Shepherd/Alouette






Gheorghe Zamfir Greatest Hits - Best Of Gheorghe Zamfir












Nguồn : 
http://www.sansannews.com/2017/03/der-einsame-hirte-lonely-shepherd-nguoi-chan-cuu-co-don.html





------------------------------------------------------------------------------------------- 

Chớ khoe-khoang về ngày mai; Vì con chẳng biết ngày mai sẽ sanh ra điều gì. Hãy để cho kẻ khác khen-ngợi con, miệng con chẳng nên làm; Để cho một người ngoài tán-mỹ con, môi con đừng làm.

Châm-ngôn 27:1-2

1 nhận xét :

  1. https://drtayeb.files.wordpress.com/2011/03/longman-additional-mathematics-for-a-level-advanced-level3.pdf

    Trả lờiXóa

Cám ơn lời bình luận của các bạn .
Tôi sẽ xem và trả lời ngay khi có thể .


I will review and respond to your comments as soon as possible.,
Thank you .

Trần hồng Cơ .
Co.H.Tran
MMPC-VN
cohtran@mail.com
https://plus.google.com/+HongCoTranMMPC-VN/about

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran