Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn nghệ thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn nghệ thuật. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

Tâm tình hiến dâng - RABINDRANATH TAGORE .






Ảnh : http://www.rjgeib.com/thoughts/tagore/tagore.html




*Vì vui riêng, người đã làm tôi bất tận. Thân này thuyền nhỏ mong manh đã bao lần người tát cạn rồi lại đổ đầy cuộc sống mát tươi mãi mãi.

Xác này cây sậy khẳng khiu, người đã mang qua núi, qua đồi, qua bao thung lũng, và phả vào trong giai điệu mới mẻ đời đời.

Khi tay người bất tử âu yếm vuốt ve, tim tôi ngập tràn vui sướng, thốt nên lời không sao tả xiết.

Tặng vật người ban vô biên vô tận, nhưng để đón xin, tôi chỉ có hai tay bé nhỏ vô cùng. Thời gian lớp lớp đi qua, người vẫn chửa ngừng đổ rót, song lòng tôi thì hãy còn vơi.

 (Người dịch: Đỗ Khánh Hoan)


 -------------------------------------------------------------------------------------------





TIỂU SỬ    RABINDRANATH  TAGORE .

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2013

Uyên ương gẫy cánh - KAHLIL GIBRAN .


UYÊN ƯƠNG GẪY CÁNH -
KAHLIL GIBRAN  \*`./*    

Nguồn : http://features.cgsociety.org/newgallerycrits/


Kahlil Gibran


Tặng người nhìn thẳng mặt trời với đôi mắt ngây dại, nắm bắt lửa với những ngón tay không chút run rẩy và nghe giai điệu tinh thần của Vĩnh cửu đằng sau tiếng la hét chát chúa của người mù. Tôi tặng M.E.H cuốn sách này.
Gibran

Lời mở đầu

Tôi được tình yêu mở mắt năm mười tám tuổi với những tia sáng kỳ diệu của nó, và tinh thần tôi được nó chạm tới lần dầu tiên bằng những ngón tay nồng nàn. Selma Karamy là người nữ đầu tiên đánh thức tinh thần tôi bằng vẻ đẹp của nàng và dẫn tôi vào khu vườn thương cảm cao ngất nơi ngày ngày đi qua như những giấc mộng và đêm đêm như những tối tân hôn.
Selma là người dạy tôi thờ phượng cái đẹp bằng gương mẫu của nhan sắc nàng và vén lộ cho tôi bí mật tình yêu bằng lòng thương cảm của nàng. Nàng là người đầu tiên hát cho tôi nghe những bài thơ của cuộc đời chân chính.

Người tuổi trẻ nào khi nhớ lại mối tình đầu của mình và ra sức nắm bắt trở lại giờ khắc lạ thường ấy thì hồi ức đó làm thay đổi cảm xúc sâu xa nhất của y khiến y cảm thấy quá đổi hạnh phúc, bất chấp mọi đắng cay trong bí nhiệm của nó.
Cuộc đời người tuổi trẻ nào cũng có một "Selma", kẻ hốt nhiên xuất hiện với y giữa mùa xuân cuộc đời, chuyển biến nỗi cô đơn của y thành những khoảnh khắc hạnh phúc và làm những đêm dài tịch mịch của y chan chứa âm nhạc.

Thuở đó, trong khi tôi đang mê mải với ý nghĩ và miệt mài với trầm tư, tìm cách thấu hiểu ý nghĩa của thiên nhiên cùng sự mặc khải của sách vở và sách thánh thì nghe tiếng TÌNH YÊU thầm thì bên tai qua đôi môi của Selma. Cuộc sống của tôi là một cơn hôn mê trống rỗng, như cuộc sống của A-đam trong vườn Địa đàng, và rồi tôi bỗng thấy Selma đứng ngay trước mặt mình như một cột ánh sáng. Nàng là Eva của trái tim tôi, một Eva làm cho tâm hồn tôi tràn ngập những bí ẩn cùng những kỳ diệu và làm cho tinh thần tôi thấu hiểu ý nghĩa của cuộc đời.

Nàng Eva đầu tiên của loài người dẫn A-đam ra khỏi vườn Địa đàng bằng ý muốn của chính nàng, ngược lại Selma, nàng Eva của tôi, khiến cho tôi tự nguyện đi vào vườn địa đàng tình yêu thuần khiết và đức hạnh bằng sự dịu ngọt và tình yêu của nàng. Tuy thế, điều xảy ra cho người đàn ông đầu tiên cũng đã xảy ra cho tôi, và thanh gươm sáng loé xua đuổi A-đam ra khỏi vườn Địa đàng cũng giống với cái đã làm tôi kinh hãi các cạnh sắc lấp lánh của nó và bức bách tôi phải ra khỏi vườn địa đàng tình yêu cho dẫu tôi không bất tuân mệnh lệnh nào và không nếm vị trái cấm nào.

Giờ đây, sau nhiều năm trôi qua, tôi chẳng còn lại gì của giấc mộng tuyệt diệu ấy ngoài những hồi ức đau đớn dồn dập như những chiếc cánh vô hình đang vỗ chung quanh mình, làm mọi chốn sâu thẳm trong tâm hồn tôi tràn ngập khổ não và mang nước mắt đến trên đôi mắt tôi. Selma xinh đẹp, người tôi thương yêu, đã chết mà không để lại gì cho tôi tưởng niệm ngoài con tim tan vỡ của tôi và nấm mồ của nàng với những cây bách bao quanh. Nấm mồ ấy và con tim này là tất cả những gì lưu lại để làm chứng về Selma.

Không khí tịch lặng canh gác nấm mồ không vén lộ bí mật của Thượng đế trong chốn áo quan mịt mùng, và âm thanh sột soạt của những cành cây mà rễ chúng hút các thành tố của hình hài ấy không kể cho nghe những bí ẩn của huyệt mộ; chỉ có tiếng thở dài áo nảo của con tim tôi báo cho người đang sống biết một thảm kịch thể hiện tình yêu, cái đẹp và sự chết.

Hỡi các bằng hữu thời thanh xuân của tôi, những kẻ giờ đây người một nơi trong thành phố Beirut, mỗi khi các bạn đi ngang nghĩa trang gần rừng thông đó, xin hãy thinh lặng ghé vào và đi chầm chậm để tiếng chân bước không làm rộn giấc ngủ của người đã qua đời. Và xin khiêm tốn dừng lại bên mồ của Selma, nghiêng mình chào mặt đất đang khép kín hình hài nàng, và hãy nhắc đến tên tôi với tiếng thở rất dài rồi nói với mình rằng:

"Đây là nơi chôn cất mọi hi vọng của Gibran, kẻ đang sống như người tù ở chốn bên kia biển. Tại nơi này, hắn đã đánh mất hạnh phúc, khô cạn nước mắt và quên hết nụ cười."

Bên nấm mồ ấy, khổ não của Gibran cùng lớn lên theo với các cây bách. Trên nấm mồ ấy, tinh thần của Gibran hằng đêm lung linh tưởng nhớ Selma, đau đớn hiệp cùng cành bách cất tiếng than khóc thương tiếc sự ra đi của Selma, kẻ hôm qua là giai điệu tuyệt trần trên đôi môi cuộc đời và hôm nay là niềm bí mật thinh lặng trong lòng đất.

Hỡi các bằng hữu thời thanh xuân của tôi! Nhân danh những trinh nữ được con tim các bạn yêu thương, tôi thỉnh cầu các bạn hãy đặt vòng hoa lên nấm mồ hoang lạnh của người tôi yêu thương. Vòng hoa ấy của các bạn sẽ như hạt sương đang rơi từ những con mắt rạng đông trên các cánh hồng đang héo úa.

Nguồn : http://chutluulai.net/forums/showthread.php?t=8215








--------------------------------------------------------------------------------------------

Bộ sách phi thường
Lý Đợi

Những ai yêu thích sách minh triết thì 20 cuốn sách mỏng (gồm 25 quyển), có thể nói là “tổng tập” đời người của thi sĩ - nhà đạo học lừng danh Kahlil Gibran (1883-1931) vừa được Công ty sách Thời Đại và NXB Văn học xuất bản quý 1/2012 là chọn lựa không thể bỏ qua. 


Sách Kahlil Gibran) Bộ sách 20 cuốn của Kahlil Gibran

Cùng với Jiddu Krishnamurti, Osho… Kahlil Gibran là một trong số ít thi sĩ có ảnh hưởng tâm linh phổ quát trên toàn thế giới vào thế kỷ 20 và còn kéo dài đến tận hôm nay. Sách của ông được chuyển dịch ra hàng trăm ngôn ngữ, luôn tạo được niềm hân hoan cho độc giả, bởi nó giúp họ tìm được các giá trị đích thực về thân thể và nội tâm của mình. Trước 1975, tại Việt Nam đã giới thiệu khoảng 10 tác phẩm của thi sĩ này, trong đó nổi tiếng nhất là Mật khải, Uyên ương gãy cánh, Lời thiêng… - những sách gối đầu giường của vài thế hệ. Chính vì vậy, việc Công ty sách Thời Đại và dịch giả Nguyễn Ước cùng lúc cho xuất bản 20 cuốn, trong đó có khoảng 10 quyển được dịch lại, là một nỗ lực đáng ghi nhận và có thể xem là một dấu ấn về xuất bản hiện nay.
L.Đ.
(vanchuongviet.org 27.3.02)
*
Bộ sách Kahlil Gibran vừa được phát hành vào dịp Hội chợ sách tháng 3 năm 2012 tại Sàigòn.
*

Bộ sách Kahlil Gibran
Do Nguyễn Ước biên dịch

Gồm 25 cuốn, in thành 20 tập:

 1. Bí ẩn trái tim
 2. Chuyện người phiêu lãng & Cát biển và bọt sóng
 3. Định mệnh thi sĩ & Đám rước
 4. Đôi cánh tư tưởng
 5. Giêsu Con của Con người
 6. Giọt lệ và nụ cười
 7. Gương soi linh hồn
 8. Hoài vọng phương Đông
 9. Mật khải
10. Mây trên đỉnh núi & Kẻ mộng du
11. Ngôn sứ (Kẻ tiên tri)
12. Nhã ca tình yêu
13. Sương bụi phù hoa
14. Tâm linh toàn mãn
15. Tiếng nói bậc tôn sư
16. Tiếng vô thanh & Người tình vĩnh cửu
17. Tình yêu tận hiến
18. Trầm tưởng
19. Uyên ương gãy cánh
20. Vườn ngôn sứ & Thần linh trần thế  

Bộ sách trên gồm gần như toàn bộ tác phẩm của Kahlil Gibran; một số do chính Gibran viết bằng tiếng Anh; một số do các dịch giả chuyển ngữ từ tiếng A Rập sang tiếng Anh hay tiếng Pháp; một số do các học giả hợp tuyển, nên có nhiều bài trùng nhau. Tựa đề Anh ngữ của mỗi cuốn có ghi trong lời Dẫn nhập bản tiếng Việt, và có thể tìm đọc nguyên bản tiếng Anh được phổ biến miễn phí trên internet. Riêng ba cuốn (3) Định mệnh thi sĩ, (12) Nhã ca tình yêu và (14) Tâm linh toàn mãn do tự chúng tôi hợp tuyển.

Ngoài ra, chúng tôi chủ tâm bỏ qua cuốn Thơ  xuôi (Prose Poems, 1932) do Andrew Ghareed dịch với sự hợp tác và Lời nói đầu của Barbara Young (được xuất bản sau khi Gibran qua đời), vì khi còn sống, Kahlil Gibran tỏ ra không thích các bản dịch ấy. Hầu hết các bài trong Thơ xuôi xuất hiện đầy đủ và rải rác trong những cuốn khác nhưng với bản chuyển ngữ của Anthony R. Ferris và đều được chúng tôi dịch ra Việt ngữ. Chúng tôi gom vài bài còn lại và những văn thi phẩm rời mà chúng tôi sưu tầm được, vào phần đính kèm của cuốn (17) Sương bụi phù hoa, dịch ý theo nhan đề gốc của bản A Râp: Ara'is al-Muruj. Nhan đề trong tiếng Anh có nghĩa là Các nữ thần thung lũng (Nymphs of the Valley); cũng có người dịch là Các cô dâu nơi đồng cỏ (Brides of the Prairie).

Do bởi ngày nay, tác phẩm của Gibran không đặt thành vấn đề tác quyền nên có nhiều người sưu tập chúng và hợp tuyển thành nhiều nhan đề sách khác nhau tùy dự án của mỗi người. Chúng tôi cũng không dịch các cuốn đó vì trùng lặp nội dung, kể cả cuốn The Tempests (Cơn bão, 1920).

N.Ư.


Nguồn :
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18632

--------------------------------------------------------------------------------------------

Tiểu sử của Khalil Gibran . 
http://en.wikipedia.org/wiki/Kahlil_Gibran

Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

Anna Karenina - Lev TOLSTOY .


Anna  Karenina *`\./*






Lev TOLSTOY .













Nguồn trích dẫn :

http://vi.wikipedia.org/wiki/Anna_Karenina

Anna Karenina (tiếng Nga: Анна Каренина) là một tiểu thuyết của nhà văn Nga Lev Nikolayevich Tolstoy, được đăng tải nhiều kỳ trên tờ báo Ruskii Vestnik (tiếng Nga: Русский Вестник, "Người đưa tin") từ năm 1873 đến năm 1877 trước khi xuất bản thành ấn phẩm hoàn chỉnh.
Anna Karenina được xem như là một đỉnh cao của tiểu thuyết lãng mạn. Nhân vật chính trong truyện Anna Karenina được Tolstoy sáng tác dựa vào Maria Aleksandrovna Hartung, người con gái lớn của đại thi hào Aleksandr Sergeyevich Pushkin[1]. Sau khi gặp cô ở một bữa ăn tối, ông bắt đầu đọc truyện viết dở dang của Puskin: Những người khách họp mặt trong biệt thự, Tolstoy nảy ra ý định viết Anna Karenina .
Theo một cuộc thăm dò gần đây, dựa trên ý kiến của 125 nhà văn nổi tiếng đương thời, tiểu thuyết Anna Karenina là tác phẩm có số phiếu bầu cao nhất trong danh sách 10 tác phẩm vĩ đại nhất mọi thời đại[2] .








Cảm hứng sáng tác .


Bốn năm sau khi viết xong tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình, khoảng ngày 19 tháng 03 năm 1873 Tolstoy bắt đầu viết Anna Karenina. Sau khi hoàn thành, cuốn tiểu thuyết này đã đưa nhà văn lên một địa vị mới trên văn đàn văn học Nga và thế giới. Anna Karenina lập tức được xem là một trong trong những quyển tiểu thuyết hay nhất của nền văn học nhân loại.
Cảm hứng sáng tác Anna Karenina được vợ nhà văn kể lại như sau: "Tối qua anh ấy nói với tôi rằng anh ấy đã hình dung ra một người đàn bà có chồng thuộc xã hội thượng lưu, nhưng bị sa ngã. Anh ấy nói rằng nhiệm vụ của anh ấy là phải làm sao cho mọi người thấy người đàn bà ấy chỉ đáng thương mà không đáng tội và khi anh vừa hình dung được ra như thế, thì tất cả những nhân vật, những loại đàn ông mà anh hình dung trước kia đều tìm được vị trí của họ và tập trung quanh người đàn bà ấy"






Cốt truyện

Lưu ý: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.

Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2013

NHỮNG NÉT KỲ VĨ CỦA ĐỒNG BẰNG CHÂU THỔ .

 NHỮNG NÉT  KỲ VĨ CỦA ĐỒNG BẰNG CHÂU THỔ .


Châu thổ là một địa mạo được hình thành ở nơi dòng sông chảy vào một đại dương, biển, cửa biển, hồ, hồ chứa, khu vực khô cằn bằng phẳng, hoặc sông khác. Châu thổ được hình thành từ sự lắng đọng của các trầm tích mà khi dòng nước thoát khỏi cửa sông. Qua những thời gian dài, sự lắng đọng này tạo nên một kiểu địa lý đặc trưng gọi là châu thổ sông.

Đồng bằng sông Khatanga ở Siberia, Nga Ảnh: Daily Mail .
Đồng bằng sông Lena ở Nga  Ảnh Daily Mail .

Quá trình hình thành

Châu thổ sông hình thành khi một con sông mang theo trầm tích tiếp xúc với một vùng nước đứng, như một đại dương, hồ, hoặc hồ chứa. Khi dòng chảy đi vào vùng nước đứng, nó không còn bị giới hạn bởi bờ sông nữa và sẽ tỏa rộng. Điều này làm giảm vận tốc dòng chảy, cũng có nghĩa là làm giảm khả năng vận chuyển trầm tích. Kết quả là, trầm tích giảm di chuyển và lắng xuống. Theo thời gian, lòng sông duy nhất này sẽ biến thành thùy châu thổ (một vùng với nhiều phân lưu có dạng như chân chim mà người ta có thể quan sát ở châu thổ sông Mississippi hoặc châu thổ sông Ural), đẩy miệng sông đi xa hơn nữa vào trong vùng nước đứng. Khi thùy châu thổ phát triển, các gradien của lòng sông giảm đi do dòng sông dài thêm nhưng độ dốc không thay đổi. Đến khi độ dốc của lòng sông giảm đi, nó trở nên không ổn định vì hai lý do.
Thứ nhất, nước dưới lực hấp dẫn sẽ có xu hướng chảy thẳng theo hướng dốc nhất. Nếu dòng sông có thể vi phạm đê tự nhiên của nó (tức là, trong khi lũ lụt), nó sẽ tràn ra theo một dòng chảy mới và ngắn nhất đến đại dương, do đó có được một độ dốc dốc hơn và ổn định hơn.[1]
Thứ hai, khi độ dốc của lòng sông giảm, lượng biến dạng nén xuống đáy sẽ giảm, làm cho trầm tích lắng xuống ngay tại lòng sông, dẫn tới đáy lòng sông trở nên cao thêm tương đối so với mặt vùng lũ. Điều này sẽ làm cho sông càng dễ vi phạm đê tự nhiên và mở ra một dòng chảy mới vào vùng nước đứng với độ dốc lớn hơn. Thường thì những khi như thế, một phần nước sông có thể vẫn chảy qua dòng chảy đã bị bỏ. Khi có sự thay đổi dòng chảy ở một châu thổ đã trưởng thành, một mạng lưới phân lưu sẽ được tạo ra.

Đồng bằng trên quần đảo Bijagos, Tây Phi,  Ảnh: Daily Mail

Danh sách vùng châu thổ nổi tiếng


Vùng châu thổ sông HằngẤn ĐộBangladesh, một trong những khu vực đồng bằng màu mỡ nhất trên thế giới

Tham khảo

  1. ^ Slingerland, R. and N. D. Smith (1998), Necessary conditions for a meandering-river avulsion, Geology (Boulder), 26, 435-438.
Cửa sông Betsiboka ở Madagascar , màu đỏ là phù sa trôi về phía biển Ảnh: Daily Mail .
Đồng bằng sông Yukon, Alaska Ảnh: Daily Mail .

 Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Châu thổ



****************************************************************************

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TRÁI ĐẤT . 

Dưới đây là bài viết của tác giả Hiền Thảo trên kienthuc.net.vn , xin phép tác giả được đăng lại trên Blog này . 
Trân trọng cám ơn .




 Hiền Thảo (theo LI)


Nguồn : http://kienthuc.net.vn/gallery/kham-pha/201306/Nhung-su-that-kho-tin-ve-Trai-dat-910567/





-------------------------------------------------------------------------------------
 Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic. 
 Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas. 
Albert Einstein .

Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013

Nguồn gốc văn minh nhân loại - Phần 1 .

NGUỒN GỐC VĂN MINH NHÂN LOẠI .





PHẦN 1 .
Từ những manh mối nhỏ về di chỉ 26, do nhà khảo cổ học Winkle để lại trong những ghi chép của mình, nhóm chuyên gia khảo cổ do David M.Rohl dẫn đầu, đã lần theo dấu vết và phát hiện những điều thú vị. Dựa trên những khám phá này, David M.Rohl đã dựng nên bức tranh về sự hình thành và phát triển của nền văn minh thế giới cổ đại từ dấu tích vườn EDEN – vùng đất các vị thần được ghi chép trong Kinh Thánh – cho đến những dấu tích rực rỡ của văn minh Ai Cập cổ đại. Với ngôn ngữ mô tả đặc sắc, “Nguồn gốc văn minh nhân loại” như một bộ phim lịch sử sống động được trình chiếu có lớp lang cho người đọc theo dõi từ mốc điểm khởi nguyên của một quá khứ kỳ bí, hấp dẫn đến những chuỗi dài biến động như để giải thích rõ ràng và đầy đủ hơn về nguồn gốc sự phát triển của thế giới nhân loại ngày nay.

Mục lục:
 Lời nói đầu Dẫn nhập 
Phần 1: Từ sương mù của thời gian 

Chương 1: Cuộc tìm kiếm vườn địa đàng
Chương 2: Đất ARATTA 

Phần 2: Những anh hùng vĩ đại 
Chương 3: Cuộc di cư vĩ đại 
Chương 4: Đại hồng thuỷ 
Chương 5: Định niên đại hồng thuỷ 
Chương 6: Những người tiền hồng thuỷ 
Chương 7: Bên kia thời đại hoàng kim 
Chương 8: Thiên đường tìm lại 

Phần 3: Những tín đồ của HORUS 

Chương 9: Những con thuyền của sa mạc 
Chương 10: Chủng tộc triều đại 
Chương 11: Những nhà sáng lập 
Chương 12: Cầu thang lên trời 
Chương 13: Đảo ngọn lửa 
Chương 14: Sáng thế 

Phần 4: Tham khảo 
Phụ lục A: Tân niên đại học dành cho Ai Cập thuộc thời kỳ sớm 
Phụ lục B: Chiến dịch năm 8 của Sargon 
Phụ lục C: Tân niên đại của MESOPOTAMIA.




Nguồn :  http://truyen.enterplus.org/doc-truyen-audio/Nguon-Goc-Van-Minh-Nhan-Loai-79.html#.Uaa3QNJHJMg#ixzz2Ujrl07Gm



Bài  1 .


Bài  2 .



Bài  3 .


Bài  4 .


Bài  5 .





------------------------------------------------------------------------------------------- 
 Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic. 
 Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
 Albert Einstein .


Thứ Năm, 23 tháng 5, 2013

JOSÉ JOSÉ và sự nghiệp âm nhạc - P1 .



JOSE JOSE  *\|`*.. và sự nghiệp âm nhạc  
♫ ☼ ♪

Phần 1 .






TIỂU SỬ .

José José (sinh José Romulo Sosa Ortiz ngày 17 tháng 2 năm 1948) là một ca sĩ Mexico .

Cũng được biết đến trong thế giới giải trí như El Príncipe de la Canción (The Prince of Song), tài năng của ông được công nhận qua những  bản ballad lãng mạn và đặc biệt là giọng hát của mình. Giọng nói truyền cảm của Jose cũng thu hút được sự ca ngợi từ các đồng nghiệp trong lĩnh vực âm nhạc và truyền thông.

Sinh ra và lớn lên ở thành phố Mexico trong một gia đình nhạc sĩ, José José bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của mình ở tuổi thiếu niên đầu tiên của ông bằng việc chơi guitar và hát các bản dạ khúc serenade. Sau đó ông tham gia ban nhạc jazz và bossa nova 3 nơi ông đã hát và chơi dụng cụ bass  . José trở thành một nghệ sĩ solo thành công trong đầu những năm 1970. Thể hiện khả năng giọng hát của mình với màn trình diễn bậc thầy của bài hát "El triste" trong một lễ hội âm nhạc Latin vào năm 1970, ông đã leo lên bảng xếp hạng Latin trong thập kỷ này.



Trong những năm 1980, sau khi ký kết với Ariola Records, ông đã nhanh chóng nổi tiếng là một trong những người biểu diễn tài năng và thành công nhất ở châu Mỹ Latinh. 1983 album Secretos  của ông đã bán được hơn 7 triệu bản trên toàn thế giới. Với một loạt các hit lớn, ông đã nhận được đề cử giải Grammy  quốc tế . Những đĩa hát của ông đã được bán ra ở những địa điểm nổi tiếng như Madison Square Garden và Radio Music Hall. Âm nhạc của ông đã vươn đến các nước không nói tiếng Tây Ban Nha như Nhật Bản, Israel và Nga. Trong những năm 1990,  sự nghiệp của ông bắt đầu giảm sút bắt đầu từ các vấn đề sức khỏe và thói quen nghiện rượu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất giọng của ông . José cũng đã từng là một diễn viên, ông đóng vai chính trong phim Gavilan o Paloma và Perdóname Todo.

Trong sự nghiệp đã kéo dài hơn bốn thập kỷ, hiệu suất của Jose  và giọng ca rất đặc biệt của ông đã ảnh hưởng đến nhiều nghệ sĩ pop Latin. Do chất giọng , tài năng , sức hoạt động và tính cách phổ biến mà ông đã đạt được, Jose được các phương tiện truyền thông , báo chí và nhân dân xem như là một biểu tượng của nhạc pop Latin .



 Khởi đầu cuộc sống 

José Romulo Sosa Ortiz sinh ngày 17 Tháng Hai, 1948 ở Azcapotzalco, Mexico City. Ông lớn lên trong một gia đình nhạc sĩ  Công giáo . Cha của ông, José Sosa Esquivel, là một giọng nam cao opera (tenor comprimario) và mẹ của ông, là Margarita Ortiz, là một nghệ sĩ piano cổ điển. Cha mẹ ông chưa bao giờ đạt được thành công nào tương đối lớn nên khi José bắt đầu quan tâm đến ca hát,  họ đã cố ngăn cản ông  , vì cho rằng quá khó khăn  trong lĩnh vực kinh doanh biểu diễn chương trình âm nhạc . Năm 1963, khi Jose được mười lăm tuổi, mẹ ông đã tặng cho con trai mình  cây đàn piano đầu tiên . Cùng năm đó, với tật nghiện rượu  cha ông từ bỏ gia đình, vì thế José phải lao vào làm việc để phụ giúp mẹ và em trai.


Khởi đầu sự nghiệp

José tiếp tục các nỗ lực của mình để trở thành một ca sĩ. Năm 1963, khi còn là một thiếu niên, ông đã khởi đầu sự nghiệp của mình với các bản serenade. Năm 1966, José bắt đầu ca hát và chơi bass với bossa nova và một ban nhạc jazz khác có tên là "Los PEG". Ban nhạc chơi tại những địa điểm nhạc jazz chính của Mexico City, nơi các nghệ sĩ như Dizzy Gillespie, Erroll Garner, Antonio Carlos Jobim, João Gilberto đã từng biểu diễn .


Năm 1967, Jose bắt đầu tìm kiếm sự nghiệp solo, ông ký một hợp đồng nhỏ trong phiên bản hai đĩa đơn dưới tên "Pepe Sosa". Với danh xưng Pepe Sosa, ông tiếp tục phát hành bài hát "El mundo" (Jimmy Fontana của "Il Mondo") và "Ma Vie" nhưng không thành công. José trở về với dòng nhạc serenade và chơi với "Los PEG" trong các câu lạc bộ ban đêm. Một thời gian ngắn sau đó ông rời Los PEG ", lấy tên nghệ thuật" là José José "( cũng nhằm mục đích vinh danh người cha mình ), Jose đã ký một hợp đồng với RCA Victor và thu âm album đầu tiên của mình có tên : Cuidado. Album bao gồm các bài hát của Rubén Fuentes và Armando Manzanero. Những âm thanh của album là một sự kết hợp của bolero và các bản ballad lãng mạn với một ảnh hưởng của nhạc jazz và bossa nova. Vì chất lượng khá hay, album đầu của ông đã được ca ngợi từ các nhà phê bình tuy nhiên đã không đạt được sự phổ biến rộng rãi .



Jose Jose nỗ lực học hỏi và kiên trì rèn luyện,  nên trong thời gian cuối những năm 1960, danh tiếng của ông đã bắt đầu tăng lên, các buổi biểu diễn của Jose đã xuất hiện rất nhiều trên các chương trình truyền hình khác nhau. Với những bài hát như "Una mañana" và "Cuidado", José bắt đầu  nhận được sự chú ý từ người dân và các phương tiện truyền thông.

Thập niên 1970 : Ca khúc "El triste" nổi tiếng 

Khoảng giữa 1960-1970 , Jose phát hành bài hát "La nave del olvido" , ngay lập tức thành hit đầu tiên của mình ở Mexico và Mỹ Latin, và thu âm album thứ hai của mình: La Nave Del Olvido. Một bước ngoặt lớn trong lĩnh vực ca nhạc của José   là  ngày 25 tháng Ba, năm 1970, khi ông đại diện cho Mexico trong festival ca nhạc quốc tế, "II Liên hoan de la Canción Latina" với  chất giọng tuyệt vời qua bài hát "El triste ".



Hiệu suất của các bài hát của ông rất ấn tượng , gây ra những giọt nước mắt, những biểu hiện của sự ngạc nhiên và cổ vũ từ rất nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Angélica María, Alberto Vázquez, Marco Antonio Muniz, hầu hết ban giám khảo và khán giả trong Ferrocarrilero Teatro ở Mexico City. Nhưng thực tế José José chỉ đứng ở vị trí thứ ba và sự kiện này đã gây nên cú sốc đối với khán giả .  Sau khi top hit  "El triste" được phổ biến , phong cách ballad lãng mạn của ông pha trộn với một chất giọng độc đáo làm cho Jose nổi lên như một ngôi sao  ở Mexico. Ông bắt đầu chuyến lưu diễn quốc tế đầu tiên của mình đến Los Angeles, Miami, Puerto Rico, Guatemala, Costa Rica, Brazil và Argentina. Trong lĩnh vực điện ảnh , Ông cũng từng đóng vai chính trong các bộ phim nhỏ như  Sueño de amor và La carrera del millón . Sau đó José đã đến biểu diễn tại Palladium Hollywood Bowl tại kinh đô ánh sáng Hollywood.

Thứ Năm, 16 tháng 5, 2013

THƠ VÀ TRANH .


THơ &*\/.* TRANH     .



Nguồn : http://www.chutluulai.net/forums/showthread.php?t=14612














































 ------------------------------------------------------------------------------------------- 

Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic. 
 Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas. 
 Albert Einstein .

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran