Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn văn chương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn văn chương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015

NGUỒN GỐC VĂN MINH NHÂN LOẠI - PHẦN 2 .


NGUỒN GỐC VĂN MINH NHÂN LOẠI .





PHẦN 2 . 
Từ những manh mối nhỏ về di chỉ 26, do nhà khảo cổ học Winkle để lại trong những ghi chép của mình, nhóm chuyên gia khảo cổ do David M.Rohl dẫn đầu, đã lần theo dấu vết và phát hiện những điều thú vị. Dựa trên những khám phá này, David M.Rohl đã dựng nên bức tranh về sự hình thành và phát triển của nền văn minh thế giới cổ đại từ dấu tích vườn EDEN – vùng đất các vị thần được ghi chép trong Kinh Thánh – cho đến những dấu tích rực rỡ của văn minh Ai Cập cổ đại. Với ngôn ngữ mô tả đặc sắc, “Nguồn gốc văn minh nhân loại” như một bộ phim lịch sử sống động được trình chiếu có lớp lang cho người đọc theo dõi từ mốc điểm khởi nguyên của một quá khứ kỳ bí, hấp dẫn đến những chuỗi dài biến động như để giải thích rõ ràng và đầy đủ hơn về nguồn gốc sự phát triển của thế giới nhân loại ngày nay.

Mục lục:
 Lời nói đầu Dẫn nhập 
Phần 1: Từ sương mù của thời gian 

Chương 1: Cuộc tìm kiếm vườn địa đàng
Chương 2: Đất ARATTA 

Phần 2: Những anh hùng vĩ đại 
Chương 3: Cuộc di cư vĩ đại 
Chương 4: Đại hồng thuỷ 
Chương 5: Định niên đại hồng thuỷ 
Chương 6: Những người tiền hồng thuỷ 
Chương 7: Bên kia thời đại hoàng kim 
Chương 8: Thiên đường tìm lại 

Phần 3: Những tín đồ của HORUS 

Chương 9: Những con thuyền của sa mạc 
Chương 10: Chủng tộc triều đại 
Chương 11: Những nhà sáng lập 
Chương 12: Cầu thang lên trời 
Chương 13: Đảo ngọn lửa 
Chương 14: Sáng thế 

Phần 4: Tham khảo 
Phụ lục A: Tân niên đại học dành cho Ai Cập thuộc thời kỳ sớm 
Phụ lục B: Chiến dịch năm 8 của Sargon 
Phụ lục C: Tân niên đại của MESOPOTAMIA.




Nguồn :  http://truyen.enterplus.org/doc-truyen-audio/Nguon-Goc-Van-Minh-Nhan-Loai-79.html#.Uaa3QNJHJMg#ixzz2Ujrl07Gm



Bài  6 .


Bài  8 .


Bài  9 .



Bài  10 .









 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant. 

 Victor Hugo.

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

Túp Lều Của Chú Tom - Harriet Beecher Stowe



Túp Lều Của Chú Tom


Túp lều của chú Tom (tên tiếng Anh: Uncle Tom's Cabin), còn được gọi với tên là Cuộc sống giữa những lầm than (tiếng Anh: Life Among the Lowly) là một tiểu thuyết chống chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ của nhà văn Harriet Beecher Stowe người Mỹ. Được xuất bản vào năm 1852, cuốn tiểu thuyết đã có ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm đối với những người Mỹ gốc Phi và tình cảnh nô lệ ở Hoa Kỳ, làm tăng thêm sự xung đột giữa các tầng lớp dẫn đến Nội chiến Hoa Kỳ, theo Will Kaufman.
Nhà văn Stowe là một người hoạt động chống lại sự nô lệ, đã làm nổi bật trong tiểu thuyết của mình nhân vật chú Tom, một nô lệ da đen phải lìa bỏ vợ con, bị bán từ nơi này sang nơi khác, bị đánh đập tàn nhẫn. Tiểu thuyết mô tả sự độc ác, tàn bạo có thật của sự nô lệ, đồng thời cũng khẳng định tình yêu thương có thể vượt qua mọi thứ để chiến thắng, lật đổ sự nô dịch hoá trong xã hội loài người.
Túp lều của chú Tom là cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất trong thế kỷ 19, trong tuần đầu tiên 5.000 bản đã được bán sạch (và cũng là quyển sách bán chạy thứ hai trong thế kỷ đó, sau Kinh Thánh) , được xem là động lực cho cuộc đấu tranh bãi nô. Trong năm đầu tiên sau khi xuất bản, 300.000 bản được bán hết chỉ tính riêng ở Hoa Kỳ mặc dù cuốn tiểu thuyết bị cấm tại các bang miền Nam nước này. Cuốn sách quan trọng đến mức, khi Tổng thống Abraham Lincoln gặp Stowe vào năm 1862 đã chào mừng bà bằng câu nói nổi tiếng: "Hóa ra bà chính là người phụ nữ nhỏ bé đã viết cuốn sách làm bùng lên cuộc chiến tranh vĩ đại".

Nội dung

"Túp lều của chú Tom" kể về cuộc đời thống khổ của một người nô lệ da đen là chú Tom với chuỗi ngày đen tối, đầy tủi nhục , phải lìa bỏ vợ con, bị bán từ nơi này sang nơi khác, bị đánh đập tàn nhẫn. Cuối cùng do bảo vệ nhân phẩm của mình, chú bị đánh chết trong đồn điền trồng bông khủng khiếp ở miền Nam nước Mỹ, đây cũng là nơi chôn vùi bao cuộc đời lầm than như cuộc đời chú. Tác phẩm cũng kể về số phận của Elida cùng đứa con bỏ trốn. Đó là một người mẹ đã hy sinh tất cả để cứu đứa con khỏi rơi vào tay một tên buôn nô lệ tàn ác; đó là một người vợ tha thiết yêu chồng cũng bị đầy đoạ.

Ý nghĩa 

"Túp lều của chú Tom" ca ngợi những người nô lệ da đen là những người trung thực, biết tôn trọng phẩm giá con người như chú Tom, những người mẹ dũng cảm như Elida, những thanh niên cương nghị, tha thiết với tự do như George. Đồng thời tác phẩm cũng lên án đanh thép chế độ nô lệ với những chủ nô lệ, các tay sai, các con buôn vô cùng tàn bạo. Lên án Pháp luật nước Mỹ khi đó đã bênh vực chế độ nô lệ, cho phép đánh đập xiềng xích, giết chết những người da đen vô tội và trừng trị những ai che chở người nô lệ. Với tác phẩm của mình, nhà văn đã đóng góp một phần vào công cuộc giải phóng nô lệ ở nước Mỹ, tố cáo thống thiết chế độ vô nhân đạo, khích lệ những người Mỹ có lương tâm đấu tranh để tiêu diệt nó.

Theo wikipedia



Harriet Beecher Stowe
Dịch giả: Minh Quân & Mỹ Lan
Vài hàng về tác phẩm và tác giả
   
TÚP LỀU CỦA CHÚ TOM là một tác phẩm nổi tiếng khắp thế giới. Đó là cuốn sách làm say mê hàng triệu độc giả. không riêng tại Châu Mỹ, mà ở khắp nơi, người ta vừa đọc vừa khóc vì câu chuyện thương tâm trong tác phẩm.
Chính danh tác này đã làm chấn động dư luận thế giới, lung lay tận gốc rễ chế độ nô lệ, khiến chế độ này phải đi đến chỗ bị bãi bỏ. Tổng thống Abraham Lincoln của nước Mỹ, người đã ký tuyên ngôn giài phóng nô lệ cũng tỏ lòng ngưỡng mộ, khâm phục tác giả.
Tác phẩm này được hoàn thành do sự phẫn nộ và xúc động của tác giả trước những phũ phàng tàn nhẫn do chế độ nô tệ gây ra mà tác già từng chứng kiến và nghe kể lại; phần lớn những nhân vật cũng như chi tiết trong tác phẩm đều là sự thật.
● ... Và tác giả:

                                                                   

Harriet Elizabeth Beecher Stowe (1811 - 1896) sinh tại Litchfield (Connecticut) con gái của giáo sĩ Lyman Beecher, 16 tuổi, Harriet sống tự lập bằng nghề dạy học, 26 tuổi Harriet thành hôn với giáo sĩ Calvin Stowe, bà sinh hạ được bảy người con (chết mất một đứa).
Bà là một phụ nữ nhỏ nhắn, dáng dấp mảnh mai. Sự thành công ngoài sức tưởng tượng về tác phẩm vẫn không làm bà thay đổi, bà luôn luôn là một người mẹ hiền, vợ tốt luôn luôn khiêm nhường và dung dị. Được hỏi về kỹ thuật sáng tác, bà nhã nhặn trả lời là bà không có tài cán gì, chỉ viết dưới sự hướng dẫn cùa Thượng đế và lương tri.
Trong hai chuyến du hành ở Âu châu, bà được quần chúng tiếp đón nồng hậu, có người nài nỉ bà nhận những món quà quý giá, có người gởi đến bà cả rương tặng phẩm, dân chúng vây quanh bà. Người da đen hôn lên cà mặt đất, nơi mà bà đặt chân qua, tại New York.
Henri Dunant, một vĩ nhân thế giới, người đã có sáng kiến thành lập tổ chức Chữ thập đỏ có công lớn trong việc tìm mọi cách giảm thiểu đau khổ cho nhạn loại cũng nói rằng: ngoài thân mẫu ông, còn có ba phụ nữ khả kính đã ảnh hưởng đến đời ông, mà bà Harriet Stowe là một trong ba phụ nữ ấy.




http://www.gutenberg.org/files/203/203-h/203-h.htm













 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

 Geothe

Thứ Hai, 2 tháng 3, 2015

Nữ hoàng Ai Cập CLEOPATRA


Nữ hoàng Ai Cập   CLEOPATRA 
Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Cleopatra_VII


Cleopatra VII Philopator (tháng 1, 69 TCN – 12 tháng 8, 30 TCN, tiếng Hy Lạp: Κλεοπάτρα Φιλοπάτωρ), sau này Cleopatra Thea Neotera Philopator kai Philopatris, là một Nữ hoàng của Ai Cập cổ đại, và là thành viên cuối cùng của triều đại Ptolemy và vì thế là nhà cai trị người Hy Lạp cuối cùng ở Ai Cập. Dù nhiều Nữ hoàng Ai Cập khác cũng có tên này, bà thường được gọi đơn giản là Cleopatra, và tất cả các người cùng tên sau này hầu như đã bị quên lãng.
Cleopatra là một trong những người nổi tiếng nhất mọi thời đại. Trong một cuộc nội chiến giữa chính phủ và dân chúng, khi Julius Caesar đang giữ một vai trò quan trọng trong lực lượng quân đội, Thư viện Alexandria bị đốt cháy, đây là một bảo tàng cổ của Ai Cập nơi các học giả từ khắp thế giới đến để nghiên cứu. Cuộc chiến này, đặc biệt là việc đốt cháy Thư viện Alexandria được coi là một trong những mất mát lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Cleopatra là người cùng cai trị Ai Cập với cha (Ptolemy XII Auletes), em trai/chồng Ptolemy XIII và Ptolemy XIV và, sau này, con trai Ptolemy XV Caesarion. Cleopatra sống sót sau một cuộc đảo chính do các cận thần của Ptolemy XIII tiến hành, lập được một liên minh với Gaius Julius Caesar củng cố ngôi vị, và sau khi Caesar bị ám sát, liên kết với Marcus Antonius và có con sinh đôi với ông ta. Sau này bà lấy Marcus Antonius và sinh ra một cậu con trai khác. Tổng cộng, Cleopatra có 4 con, 3 với Antonius và 1 với Caesar. Khi sống với các em trai, bà không có con.
Sau khi đối thủ của Antonius và người thừa kế của Caesar là Augustus (Gaius Julius Caesar Octavian) dùng sức mạnh của Đế chế La Mã chống lại Ai Cập, Cleopatra tự sát ngày 12 tháng 8 năm 30 TCN. Danh tiếng của bà vẫn còn lại dưới hình thức nhiều câu chuyện được sân khấu hoá, gồm cả vở kịch Antony và Cleopatra của William Shakespeare và nhiều bộ phim hiện đại.

Cuộc đời

Theo văn hóa và ngôn ngữ Cleopatra là một người Hy Lạp, bà nổi tiếng vì là thành viên đầu tiên trong gia đình (trong giai đoạn cầm quyền 300 năm của họ tại Ai Cập) đã học tiếng Ai Cập. Cleopatra cũng nổi tiếng vì sắc đẹp và trí thông minh của bà. Cleopatra có thể nói 9 thứ tiếng và rất thông minh. Bà đã được hưởng một nền giáo dục toàn diện, được trao quyền và bộc lộ tài lãnh đạo từ rất sớm.

Ra đời và cai trị cùng cha
"Cleopatra" theo tiếng Hy Lạp là vì "vinh quang của vua cha", và tên đầy đủ của bà Cleopatra Thea Philopator có nghĩa là "Nữ thần Cleopatra, đứa con Yêu dấu của Vua cha." Bà là con gái thứ ba của vua Ptolemy XII Auletes và nữ hoàng Cleopatra V. Cha mẹ của Cleopatra là hai anh em ruột, và bà là người đứng thứ ba về quyền kế vị sau khi hai người chị gái kia đã chết. Khi Cleopatra VII lên ngôi ở Ai Cập, bà mới chỉ 18 tuổi. Bà cai trị với tư cách Nữ hoàng Cleopatra và Pharaoh trong giai đoạn 51 tới 30 TCN, và chết ở tuổi 39 vì nọc độc của rắn mào. Loài rắn nảy có bộ da sần sùi và đặc điểm nổi bật nhất là chiếc mào nhỏ hơi giống mào gà vì nó cũng có màu đỏ

Cai trị cùng Ptolemy XIII
Khi người cha qua đời mùa xuân năm 51 TCN, lúc chỉ mới 18 tuổi và là con lớn nhất của Auletes (hai người chị gái đã chết) bà trở thành người cùng cai trị với em trai Ptolemy XIII. Bà đã lấy em trai (theo phong tục cung đình của Ai Cập lúc đó, việc này không bị coi là loạn luân) và lợi dụng việc này để củng cố ngôi vị của mình.

Bị lật đổ
Tới tháng 8 năm 51 TCN bà loại bỏ tên của người em trai ra khỏi mọi giấy tờ chính thức, bỏ qua truyền thống dòng họ Ptolemy rằng phụ nữ cai trị phải phụ thuộc vào người nam giới cùng cai trị. Hơn nữa, trên đồng tiền xu chỉ in hình Cleopatra. Có lẽ bởi vì tính nết độc lập của bà, một âm mưu của triều thần, do hoạn quan Pothinus cầm đầu, lật đổ Cleopatra khỏi ngôi báu - có lẽ xảy ra năm 48 TCN, nhưng cũng có thể sớm hơn - từ năm 51 TCN nghị định nhà nước chỉ còn ghi tên Ptolemy. Bà tìm cách tổ chức một cuộc nổi loạn ở quanh Pelusium nhưng nhanh chóng bị buộc phải rời Ai Cập. Người em gái duy nhất còn lại là Arsinoë đi cùng bà.

Julius Caesar và Cleopatra
Caesar

Tuy nhiên, tới mùa thu năm 48 TCN, quyền lực của Ptolemy bị đe dọa vì sự can thiệp thiếu thận trọng của ông vào công việc của Đế chế La Mã. Khi Gnaeus Pompeius Magnus, bỏ chạy trước Julius Caesar, tới trốn tránh tại Alexandria, Ptolemy đã ám sát ông ta để lấy lòng Caesar. Caesar quá tức giận trước sự xảo trá đó của Ptolemy và ông chiếm thủ đô Ai Cập, tự đặt mình làm trọng tài giải quyết các tranh chấp giữa Ptolemy và Cleopatra (Pompeius đã cưới con gái duy nhất của Caesar, Julia, đã chết khi sinh con). Sau một cuộc chiến ngắn, Ptolemy XIII bị giết.
Cleopatra và con trai Caesariontại Đền Dendera
Để cứu vãn ngôi báu, Cleopatra tìm cách quyến rũ Caesar bằng sắc đẹp và trí thông minh, sự lịch lãm của mình . Bà được Caesar tái lập lên ngôi báu, cùng với một em trai khác Ptolemy XIV là người đồng cai trị.
Caesar sống qua mùa đông năm 48 TCN–47 TCN ở Ai Cập, và làm tăng uy thế chính trị của Cleopatra bằng cách yêu bà. Ai Cập vẫn giữ được độc lập, nhưng ba quân đoàn Roma vẫn đồn trú lại đó. Mối quan hệ trong mùa đông giữa Cleopatra và Caesar có kết quả là một đứa con trai tên là Ptolemy Caesar (tên hiệu Caesarion hay "Caesar nhỏ"). Tuy nhiên, Caesar không cho đứa trẻ này quyền thừa kế, thay vào đó ông chỉ định đứa cháu gọi bằng ông cậu là Augustus, nhận làm con nuôi.



Marcus Antonius

Năm 42 TCN, Marcus Antonius, một trong những thành viên Tam đầu chế cai trị Roma khi có khoảng trống quyền lực sau khi Caesar chết, mời Cleopatra tới gặp ông ở Thành phố Tarsus để giải đáp những câu hỏi về sự trung thành của bà. Cleopatra tới với sắc đẹp và sự quyến rũ tới mức Antonius quyết định sống qua mùa đông năm 42 TCN–41 TCN với bà ở Alexandria. Trong mùa đông, bà có mang cặp con sinh đôi, sẽ được đặt tên là Cleopatra Selene (Cleopatra Mặt Trăng) và Alexander Helios (Alexander Mặt Trời).

Marcus Antonius và Cleopatra
Bốn năm sau, 37 TCN, Antonius lại tới thăm Alexandria trên đường đi chiến đấu với người Parthia. Ông nối lại quan hệ với Cleopatra, và từ đó Alexandria trở thành ngôi nhà của ông. Ông cưới Cleopatra theo nghi lễ Ai Cập (một bức thư đăng trong Cuộc đời của Mười hai Caesars của Suetonius cho thấy điều này), dù khi ấy ông đã cưới Octavia Minor, em (hay chị) gái của người bạn trong Tam đầu chế là Augustus, khiến Augustus tức giận.
Ông và Cleopatra lại có một đứa con khác, Ptolemy Philadelphus. Tại Lễ quyên góp Alexandria cuối năm 34 TCN, sau khi Antonius chinh phục Armenia, Cleopatra và Caesarion được phong là những người đồng cai trị Ai Cập và Síp; Alexander Helios được phong làm vua cai trị Armenia, Media và Parthia; Cleopatra Selene làm vua của Cyrenaica và Libya; và Ptolemy Philadelphus thành vua của Phoenicia, Syria và Cilicia. Cleopatra cũng được phong danh hiệu Nữ hoàng của các ông Vua.
Hình Cleopatra trên đồng tiền đúc tại Syria

Trong cuộc tranh chấp giành ngôi chủ La Mã, Augustus và Antonius đánh nhau và chia cắt đế quốc.
Có một số câu chuyện nổi tiếng nhưng chưa được kiểm chứng về Cleopatra, câu chuyện nổi tiếng nhất là trong một bữa tối xa hoa cùng với Marcus Antonius, bà đặt cược với Antonius rằng mình có thể chi mười triệu sestertius cho một bữa tối. Antonius chấp nhận vụ cược. Tối hôm sau, Cleopatra có một bữa ăn bình thường, không có gì đặc biệt; khi bà ra lệnh mang ra món thứ hai - chỉ một chén dấm mạnh, Antonius tỏ ý chế giễu. Bà tháo một chiếc hoa tai vô giá của mình thả vào đó để nó tan ra và uống cạn.

Cách hành xử của Antonius bị người La Mã coi là thái quá và Augustus thuyết phục Nghị viện La Mã tiến hành chiến tranh chống Ai Cập. Năm 31 TCN các lực lượng của Marcus Antonius đối mặt với Augustus trong một trận thủy chiến ngoài khơi Actium. Cleopatra có mặt với một hạm đội của riêng mình. Truyền thuyết kể rằng khi thấy hạm đội tàu vận hành thủ công và có trang bị kém cỏi của Antonius đang chiến đấu, bà đã bỏ chạy và rằng Antonius cũng bỏ mặc binh sĩ của mình để theo bà. Dù các binh sĩ của Antonius đã dũng cảm chống trả 7 ngày liền nhưng cuối cùng bị thua các tàu chiến La Mã vì không có chủ tướng (tuy nhiên, không hề có một bằng chứng nào thời đó cho thấy thực tế đã xảy ra như vậy).
Sau trận Actium, Augustus xâm chiếm Ai Cập. Khi ông tiến tới Alexandria, quân đội của Marcus Antonius đã rời khỏi đó ngày 12 tháng 8 năm 30 TCN.

Cái chết của Cleopatra của Reginald Arthur
Cái chết 

Khi đã bại trận, để thử lòng chung thủy của Marcus Antonius, Cleopatra sai người báo với ông rằng bà đã chết. Marcus Antonius đau khổ tự sát. Vài ngày sau Cleopatra cũng tự sát (có lẽ do chính bà thực hiện). Câu chuyện còn cho rằng bà bị một con rắn mào gà cắn cùng với hai người hầu. Thông thường mọi người cho rằng bà đã có chủ tâm để rắn cắn, vì người Ai Cập tin rằng nhờ thế có thể đạt tới bất tử. Trong mọi câu chuyện, bà đều chết với hai người hầu. Augustus, đang chờ đợi ở một cung điện gần đó, được thông báo về cái chết của bà và đã đích thân tới quan sát.
Augustus đã hợp táng bà và Antonius trong một ngôi nhà mộ đôi mà bà đã chủ định xây từ trước dành cho hai người.
Con trai của Cleopatra với Caeser, Caesarion, được người Ai Cập đưa lên làm pharaoh, nhưng Augustus đã thắng trận. Caesarion bị bắt và bị hành quyết theo lệnh của Octavian. Chấm dứt không chỉ giai đoạn cai trị của người Hy Lạp trên ngôi vị pharaoh ở Ai Cập mà cả giai đoạn pharaoh ở Ai Cập.
Ba con của Cleopatra với Marcus Antonius được miễn tội và được đưa về Roma nơi chúng được vợ của Antonius là Octavia nuôi nấng. Vài năm sau đó, Alexander Helios và Ptolemy Philadelphus biến mất không để lại dấu vết, chỉ còn lại Cleopatra Selene. Khi lớn lên, con gái Cleopatra Selene kết hôn với Vua Juba II của Mauretania và hạ sinh ít nhất một người con đặt tên là Ptolemy Philadelphus nhằm tưởng nhớ tới người em trai mất tích. Hình của Cleopatra Selene từng được khắc trên các đồng xu cùng với hình của Vua Juba.
Ai Cập trở thành một tỉnh của đế quốc La Mã dưới quyền hoàng đế Augustus.

Cleopatra trong nghệ thuật, điện ảnh và văn học

Cuộc đời Cleopatra là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn và nghệ sĩ qua nhiều thế kỷ. Không nghi ngờ rằng, đa phần sức lôi cuốn xuất phát từ huyền thoại về sắc đẹp có sức quyến rũ mạnh mẽ biến bà trở thành đồng minh của hai người đàn ông quyền lực nhất thời ấy (Caesar và Antonius).

Kịch
Trong số những vở kịch nổi tiếng nhất về bà:
Antony and Cleopatra (kh. 1607) của William Shakespeare
All for Love (1678) của John Dryden
Caesar and Cleopatra (1901) của George Bernard Shaw
The Death of Cleopatre của Ahmed Shawqi

Văn học 
Cléopâtre của Jules-Émile-Frédéric Massenet
Incipit Legenda Cleopatrie Martiris, Egipti Regine từ cuốn The Legend of Good Women của Geoffrey Chaucer
Cléopatre của Victorien Sardou
Cleopatra (1889) của H. Rider Haggard
The Memoirs of Cleopatra của Margaret George
Nhiều cuốn sách về Asterix, với Cleopatra từ cảm hứng của Elizabeth Taylor

TV
Clone High
Rome - Series 1 (Caesarion (tập về Rome)), và có lẽ cả Series 2
Teresa Pavlinek trong vai Cleopatra trong một tập History Bites nói về trận Actium
The Cleopatras, một serie truyền hình của BBC phát sóng năm 1983

Phim ảnh 
Bộ phim đầu tiên đề cập tới Cleopatra là phim Antony and Cleopatra (1908) với Florence Lawrence thủ vai Cleopatra. Phim đầu tiên với Cleopatra là nhân vật chính là Cleopatra, Queen of Egypt, với diễn viên chính Helen Gardner (1912).
Những phim/chương trình TV lấy cảm hứng từ Nữ hoàng sông Nil:
(1917): Cleopatra: Theda Bara (Cleopatra), Fritz Leiber (Caesar), Thurston Hall (Antonius). Đạo diễn J. Gordon Edwards. Dựa trên vở kịch Cléopatre của Émile Moreau, vở Cléopatre của Sardou và Antony and Cleopatra của Shakespeare.
(1934): Cleopatra: Claudette Colbert (Cleopatra), Warren William (Caesar), Henry Wilcoxon (Antonius). Một công trình của nhà đoạt giải Oscar Cecil B. DeMille.
(1946): Caesar and Cleopatra: Vivien Leigh (Cleopatra), Claude Rains (Caesar), Stewart Granger, Flora Robson — dựa trên vở kịch của George Bernard Shaw và được đề cử giải Oscar. Leigh cũng đóng vai Cleopatra cùng với người sau này trở thành chồng bà, Laurence Olivier đóng vai Caesar, trong một vở kịch trên sân khấu tại London.
(1953): Serpent of the Nile: Rhonda Fleming (Cleopatra), Raymond Burr (Marcus Antonius), Michael Fox (Augustus).
(1963): Cleopatra: Elizabeth Taylor (Cleopatra), Rex Harrison (Caesar), Richard Burton (Antonius). Đoạt giải Oscar được nhớ nhất về vụ tình ái sau sân khấu giữa Taylor và Burton và chi phí sản xuất lớn nhất thời đó, $44 triệu.
(1964): Carry On Cleo, một phiên bản bắt chước lại bộ phim năm 1963, Amanda Barrie đóng vai Cleopatra, Sid James vai Marcus Antonius và Kenneth Williams vai Caesar.
(1970): Kureopatora (Cleopatra: Queen of Sex), một bộ phim hoạt họa Nhật Bản kỳ lạ của Osamu Tezuka. Phiên bản có phụ đề tiếng Anh đã bị mất.
(1974): Antony & Cleopatra: được trình diễn bởi Royal Shakespeare Company ở Luân Đôn. Vai chính Janet Suzman (Cleopatra), Richard Johnson (Antonius) và Patrick Stewart (Enobarbus).
(1999): Cleopatra (phim): Leonor Varela (Cleopatra), Timothy Dalton (Caesar), Billy Zane (Antonius). Dựa trên cuốn sách Memoirs of Cleopatra của Margaret George và gần với sự thực nhất.


Tranh, điêu khắc cổ
Bức tranh nổi tiếng nhất về Cleopatra là bức không tồn tại nữa bởi vì vị nữ hoàng đã chết ở Ai Cập một thời gian dài trước khi Augustus giành được quyền lực ở Roma và nhờ vậy Cleopatra cũng lấy lại được uy danh của mình, ông đã ra lệnh vẽ một bức tranh lớn về bà và đưa nó đi trong lễ diễu hành chiến thắng, có lẽ trong bức tranh đó bà được thể hiện khi đang bị rắn độc cắn. Nguồn của câu chuyện này tại Plut. Ant. 86 và App. Civ. II.102, dù rằng nguồn sau thật sự nói về một bức tượng, và Cass. Dio LI.21.3 cho rằng "hình ảnh" đó làm bằng vàng, và vì thế không phải là một bức tranh. Bức tranh ấy được tái hiện trong một bản khắc đầu thế kỷ 19: nó thuộc một bộ sưu tập cá nhân gần Sorrento. Từ đó, bức tranh này đã bị cho là thuộc về bộ sưu tập ở Cortona, nhưng cũng không còn dấu vết nào về nó; sự biến mất âm thầm của bức tranh có lẽ vì nó chỉ là đồ giả mạo. Để có thêm thông tin về toàn bộ vấn đề, xem các liên kết ngoài ở cuối bài.

Tranh, từ thời Phục hưng về sau
Cleopatra và cái chết của bà đã trở thành cảm hứng sáng tác cho hàng trăm bức họa Thời Phục Hưng cho tới tận ngày nay, tất nhiên không bức nào có giá trị lịch sử; chủ đề này đặc biệt lôi cuốn các họa sĩ hàn lâm Pháp.
Sir Thomas Browne: Of the Picture describing the death of Cleopatra (1672)
John Sartain: On the Antique Portrait of Cleopatra (1818)

Nhạc kịch Opera
Cleopatra đã xuất hiện với tư cách một nhân vật trong các vở opera của Handel, Carl Heinrich Graun, Johann Adolf Hasse và Johann Mattheson
Antony and Cleopatra của Samuel Barber diễn khai trương nhà hát Metropolitan Opera House mới năm 1966.

Hội họa 

Suicide of Cleopatra. Sơn dầu. 46 x 36-3/4 in. (116.8 x 93.3 cm) Giovanni Francesco Barbieri sáng tác, cũng được gọi là Guercino. Vẽ năm 1621 và treo trong bộ sưu tập của Bảo tàng Norton Simon tại Pasadena, California. Nó thể hiện Cleopatra và trong tay bà là một con rắn đang sắp được dùng để tự tử.
Cleopatra and the Peasant (1838). Sơn dầu. Eugène Delacroix vẽ. Treo tại Bảo tàng Ackland Art của Đại học North Carolina. Tác phẩm thể hiện một người đàn ông đang trao cho Cleopatra con rắn để bà tự sát.
The Death of Cleopatra, Jean André Rixens sáng tác năm 1874 và treo tại Bảo tàng Augustins ở Toulouse, Pháp.

Guido Cagnacci, Cái chết của Cleopatra, 1658
The Death of Cleopatra, Guido Cagnacci sáng tác năm 1658. Sơn dầu. Treo tại Bảo tàng Vienna Kunsthistorisches.
Guido Cagnacci, Cái chết của Cleopatra, 1658

Victoria Art Gallery, Bath - Không biết tên nghệ sĩ sáng tác (có thể phỏng theo bức), Suicide of Cleopatra

The Banquet of Cleopatra (1743–5). Sơn dầu, 248.2 x 357.8cm. Giambattista Tiepolo (1696–1770) sáng tác, treo tại National Gallery of Victoria, Australia, thể hiện bữa tiệc lớn khi Cleopatra ngâm đôi hoa tai ngọc trai của mình trong cốc dấm.
Cléopâtre et César (1866). Sơn dầu. Jean-Léon Gérôme (1824–1904) sáng tác. Bức nguyên bản đã mất, chỉ còn lại các bản copy. Bức tranh thể hiện Cleopatra đứng phía trước, Caesar ngồi phía sau, vẽ theo phong cách Orientalist.

Nguồn :  http://vi.wikipedia.org/wiki/Cleopatra_VII









Cleopatra - người phụ nữ quyền lực nhất của thế giới cổ đại

Cleopatra, nữ hoàng của Ai Cập cổ đại đã truyền cảm hứng cho vô số tác phẩm nghệ thuật hơn hai nghìn năm qua. Nhưng liệu Cleopatra xinh đẹp như truyền thuyết?



Vị nữ hoàng nổi tiếng của Ai Cập cổ đại có tên đầy đủ là Cleopatra VII Philopator. Bà thường được gọi đơn giản là Cleopatra. Dù nhiều Nữ hoàng Ai Cập khác cũng có tên này song tất cả hầu như đã bị quên lãng. Nữ hoàng Cleopatra lên nắm quyền khi bà mới 17 tuổi và cai trị Ai Cập cổ đại từ năm 51 - 30 Trước Công nguyên, trước khi Chúa Kitô ra đời.

Huyền thoại về sắc đẹp của bà được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa bà với Julius Caesar và Mark Antony - hai nhà lãnh đạo La Mã hùng mạnh. Nhưng bà có thực sự sở hữu vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành như vậy? Để trả lời, chúng ta hãy nhìn vào những bằng chứng lịch sử và khảo cổ học.


Lâu nay, Cleopatra luôn được thể hiện trong hình tượng  khêu gợi như thế này
Lâu nay, Cleopatra luôn được thể hiện trong hình tượng 
khêu gợi như thế này - (Ảnh: Granger Collection, New York)


Hai thế kỷ sau khi Cleopatra trị vì Ai Cập cổ, sử gia người La Mã - Cassius Dio đã mô tả Cleopatra là "người phụ nữ có vẻ đẹp vượt trội" và "cực kỳ thông minh". Còn sử gia người Hy Lạp – Plutarch cho rằng "nhan sắc của bà không đủ nổi bật để có thể khiến ai vừa gặp cũng phải ngẩn ngơ".

Không hề có bức tượng bán thân nào được cho là khắc họa Cleopatra nhưng chúng ta có những hình ảnh khác nhau của bà trên những đồng tiền xu cổ đại. Trong những hình ảnh này, vẻ ngoài của bà hết sức bình thường, chiếc mũi khoằm và nam tính. Tuy nhiên, đồng tiền trong thế giới cổ đại chỉ mang mục đích tuyên truyền chính trị. Có thể bà cố ý khắc họa chân dung nam tính để hợp pháp hoá sự cai trị của một nữ hoàng trẻ.

Cũng cần lưu ý rằng, quan niệm về vẻ đẹp của người cổ đại rất khác với quan niệm của thế giới hiện đại. “Cleopatra có đẹp hay không?” có lẽ là câu hỏi vô ích nếu bà thực sự xinh đẹp trong mắt của những người sống trong thời kỳ đó.

Hoặc có thể chúng ta cần hiểu vẻ đẹp không phải là khái niệm đơn thuần, liên quan tới thân thể. Sử gia Dio cũng nói rằng, Cleopatra có "giọng nói ngọt ngào và biết cách làm cho mình hòa hợp với mọi người". Tương tự như vậy, sử gia Plutarch nói rằng, việc trò chuyện với nữ hoàng Cleopatra "có sự quyến rũ không thể cưỡng lại."

Sức hấp dẫn của Cleopatra không tới từ vẻ đẹp của cơ thể mà tới từ trí tuệ, tính cách và giọng nói của bà. Khi xem xét mối quan hệ sâu sắc giữa bà với Caesar và Antony, rõ ràng bà phải có sự hấp dẫn khác bởi cả hai đều là những người nổi tiếng là thu hút phụ nữ vì vậy họ sẽ không dễ dàng gục ngã trước Nữ hoàng chỉ bởi bà có cơ thể trẻ trung, quyến rũ.

Sắc đẹp của Nữ hoàng Cleopatra không vượt trội so với những người phụ nữ khác nhưng chính nhờ trí thông minh, quyến rũ và táo bạo, bà đã tiếp cận được hai trong số những người đàn ông quyền lực nhất của thế giới cổ đại.

Vẻ đẹp nổi tiếng nhất trong lịch sử nhân loại của Nữ hoàng Cleopatra là vẻ đẹp xất phát từ trí tuệ và bản lĩnh. Đây là bài học lớn cho chúng ta về cách định nghĩa vẻ đẹp trong thế giới hiện đại.


Nhà khoa học Cleopatra


Nữ hoàng Cleopatra có thể không gợi tình như mô tả của các học giả Hy Lạp và La Mã, mà là một nhà khoa học tài giỏi.

Theo một cuốn sách mới, nữ hoàng Ai Cập Cleopatra là người am hiểu toán, hóa học, đồng thời là một triết gia. Hằng tuần, bà thường xuyên gặp gỡ các nhà khoa học khác. Cuốn sách này có nhan đề Ai Cập học: Thiên niên kỷ bị thất lạc, Ai Cập cổ trong các tài liệu viết tay Ả Rập thời trung cổ, sẽ được Nhà xuất bản của Đại học London (UCL) phát hành trong tháng 1. Theo đó, Okasha El Daly - nhà Ai Cập học của UCL - đã tìm thấy những bản viết tay tiếng Ả Rập trung cổ chưa từng được phát hiện trước đây. Ông đã chuyển ngữ và phân tích nội dung các bản chữ dựa trên kiến thức về lịch sử Ai Cập thời đầu.


Theo chuyên gia El Daly, tài liệu chữ Ả Rập đầu tiên về nhà khoa học Cleopatra được ghi lại bởi Al-Masudi, qua đời vào năm 956. Trong cuốn sách Muruj, Al-Masudi viết về Cleopatra như sau: “Nàng là nhà hiền triết, triết gia, đã nâng cao địa vị của các học giả và vui thích với sự đồng hành của họ. Nàng cũng viết sách về y học, bùa chú và mỹ phẩm, bên cạnh nhiều quyển sách khác là tài liệu phổ biến trong giới những người thực hành y khoa”.

Những tác giả thời Ả Rập trung cổ như Al-Bakri, Yaqut, Ibn Al-Ibri, Ibn Duqmaq và Al-Maqrizi cũng đã bày tỏ sự ấn tượng về những dự án xây dựng của nữ hoàng. Trên thực tế, El Daly cho rằng những quyển sách Ả Rập đầu tiên đề cập về Cleopatra và lịch sử Ai Cập do giám mục John xứ Nikiou (cũng là người Ai Cập) viết. Trong đó đã nói về những công trình kiến trúc của nữ hoàng ở Alexandria, với nhiều lời ngợi khen. Còn một sử gia Ả Rập khác, ông Ibn Ab Al-Hakam, cho rằng chính Cleopatra là người đứng sau công trình hải đăng xứ Alexandria, một trong những cấu trúc vĩ đại nhất của thế giới cổ đại.

Trả lời phỏng vấn Đài phát thanh Hà Lan, chuyên gia El Daly cho biết hải đăng xứ Alexandria không chỉ đóng vai trò là đèn biển, mà còn là một kính viễn vọng vĩ đại, có thấu kính khổng lồ dùng để đốt cháy tàu thuyền địch có ý đồ tấn công Ai Cập. Còn những nguồn tài liệu Ả Rập khác chỉ ra Cleopatra đã tạo ra công thức trị rụng tóc và thậm chí nghiên cứu cả khoa sản (thực hiện thí nghiệm theo dõi các giai đoạn phát triển của bào thai trong bụng mẹ), chưa kể khả năng giả kim tài tình.

Để giải thích về sự bất nhất của hình ảnh Cleopatra trong giới sử học, chuyên gia El Daly lý luận rằng những thông tin trước đây về nữ hoàng Ai Cập đều đến từ kẻ thù, những kẻ muốn bôi xấu và biến bà thành một phụ nữ chỉ giỏi chuyện cám dỗ đàn ông. Tuy nhiên, Giáo sư Mary Lefkowitz của Đại học Wellesley (Mỹ) không đồng ý về suy đoán trên. “Trên thực tế, người Ai Cập say mê Cleopatra, dù họ có e sợ về uy quyền của bà đi chăng nữa”, theo Lefkowitz. Các chuyên gia khác cũng ủng hộ giả thuyết mới về một Cleopatra - nhà khoa học.


Cleopatra - Nữ hoàng sắc sảo của thế giới cổ đại


Cleopatra có lẽ là vị nữ hoàng nổi tiếng nhất của thế giới cổ đại. Bà nổi tiếng không chỉ với sắc đẹp của mình mà còn chính vì những nét sắc sảo thông minh của mình và đã trở thành đề tài khai thác của nhiều tác phẩm điện ảnh, sân khấu. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn một vài nét chính cuộc đời và những sự kiện xung quanh người phụ nữ đầy quyền lực này.

 Điều ít biết về các con nữ hoàng Cleopatra 

Cleopatra lên nắm quyền khi bà mới 17 tuổi và cai trị Ai Cập cổ đại từ 51-30 Trước CN. Là một thành viên của nhà Ptolemy, Cleopatra là người Macedonia, tuy nhiên bà vẫn là một vị nữ hoàng của Ai cập và được dân chúng tôn thờ như một vị chúa trời. Cleopatra cũng là vị pharoah cuối cùng của Ai Cập, và nổi tiếng cùng những mối quan hệ chính trị phức tạp với đế chế La Mã. Mối quan hệ giữa Cleopatra và các nhà lãnh đạo La Mã là Julius Caesar, Mark Antony, và Augustus - kẻ thù của bà đã dẫn tới cái chết đầy bi kịch của Cleopatra sau này và đã trở thành nguồn cảm hứng khai thác của rất nhiều kịch bản sân khấu, phim ảnh.

Nữ hoàng Cleopatra


Người phụ nữ cai trị Ai Cập
Theo phong tục của người Ai Cập lúc đó, Cleopatra đã buộc lấy người em trai là Ptolemy XIII khi Ptolemy mới 12 tuổi để kế thừa ngôi trị vì từ người cha quá cố. Tuy nhiên bà đã sớm xóa tên người chồng khỏi các văn bản chính thức, bỏ qua truyền thống của nhà Ptolemy rằng sự hiện diện của người nam giới là điều bắt buộc khi có sự chia sẻ quyền lực. Bà cũng khắc bức chân dung và tên của riêng mình đồng tiền thời đó và bỏ qua người anh em của mình. Vậy tại sao mà nữ hoàng Ai Cập lại có thể hành động như vậy? Câu trả lời là có lẽ người phụ nữ Ai Cập được thừa nhận có khả năng thừa hành quyền lực và xử lý các công việc triều đình.

Dẫu người phụ nữ có nhiều quyền lợi nhưng Ai Cập không phải là một xã hội công bằng khi có sự phân hóa theo tầng lớp xã hội. Người phụ nữ không có quyền thừa kế bình đẳng với người đàn ông và chỉ có một số ít là được học hành. Bên cạnh đó tuy không bị giới hạn về mặt luật pháp, phong tục của người Ai Cập quy định rằng tầng lớp phụ nữ trung và thượng lưu thường xuyên phải gánh vác trọng trách nuôi dưỡng con cái và các hoạt động thường ngày của gia đình.

Tiền Ai Cập cổ đại

Cleopatra và Caesar
Để xóa bỏ quan hệ ràng buộc của bản thân với Ptolemy XIII, người đã buộc bà phải sống lưu vong sau một thời gian độc chiếm cai trị Ai Cập, Cleopatra cần sự hỗ trợ của người La Mã. Sau khi bà tiếp cận và chinh phục được Caesar, Ptolemy đã bị giết. Sau đó vào năm 47 TCN, để tái lập ngôi báu và đã kết hôn với người em trai khác là Ptolemy XIV mới có 11 tuổi. Cũng từ đó, mối quan hệ tình ái giữa Cleopatra và Caesar bắt đầu. Sau khi đã có được Ai cập nhờ sự giúp đỡ của Caesar, bà ta đã đẩy Caesar vào thế khó xử khi nhất quyết phải ép ông đưa mình về Rome.

Liên minh giữa Cleopatra và Julius Caesar sau đó đã càng được củng cố thêm với sự ra đời của con trai giữa hai người là Caesarion, nhằm xây dựng Ai Cập trở lại với vị thế vốn có sau thời gian dài suy yếu. Những người cộng hòa ở La Mã tự nhận là Liberators (phe tự do), do Gaius Cassius Longinus và Marcus Junius Brutus cầm đầu đã ngăn chặn kế hoạch đó bằng cách quyết định giết hại Ceasar ngay tại Viện Nguyên lão Pompey. Sau vụ ám sát đó, Cleopatra đã quay trở về Ai Cập và lập Caesarion làm người đồng cai trị và thừa kế sau khi người em trai thứ hai cũng bị sát hại.

Cleopatra và Caesar

Mark Antony
Sau vụ ám sát Caesar vào ngày 15 tháng 3 năm 44 trước CN, Mark Antony một trong những thành viên Tam đầu chế cai trị Roma khi có khoảng trống quyền lực sau khi Caesar chết đã lên kế hoạch gặp gỡ nữ hoàng Cleopatra của Ai Cập. Tuy đã kết hôn với một người phụ nữ La Mã là Octavia, chị gái của Octavian - người kế nhiệm hợp pháp ngai vàng của Caesar, nhưng Antony vẫn yêu say đắm vị nữ hoàng đầy quyền lực. Octavin đã làm cho người La Mã tin rằng Mark Antony đang chuẩn bị để chuyển giao quyền lực, thứ lẽ ra là của họ cho Cleopatra. Đứng giữa mối đe dọa tiềm tàng này, cuộc cạnh tranh để thừa kế quyền lực của Ceasar đã làm tình hình ở Rome cực kì căng thẳng. Cuối cùng, Mark Antony đã li dị người vợ La Mã của mình sau khi Octavian tuyên chiến với ông và tình nhân.

Ai Cập thuộc về La Mã
Cuối cùng sau khi thất bại tại trận chiến Actium ở ngoài khơi Hy Lạp năm 31 TCN, Antony đã tự tử cùng với Cleopatra, theo như lời đồn là bỏ một con rắn độc vào ngực bà. Quân La Mã của tướng Octavian vào lãnh thổ Ai Cập và diệt vương triều của Cleopatra. Gia tộc Ptolemy đã cai trị Ai Cập kể từ sau cái chết của Alexander Đại Đế vào năm 323 trước CN. Tuy nhiên Rome luôn muốn xâm chiếm Ai Cập và chỉ có cách triều cống mới giúp gia tộc Ptolemy tồn tại trước đế chế La Mã hùng mạnh. Nhưng sau cái chết của Cleopatra thì cuối cùng Ai Cập cũng đã thuộc về Rome.

Nguồn :  http://khoahoc.tv/khampha












 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant. Victor Hugo.













Chủ Nhật, 25 tháng 1, 2015

Bắt trẻ đồng xanh (The Catcher in the Rye) – Jerome David Salinger .


Bắt trẻ đồng xanh (The Catcher in the Rye) – Jerome David Salinger



Jerome David "JD" Salinger là một nhà văn Mỹ sớm đoạt giải thưởng văn chương trong những năm đầu đời. Ông đã mở đầu cho khuynh hướng tự thuật về một cuộc sống rất riêng tư và để lại ảnh hưởng rất lớn trong hơn một nửa thế kỷ. JD Salinger cũng đã xuất bản tác phẩm nguyên gốc cuối cùng của ông vào năm 1965 và  tham gia cuộc phỏng vấn cuối cùng của ông vào năm 1980 (Theo Wikipedia)
Sinh : 01 tháng 1 , 1919, thành phố New York, New York, Hoa Kỳ
Mất :  27 tháng 1 , 2010 ( 91 tuổi ), Cornish, New Hampshire, Hoa Kỳ
Các con : Matt Salinger , Margaret Salinger
Học vấn : Ursinus College .
Người phối ngẫu : Colleen O'Neill (1988-2010), Claire Douglas (1955-1967), Sylvia Welter (1945-1947)


Các tác phẩm chính :


1.The Young Folks
2.Go See Eddie
3.The Hang of It
4.The Heart of a Broken Story
5.The Long Debut of Lois Taggett
6.Personal Notes on an Infantryman
7.The Varioni Brothers
8.Both Parties Concerned
8.Soft Boiled Sergeant
10.Last Day of the Last Furlough
11.Once a Week Won't Kill You
12.A Boy in France
13.Elaine
14.This Sandwich Has No Mayonnaise
15.The Stranger
16.I'm Crazy
17.Slight Rebellion Off Madison
18.A Young Girl in 1941 with No Waist at All
19.The Inverted Forest
20.A Perfect Day for Bananafish
21.A Girl I Knew
22.Uncle Wiggily in Connecticut
23.Just Before the War with the Eskimos
24.Blue Melody
25.The Laughing Man
26.Down at the Dinghy
27.For Esmé - With Love and Squalor
28.The Catcher in the Rye
28.Pretty Mouth and Green My Eyes
30.De Daumier-Smith's Blue Period
31.Teddy
32.Franny
33.Raise High the Roof Beam, Carpenters
34.Zooey
35.Seymour: An Introduction
36.Hapworth 16, 1924

Xem thêm : http://salinger.org/



Khi đọc tựa truyện “Bắt trẻ đồng xanh”, nếu chưa được giới thiệu trước, hẳn dễ tưởng đây là sách thiếu nhi. Trong khi đây lại là tác phẩm từng gây tranh cãi lớn vì ngôn từ “phàm tục”, đề cập sự nổi loạn và tâm lý chán chường của lứa tuổi vị thành niên tại Hoa Kỳ thập niên 1950. Đây là cuốn sách đầu tay của nhà văn Hoa Kỳ Jerome David Salinger.

Câu chuyện được nhân vật chính – cậu trai trẻ 17 tuổi Holden Caulfield – kể lại qua ngôi thứ nhất. Đó là một thanh niên vừa bị đuổi học, vốn là người nhạy cảm và thông minh, nhưng lại không tìm được hứng thú trong cuộc sống và học tập. Đặc biệt Holden rất “dị ứng” với thói đạo đức giả có đầy rẫy trong cuộc sống xung quanh. Phía sau sự chán chường và những phản kháng, là một thanh niên giàu tình cảm, biết trân trọng những điều những giá trị “thật”.

Tôi không muốn tóm tắt nội dung cuốn sách này, và cũng mong rằng các bạn đừng đọc những tóm tắt nếu có. Bởi những sự việc được Holden kể lại, như việc bị đuổi học, đi thăm thầy giáo, đánh nhau, lang thang, tìm gái mại dâm,.. chỉ là những diễn biến để những tâm tư của cậu được bộc lộ, những trăn trở được giải bày qua ngôn ngữ giễu cợt chua cay. Những ký ức xen lẫn về người em trai đã chết, tình cảm dành cho cô em gái nhỏ cũng như cô bạn, là những điều không thể “tóm tắt” mà phải đọc hết từng câu từng chữ, để rồi thấu hiểu và cảm nhận.



Cuốn sách ra đời năm 1951 tại Hoa Kỳ, và đến nay đã xuất bản 65 triệu bản trên toàn thế giới. Tôi tin rằng đã có nhiều thế hệ thanh thiếu niên tại nhiều nơi khác nhau cảm thấy một phần của mình trong cuốn sách. Sự giả dối của người lớn, sự kệch cỡm của xã hội, tâm lý nổi loạn của tuổi mới lớn… dù biểu hiện khác nhau vẫn luôn chứa đựng những trải nghiệm mà ai cũng từng gặp. Không nêu ra những thứ giáo điều, nhưng chính câu chuyện của Holden lại là bài học quý giá mà cả người lớn lẫn những người đang trưởng thành có thể thấm thía. Mặc dù tác phẩm từng được đưa vào giảng dạy ở trung học tại Hoa Kỳ nhưng cá nhân tôi cho rằng bạn trẻ Việt Nam chỉ nên đọc cuốn này sau 18 tuổi.

Ghi chú: tôi đọc bản dịch của Phùng Khánh và Phùng Thăng được Nhã Nam tái bản 2008.

Bản tiếng Việt tham khảo dưới đây do Đức Dương và Bùi Mỹ Hạnh dịch (NXB Phụ nữ):
http://www.ConMotSach.com/books/bat_tre_dong_xanh.prc

Tham khảo bản tiếng Anh:
  http://www.ConMotSach.com/books/catcher_in_the_rye.pdf

Nguồn :  http://www.conmotsach.com/blog/bat-tre-dong-xanh-the-catcher-in-the-rye-jerome-david-salinger/



Đọc trực tuyến



Bắt Trẻ Đồng Xanh​
Tác Giả: J.D. Sainger​

Giới thiệu:​
Nếu có ai đó hỏi, liệu một quyển sách có khả năng làm thay đổi đời người không, tôi sẽ trả lời rằng tôi hiếm khi nghi ngờ điều đó. Một quyển sách, đến vào đúng thời điểm, có thể làm cho cuộc sống của ta rẽ sang hướng khác.
Đấy không phải là điều bạn được tuyên truyền hay dạy bảo, mà chính bạn sẽ rút ra được kết luận này, khi bắt gặp quyển sách của đời mình.
Tôi nhớ một buổi chiều ở Era, quán café sách quen thuộc tôi hay ghé lại mỗi khi rảnh rỗi. Khi đang chăm chú chọn sách trên chiếc giá sách nhỏ hai ngăn sát tường, có một người khách nữa trong quán cũng đến kệ sách. Đó là một người lạ, nhưng chúng tôi vẫn gật đầu chào nhau, có lẽ vì những ai cùng chung sở thích sẽ cảm thấy dễ gần hơn.
Và trong lúc cả hai đang chọn sách, anh quay sang tôi bắt chuyện, chủ yếu vẫn là hỏi về những thể loại sách tôi thích đọc. Rồi người lạ hỏi tôi, em đọc Bắt Trẻ Đồng Xanh chưa. Nhận được một cái lắc đầu thay câu trả lời, anh rút trong giá sách ra một quyển rất cũ, đưa cho tôi kèm lời giới thiệu “em đọc thử đi, sẽ không thấy tiếc thời gian đâu”.
Tôi nhớ mình đã ngồi lại đọc cho đến hết quyển sách được giới thiệu ấy. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không tiếc khoảng thời gian đã bỏ ra cho bất kỳ quyển sách nào, không hẳn chỉ vì tôi thích đọc, mà có lẽ vì một quyển sách dù rất tệ cũng sẽ mang lại cho bạn vài điều gì đó đáng nói. Và nếu một lúc nào đó bạn được đắm chìm trong những trang viết tuyệt vời, thì đó hẳn là những khoảnh khắc đáng quý.
Nhưng sẽ hay hơn nhiều, nếu khi buông quyển sách xuống, và thoát ra khỏi thế giới của nó mà ảnh hưởng của những gì bạn đọc được vẫn còn đó, đi theo bạn, trở thành một phần của bạn. Bắt Trẻ Đồng Xanh, đối với tôi – là một quyển sách như thế.
Tôi tìm thấy sự đồng cảm với nhân vật chính – Holden Caulfield, chàng trai 17 tuổi bị đuổi khỏi trường dự bị Pencey vì những lý do như đã thi trượt bốn trong tổng số năm môn, hay không chịu học hành, nhưng lý do lớn nhất là cậu đã chán đến tận cổ một nền giáo dục giáo điều, rỗng tuếch; cũng như những con người đạo đức giả và bộ tịch đầy rẫy trong môi trường học tập của cậu.
Tôi dõi theo bước chân của Holden - một cậu trẻ thông minh và nhạy cảm - chỉ vừa bước một chân qua ngưỡng cửa của sự trưởng thành, còn nhiều băn khoăn, nghi ngờ, đôi lúc chán nản cùng cực. Cho dù là ở New York xa xôi, hay ngay tại đây, chung quanh chúng ta và có thể ngay chính bản thân chúng ta nữa, chúng ta luôn tìm thấy những nỗi băn khoăn, những hoài nghi, và sự phản kháng thậm chí nổi loạn của giới trẻ.
Có thể chính vì thế mà qua nhiều năm, Bắt Trẻ Đồng Xanh luôn tìm được những cảm xúc đồng điệu trong lòng người đọc, và luôn có ảnh hưởng đến những lớp độc giả trẻ tuổi. Ở đó, người ta bắt gặp hình ảnh của mình, hoặc là một phần của chính mình.
Ngay từ lần xuất bản đầu tiên tại Hoa Kỳ năm 1951, Bắt Trẻ Đồng Xanh (nguyên tác: The Catcher in the Rye) đã trở thành một hiện tượng. Bị chỉ trích như một quyển sách tồi tệ vì dùng ngôn ngữ thô tục và đề cập đến tôn giáo, xã hội và giáo dục một cách “không chính thống”, nhưng đồng thời Bắt Trẻ Đồng Xanh cũng là quyển sách được đưa vào chương trình giáo dục trung học của Hoa Kỳ.
Hình tượng nhân vật chính – Holden Caulfield, trở thành một hình ảnh biểu trưng cho một thế hệ thanh niên lạc lõng, chán chường và nổi loạn, không chỉ có giá trị phản ánh một phần lịch sử đương thời, mà nó luôn tươi mới và gắn liền với cuộc sống, với những người trẻ ở bất kỳ một thời điểm nào. Cho đến nay, với hơn 65 triệu ấn bản được bán ra trên toàn thế giới, cũng như việc quyển này được tạp chí Time đưa vào danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất từ 1923 đến nay cũng đã phần nào cho thấy sức sống và sức lan tỏa của tác phẩm.
Tại Việt Nam, người đọc làm quen với ấn phẩm tiếng Việt qua bản dịch của Phùng Khánh (Nhà sách Thanh Hiên – 1965) và một bản nữa của Đức Dương và Bùi Mỹ Hạnh (NXB Phụ Nữ, 1992 và tái bản bởi NXB Văn Học, 2005).
Trong bài phê bình “Những giá trị đạo đức trong Bắt trẻ đồng xanh” của Edwards June (Mai Sơn dịch), ông cho rằng “Trái với những lời kết tội, Bắt Trẻ Đồng Xanh đích thực là một cuốn sách đạo đức. Dù bạn lấy những lời dạy của Jesus, văn kiện của chế độ dân chủ, lý thuyết của Kohlberg, hay bất cứ một nguồn luận cứ nào khác để làm nguồn sáng đạo đức soi rọi, thì Holden vẫn nổi lên như là một con người bối rối mà đức hạnh.”
Tất nhiên, Bắt Trẻ Đồng Xanh không chỉ có thế, vì nếu đấy chỉ là một cuốn sách đạo đức thì bạn đã có hàng ngàn cuốn khác như thế, hàng ngàn cuốn rao giảng đạo đức đơn thuần. Bắt Trẻ Đồng Xanh, trong cách nhìn nhận của tôi, là một quyển sách làm nên sự khác biệt.
Với tôi, trước nhất khía cạnh giữ chân tôi là cách kể chuyện tự nhiên và cuốn hút của tác giả, cũng như việc nắm bắt tâm lý giới trẻ rất tốt, để tôi cảm thấy như thể Salinger viết cho chính mình, cho những người cùng thời, mà còn cho cả tôi, hoặc viết về một ai đó có nhiều điểm giống tôi.
Theo chân Holden Caulfield trở về nhà ở New York sau khi bị đuổi học, tôi không chỉ trải qua một chặng đường với nhiều điểm lý thú nho nhỏ, mà đến khi đọc xong, tôi biết rằng chàng trai ấy không chỉ để lại cho tôi một ấn tượng đẹp, mà còn gieo vào lòng tôi một mong muốn mãnh liệt: mong muốn được tìm thấy bản thân, và được sống với những giá trị đích thực của chính mình.
Trong một xã hội mà những giá trị ảo và thói đạo đức giả lên ngôi, Holden đã cố tách mình khỏi nó. Người ta cần sự tỉnh táo để nhận ra những điều xấu xa, dối trá; cần lòng ngay thẳng để biết ghê tởm và xa lánh chúng; nhưng cũng cần cả sự trong sáng trong tâm hồn để biết nhìn ra những điểm tốt đẹp giữa nơi xô bồ chứ không đánh đồng mọi việc.
Holden chính là một người có những phẩm chất đó. Cậu chán ngấy những màn kịch tôn giáo màu mè và nghĩ “nếu Jesus mà thấy được những bộ trang phục màu mè ấy, chắc ngài sẽ nôn mửa ra mất”, nhưng lại quý mến và quyên tiền cho hai nữ tu đang trên đường xuống miền Nam Chicago dạy học.
Caulfield chán nản những trường lớp rao giảng giáo điều, nhưng trước khi về nhà sau khi bị đuổi học cậu còn ghé thăm ông giáo già dạy Sử, người tuy đã đánh trượt cậu nhưng cậu vẫn quý ông ta vì lòng nhiệt tâm với nghề, thậm chí còn ghi thêm vài dòng vào bài thi để ông không cảm thấy áy náy khi đánh trượt mình.
Cũng vậy, tuy ghê tởm những đứa bạn bẩn thỉu, nhưng Caulfield sẵn sàng trò chuyện hay đi xem phim với chúng, vì chúng chẳng có đứa bạn nào. Tôi cảm động vì Caulfield, ngay cả khi có hành động nổi loạn vẫn không hề chống lại những nền tảng gia đình, vẫn tôn kính cha mẹ và yêu thương anh em, đặc biệt là cô em gái Phoebe.
Với tôi, đoạn trò chuyện giữa hai anh em khi Caulfield lẻn vào nhà, cũng như đoạn kết khi cậu quyết định ở lại vì em gái và dẫn em đi chơi công viên là một trong những trang viết đẹp nhất mà tôi từng đọc về tình cảm gia đình. Nó trong sáng, cảm động dù quả thực rất trẻ con, và nó làm bạn bất giác mỉm cười.
Với tôi, Bắt Trẻ Đồng Xanh chưa bao giờ là một quyển sách của sự phản kháng và chán chường đơn thuần. Tôi tìm thấy ở đó niềm vui sống, của nhân vật và của cả độc giả. Những niềm vui giản dị, nhỏ bé và rất dễ bắt gặp khắp mọi nơi. Mội bài thơ của đứa em đề tặng trên găng tay, một giọng hát trẻ con trong trẻo, hay những mơ ước có phần viển vông….
Như “nghề mơ ước” của Holden Caulfield vậy: hãy hình dung một cánh đồng lúa mạch xanh bát ngát ở đâu đó trên trái đất này, chỉ có bầy trẻ con chơi với nhau. Cậu sẽ đứng trên một mỏm đá bên rìa vực thẳm, ngắm lũ trẻ chơi đùa, canh chừng cho chúng. Khi chúng băng qua cánh đồng xanh, đến gần mỏm đá, chàng Holden nhà ta sẽ tóm lấy chúng để chúng khỏi rơi xuống. Chỉ thế thôi.
Đọc đến đấy, tôi bật cười. “Anh biết, Phoebe ạ, đó là mơ tưởng điên khùng, ngu xuẩn, nhưng thực sự anh muốn thế”.Không chỉ Holden, có lẽ còn nhiều người mơ như thế, hoặc tương tự thế. Và không có giấc mơ nào là ngu xuẩn, nhất là việc giữ lại niềm vui ngây thơ của con trẻ, cũng như chia sẻ niềm vui ấy với chúng. Có lẽ bất kỳ xã hội nào cũng cần những con người muốn làm công việc “bắt trẻ đồng xanh” ấy.
Trong một quyển tiểu thuyết tôi đọc, có 1 nhân vật nói về cha mình như sau “Ông cụ rất tốt, nhưng ông là một chai Coca. Có hàng triệu chai Coca trên thế giới này, và chúng giống hệt nhau. Tôi không muốn mình cũng là một trong số đó”.
Khi những nỗ lực đồng hóa mọi người, những khuôn thước, chuẩn mực đuợc đưa ra để triệt tiêu cái Tôi khác biệt, Bắt Trẻ Đồng Xanh là một tiếng nói phản tỉnh. Quyển sách đánh thức cái mong muốn được sống đúng với thực chất con người mình trong tôi.
Mỗi người là một vũ trụ nhỏ bao gồm cả những điểm đẹp đẽ và xấu xa nhưng rất riêng biệt, chính vì thế nó làm cho cuộc đời rộng lớn kia thêm phong phú. Tôi đã biết cách trân trọng những điểm khác biệt ở người khác, ngay cả khi họ có quan điểm trái ngược với mình.
Tôi nuôi dưỡng những giấc mơ, và luôn nỗ lực để có thể biến nó thành hiện thực (tất nhiên không phải là một giấc mơ bắt được vài đứa trẻ băng qua cánh đồng). Và tôi tin ở những gì mình cảm nhận được. Chẳng phải niềm tin là một điều đẹp đẽ sao, và cứ hãy tin những điều bạn muốn, thay vì tin những gì người ta muốn bạn phải tin, hoặc cố nhồi vào đầu bạn.
Cho dù đi ngược lại, hoặc không hoàn toàn trùng khớp với những “giá trị chung” như Kinh thánh, hay sách vở thì với tôi Bắt Trẻ Đồng Xanh vẫn là một quyển sách đẹp đẽ, vì nó giúp người ta nhận ra Con Người, hiểu với ý nghĩa đơn lẻ nhất – đáng được trân trọng như thế nào.
Khi Holden bị đuổi học, đúng ra là lần thứ tư bị đuổi, cô em gái luôn lập lại “bố sẽ giết anh mất thôi”. Cậu cũng hình dung ra chuyện gì chờ đợi mình, nhưng tôi chắc Holden sẽ không đời nào chọn con đường dẹp bỏ cảm xúc, tảng lờ chính tiếng nói của tâm hồn mình để trờ thành một ai đó như mong muốn của gia đình, hay có một vị trí trong xã hội.
Khi Holden nói với em Phoebe “anh sẽ lên phía Bắc chăn ngựa…” dù cậu chưa từng cưỡi ngựa, tôi tin rằng nếu có cơ hội Holden vẫn sẽ làm mọi cách để tìm đến cánh đồng xanh của mình. Tôi cũng thế, và ngã rẽ của cuộc đời tôi được đánh dấu vào ngày tôi rời trường đại học để làm những gì mình thực sự muốn. Trong quyết định ấy của tôi có phần ảnh hưởng không nhỏ từ Bắt Trẻ Đồng Xanh.
Cuộc sống thật đáng quý và có lẽ rất ngắn ngủi, vì thế ta có lẽ nên dành thời gian để làm những việc mình muốn, thay vì sống theo ý muốn của một ai đó khác hoặc sống cho qua tháng ngày.
Nhìn lại, cho đến giờ có thể tôi chưa đạt được thành công gì đáng kể, và sau này tôi cũng chẳng mong mình thành ông thánh bà tướng gì cả. Tôi chỉ đơn giản thấy hạnh phúc và mãn nguyện.
Nếu bạn muốn tặng ai đó một món quà, tôi xin đưa ra một đề nghị nho nhỏ: bạn hãy tặng họ 1 quyển sách. Có thể nó không tạo ra một bước ngoặt, không thay đổi cuộc đời họ, mà chỉ đơn giản là làm họ thêm yêu đời là đã đủ rồi. Sẽ chẳng bao giờ là quá muộn để bắt đầu Sống thực sự, và đôi khi quá trình ấy được khởi đầu, hoặc thúc đẩy nhờ vào một quyển sách đến đúng thời điểm.
Khi tôi đọc Bắt Trẻ Đồng Xanh, đó là 1 quyển sách cũ rách bìa xuất bản từ trước năm 75, và thuộc dạng sách hiếm, khó tìm, ngay cả khi tìm trong các nhà sách cũ. Tôi đã mượn chủ quán về để bọc lại bìa, và hi vọng có nhiều bạn sẽ tiếp tục đọc nó, cũng như copy ra nhiều bản để tặng bạn bè mình.
Đến cuối tháng 04.2008, tôi lại thấy bản Bắt Trẻ Đồng Xanh ngoài nhà sách, vẫn là bản dịch cũ của dịch giả Phùng Khánh, có chỉnh sửa và biên tập lại. Quả thực, đó là một niềm vui đối với tôi.
Tự quyển sách làm nên giá trị của nó, nhưng phải kể đến phần đóng góp không nhỏ của dịch giả Phùng Khánh trong việc mang lại một bản dịch tiếng Việt điêu luyện, nhuần nhị và tinh tế mà vẫn giữ được tinh thần của nguyên tác.
Khi việc tìm kiếm quyển sách không quá khó khăn như trước nữa, sao bạn không thử tìm đọc nó? Tôi nghĩ bạn sẽ không tiếc thời gian đã bỏ ra, nhất là sau khi đọc xong quyển tiểu thuyết đẹp đẽ ấy.

Crimson Mai

Download:
Dropbox: [EPUB] [PRC]
 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant.

 Victor Hugo.


Thứ Tư, 14 tháng 1, 2015

10 tác phẩm văn học nổi tiếng .


10 tác phẩm văn học nổi tiếng .

Theo Raleigh News and Observer 

1.  Anna Karenina (Leo Tolstoy)


2.  Bà Bovary (Gustave Flaubert)




3.  Chiến tranh và Hòa bình (Leo Tolstoy)



4.  Lolita (Vladimir Nabokov)





5.  Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn (Mark Twain)




6.  Hamlet (Shakespeare)




7.  Đại gia Gasby (F.Scott Fitzgerald)




8. Đi tìm thời gian đã mất (Marcel Proust)






9. Truyện ngắn Chekhov (Anton Chekhov)




10. Middlemarch (Geogre Eliot)







 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant.

 Victor Hugo.

Chủ Nhật, 4 tháng 1, 2015

Nghìn lẻ một đêm .


Nghìn lẻ một đêm . 



Đọc trực tuyến trên Calaméo





Đọc trực tuyến trên wattpad












Xem phim trực tuyến









 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant.

 Victor Hugo.



Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014

NANH TRẮNG - JACK LONDON .


NANH TRẮNG - JACK LONDON .









Nanh Trắng (nguyên tác tiếng Anh: White Fang) (1906) là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Mỹ   Jack London. Tiểu thuyết này đã được đăng từng kỳ lần đầu tiên trên Tạp chí Outing từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1906.

Giới thiệu cốt truyện

Nanh Trắng là một câu truyện về cuộc hành trình của một con chó sói lai chó nhà để trở thành một kẻ được khai hóa trong lãnh thổ Yukon của Canada trong thời kỳ đổ xô đi tìm vàng Klondike cuối thế kỷ 19. Nanh Trắng là một tiểu thuyết đồng hành (có cốt truyện và hoàn cảnh gần tương tự) với một tiểu thuyết nổi tiếng khác của cùng tác giả là Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call of the Wild) kể về một chú chó tên Buck bị những người đi tìm vàng bắt làm chó kéo xe và đã bị bản năng hoang dã biến thành một chú chó hoang hung dữ.
Tác phẩm này mang đặc thù phong cách văn xuôi chính xác của Jack London và cách sử dụng giọng văn và phối cảnh sáng tạo của ông. Phần lớn nội dung tiểu thuyết được viết từ lối nhìn của động vật, cho phép Jack London khảo sát cách mà loài vật nhìn nhận thế giới của chúng và cách mà chúng nhìn nhận loài người. Nanh Trắng khảo sát thế giới bạo lực của dã thú, và thế giới không kém phần bạo lực của nhân loại được-xem-là-văn-minh. Cuốn sách cũng đề cập đến những chủ đề phức tạp hơn: luân lý và sự cứu chuộc.
Nanh Trắng đã được chuyển thể thành phim nhiều lần, bao gồm bộ phim năm 1991.

Bản dịch tiếng Việt

Nanh Trắng, Bảo Hưng dịch, Quỳnh Hải Hà hiệu đính, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997

TẬP 6  http://phimvang.com/node/7953/3nsb7GQtBRDUbx7bigfLng


TẬP 7  http://phimvang.com/node/7953/yqmtStoJXuAnEle_fAAysw












 ------------------------------------------------------------------------------------------- 

 Chúng ta phải biết và chúng ta sẽ biết . 

 David Hilbert .

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran