Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn Kahlil Gibran. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kahlil Gibran. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2013

Uyên ương gẫy cánh - KAHLIL GIBRAN .


UYÊN ƯƠNG GẪY CÁNH -
KAHLIL GIBRAN  \*`./*    

Nguồn : http://features.cgsociety.org/newgallerycrits/


Kahlil Gibran


Tặng người nhìn thẳng mặt trời với đôi mắt ngây dại, nắm bắt lửa với những ngón tay không chút run rẩy và nghe giai điệu tinh thần của Vĩnh cửu đằng sau tiếng la hét chát chúa của người mù. Tôi tặng M.E.H cuốn sách này.
Gibran

Lời mở đầu

Tôi được tình yêu mở mắt năm mười tám tuổi với những tia sáng kỳ diệu của nó, và tinh thần tôi được nó chạm tới lần dầu tiên bằng những ngón tay nồng nàn. Selma Karamy là người nữ đầu tiên đánh thức tinh thần tôi bằng vẻ đẹp của nàng và dẫn tôi vào khu vườn thương cảm cao ngất nơi ngày ngày đi qua như những giấc mộng và đêm đêm như những tối tân hôn.
Selma là người dạy tôi thờ phượng cái đẹp bằng gương mẫu của nhan sắc nàng và vén lộ cho tôi bí mật tình yêu bằng lòng thương cảm của nàng. Nàng là người đầu tiên hát cho tôi nghe những bài thơ của cuộc đời chân chính.

Người tuổi trẻ nào khi nhớ lại mối tình đầu của mình và ra sức nắm bắt trở lại giờ khắc lạ thường ấy thì hồi ức đó làm thay đổi cảm xúc sâu xa nhất của y khiến y cảm thấy quá đổi hạnh phúc, bất chấp mọi đắng cay trong bí nhiệm của nó.
Cuộc đời người tuổi trẻ nào cũng có một "Selma", kẻ hốt nhiên xuất hiện với y giữa mùa xuân cuộc đời, chuyển biến nỗi cô đơn của y thành những khoảnh khắc hạnh phúc và làm những đêm dài tịch mịch của y chan chứa âm nhạc.

Thuở đó, trong khi tôi đang mê mải với ý nghĩ và miệt mài với trầm tư, tìm cách thấu hiểu ý nghĩa của thiên nhiên cùng sự mặc khải của sách vở và sách thánh thì nghe tiếng TÌNH YÊU thầm thì bên tai qua đôi môi của Selma. Cuộc sống của tôi là một cơn hôn mê trống rỗng, như cuộc sống của A-đam trong vườn Địa đàng, và rồi tôi bỗng thấy Selma đứng ngay trước mặt mình như một cột ánh sáng. Nàng là Eva của trái tim tôi, một Eva làm cho tâm hồn tôi tràn ngập những bí ẩn cùng những kỳ diệu và làm cho tinh thần tôi thấu hiểu ý nghĩa của cuộc đời.

Nàng Eva đầu tiên của loài người dẫn A-đam ra khỏi vườn Địa đàng bằng ý muốn của chính nàng, ngược lại Selma, nàng Eva của tôi, khiến cho tôi tự nguyện đi vào vườn địa đàng tình yêu thuần khiết và đức hạnh bằng sự dịu ngọt và tình yêu của nàng. Tuy thế, điều xảy ra cho người đàn ông đầu tiên cũng đã xảy ra cho tôi, và thanh gươm sáng loé xua đuổi A-đam ra khỏi vườn Địa đàng cũng giống với cái đã làm tôi kinh hãi các cạnh sắc lấp lánh của nó và bức bách tôi phải ra khỏi vườn địa đàng tình yêu cho dẫu tôi không bất tuân mệnh lệnh nào và không nếm vị trái cấm nào.

Giờ đây, sau nhiều năm trôi qua, tôi chẳng còn lại gì của giấc mộng tuyệt diệu ấy ngoài những hồi ức đau đớn dồn dập như những chiếc cánh vô hình đang vỗ chung quanh mình, làm mọi chốn sâu thẳm trong tâm hồn tôi tràn ngập khổ não và mang nước mắt đến trên đôi mắt tôi. Selma xinh đẹp, người tôi thương yêu, đã chết mà không để lại gì cho tôi tưởng niệm ngoài con tim tan vỡ của tôi và nấm mồ của nàng với những cây bách bao quanh. Nấm mồ ấy và con tim này là tất cả những gì lưu lại để làm chứng về Selma.

Không khí tịch lặng canh gác nấm mồ không vén lộ bí mật của Thượng đế trong chốn áo quan mịt mùng, và âm thanh sột soạt của những cành cây mà rễ chúng hút các thành tố của hình hài ấy không kể cho nghe những bí ẩn của huyệt mộ; chỉ có tiếng thở dài áo nảo của con tim tôi báo cho người đang sống biết một thảm kịch thể hiện tình yêu, cái đẹp và sự chết.

Hỡi các bằng hữu thời thanh xuân của tôi, những kẻ giờ đây người một nơi trong thành phố Beirut, mỗi khi các bạn đi ngang nghĩa trang gần rừng thông đó, xin hãy thinh lặng ghé vào và đi chầm chậm để tiếng chân bước không làm rộn giấc ngủ của người đã qua đời. Và xin khiêm tốn dừng lại bên mồ của Selma, nghiêng mình chào mặt đất đang khép kín hình hài nàng, và hãy nhắc đến tên tôi với tiếng thở rất dài rồi nói với mình rằng:

"Đây là nơi chôn cất mọi hi vọng của Gibran, kẻ đang sống như người tù ở chốn bên kia biển. Tại nơi này, hắn đã đánh mất hạnh phúc, khô cạn nước mắt và quên hết nụ cười."

Bên nấm mồ ấy, khổ não của Gibran cùng lớn lên theo với các cây bách. Trên nấm mồ ấy, tinh thần của Gibran hằng đêm lung linh tưởng nhớ Selma, đau đớn hiệp cùng cành bách cất tiếng than khóc thương tiếc sự ra đi của Selma, kẻ hôm qua là giai điệu tuyệt trần trên đôi môi cuộc đời và hôm nay là niềm bí mật thinh lặng trong lòng đất.

Hỡi các bằng hữu thời thanh xuân của tôi! Nhân danh những trinh nữ được con tim các bạn yêu thương, tôi thỉnh cầu các bạn hãy đặt vòng hoa lên nấm mồ hoang lạnh của người tôi yêu thương. Vòng hoa ấy của các bạn sẽ như hạt sương đang rơi từ những con mắt rạng đông trên các cánh hồng đang héo úa.

Nguồn : http://chutluulai.net/forums/showthread.php?t=8215








--------------------------------------------------------------------------------------------

Bộ sách phi thường
Lý Đợi

Những ai yêu thích sách minh triết thì 20 cuốn sách mỏng (gồm 25 quyển), có thể nói là “tổng tập” đời người của thi sĩ - nhà đạo học lừng danh Kahlil Gibran (1883-1931) vừa được Công ty sách Thời Đại và NXB Văn học xuất bản quý 1/2012 là chọn lựa không thể bỏ qua. 


Sách Kahlil Gibran) Bộ sách 20 cuốn của Kahlil Gibran

Cùng với Jiddu Krishnamurti, Osho… Kahlil Gibran là một trong số ít thi sĩ có ảnh hưởng tâm linh phổ quát trên toàn thế giới vào thế kỷ 20 và còn kéo dài đến tận hôm nay. Sách của ông được chuyển dịch ra hàng trăm ngôn ngữ, luôn tạo được niềm hân hoan cho độc giả, bởi nó giúp họ tìm được các giá trị đích thực về thân thể và nội tâm của mình. Trước 1975, tại Việt Nam đã giới thiệu khoảng 10 tác phẩm của thi sĩ này, trong đó nổi tiếng nhất là Mật khải, Uyên ương gãy cánh, Lời thiêng… - những sách gối đầu giường của vài thế hệ. Chính vì vậy, việc Công ty sách Thời Đại và dịch giả Nguyễn Ước cùng lúc cho xuất bản 20 cuốn, trong đó có khoảng 10 quyển được dịch lại, là một nỗ lực đáng ghi nhận và có thể xem là một dấu ấn về xuất bản hiện nay.
L.Đ.
(vanchuongviet.org 27.3.02)
*
Bộ sách Kahlil Gibran vừa được phát hành vào dịp Hội chợ sách tháng 3 năm 2012 tại Sàigòn.
*

Bộ sách Kahlil Gibran
Do Nguyễn Ước biên dịch

Gồm 25 cuốn, in thành 20 tập:

 1. Bí ẩn trái tim
 2. Chuyện người phiêu lãng & Cát biển và bọt sóng
 3. Định mệnh thi sĩ & Đám rước
 4. Đôi cánh tư tưởng
 5. Giêsu Con của Con người
 6. Giọt lệ và nụ cười
 7. Gương soi linh hồn
 8. Hoài vọng phương Đông
 9. Mật khải
10. Mây trên đỉnh núi & Kẻ mộng du
11. Ngôn sứ (Kẻ tiên tri)
12. Nhã ca tình yêu
13. Sương bụi phù hoa
14. Tâm linh toàn mãn
15. Tiếng nói bậc tôn sư
16. Tiếng vô thanh & Người tình vĩnh cửu
17. Tình yêu tận hiến
18. Trầm tưởng
19. Uyên ương gãy cánh
20. Vườn ngôn sứ & Thần linh trần thế  

Bộ sách trên gồm gần như toàn bộ tác phẩm của Kahlil Gibran; một số do chính Gibran viết bằng tiếng Anh; một số do các dịch giả chuyển ngữ từ tiếng A Rập sang tiếng Anh hay tiếng Pháp; một số do các học giả hợp tuyển, nên có nhiều bài trùng nhau. Tựa đề Anh ngữ của mỗi cuốn có ghi trong lời Dẫn nhập bản tiếng Việt, và có thể tìm đọc nguyên bản tiếng Anh được phổ biến miễn phí trên internet. Riêng ba cuốn (3) Định mệnh thi sĩ, (12) Nhã ca tình yêu và (14) Tâm linh toàn mãn do tự chúng tôi hợp tuyển.

Ngoài ra, chúng tôi chủ tâm bỏ qua cuốn Thơ  xuôi (Prose Poems, 1932) do Andrew Ghareed dịch với sự hợp tác và Lời nói đầu của Barbara Young (được xuất bản sau khi Gibran qua đời), vì khi còn sống, Kahlil Gibran tỏ ra không thích các bản dịch ấy. Hầu hết các bài trong Thơ xuôi xuất hiện đầy đủ và rải rác trong những cuốn khác nhưng với bản chuyển ngữ của Anthony R. Ferris và đều được chúng tôi dịch ra Việt ngữ. Chúng tôi gom vài bài còn lại và những văn thi phẩm rời mà chúng tôi sưu tầm được, vào phần đính kèm của cuốn (17) Sương bụi phù hoa, dịch ý theo nhan đề gốc của bản A Râp: Ara'is al-Muruj. Nhan đề trong tiếng Anh có nghĩa là Các nữ thần thung lũng (Nymphs of the Valley); cũng có người dịch là Các cô dâu nơi đồng cỏ (Brides of the Prairie).

Do bởi ngày nay, tác phẩm của Gibran không đặt thành vấn đề tác quyền nên có nhiều người sưu tập chúng và hợp tuyển thành nhiều nhan đề sách khác nhau tùy dự án của mỗi người. Chúng tôi cũng không dịch các cuốn đó vì trùng lặp nội dung, kể cả cuốn The Tempests (Cơn bão, 1920).

N.Ư.


Nguồn :
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18632

--------------------------------------------------------------------------------------------

Tiểu sử của Khalil Gibran . 
http://en.wikipedia.org/wiki/Kahlil_Gibran

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

Trầm Tưởng - KALIL GIBRAN .



Trầm Tưởng - Kahlil Gibran . (V)














*******************************************
nguồn: vietmessenger

Đăng Quang dịch


Lời dịch giả

Trầm tưởng sưu tập những dòng tư tưởng và phút giây trầm mặc của nhà thi sĩ và tiên tri Kahlil Gibran, người gốc Liban, nguuyên tác Ả-rập ngữ, được chọn và dịch bởi Anthony R. Ferris dưới nhan đề Thoughts and Meditation (The Citadel Press, New York, tái bản lần thứ tư, 1969). Bản dịch sang Việt ngữ này đã dựa vào bản Anh dịch nói trên, ngoại trừ truyện ngắn "Martha" đã được so với bản Anh dịch của H. M. Nahmad, trong cuốn nhan đề Nymphs of the Valley của Gibran (Alfred A. Knopf. Inc. New York, tái bản lần thứ mười ba, 1969).

Đăng Quang


*******************************************
Các bạn thân mến ,
Có những lúc chúng ta cảm thấy sự cô đơn và trống trải trong cuộc đời đầy sóng gió , sự bất an và khắc khoải về tương lai của kiếp người vừa hạnh phúc lẫn khổ đau . Chúng ta sẽ có lúc đối diện với dòng tư tưởng phản hồi của chính mình và tự đặt ra nhiều câu hỏi , tại sao ? như thế nào ? ở đâu ? do đâu ?... ta sẽ làm gì để tìm thấy đáp ứng cho những câu hỏi đó . 
Trầm tưởng mà Kahlil  Gibran để lại sẽ cho chúng ta những hương vị ngọt ngào , cảm xúc của sự thanh thản và bình dị .
Chúng ta bỗng thấy cuộc đời đầy ý nghĩa và cả sự vô nghĩa , tình yêu mạnh mẽ nhưng mỏng manh , chân lý vừa xa xăm nhưng thật gần gũi . Đó là sức mạnh của tư tưởng .


















Bấm vào tranh về đầu trang.
**












Gibran: Cuộc đời và tác phẩm

(Nguyễn Ước)      
Kahlil Gibran là tiểu thuyết gia, họa sĩ, thi sĩ tâm linh với cung giọng ngôn sứ và triết gia theo chủ nghĩa hiện sinh hữu thần. Ông sinh năm 1883 tại làng Bsharri, thuộc vùng núi Miền Bắc Li-băng (Lebanon) vào thời xứ sở ấy còn là một phần của Syria, chịu sự đô hộ khắc nghiệt của Đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ. Nằm sát phía bắc vùng hoạt động chính của Đức Giêsu là Ga-li-lê, mảnh đất Li-băng tuy nhỏ nhưng vang danh với những người con nổi tiếng từ buổi bình minh của nền văn minh. Tuyết nghìn năm phủ trên đỉnh núi và mùa xuân xanh thắm của Li-băng tạo cảm hứng cho vô số văn thi sĩ Kitô giáo.
Và một người con của Li-băng là Kahlil Gibran, cũng được muôn triệu người trên thế giới đánh giá là thiên tài bất tử. Quả thật Gibran là một tác giả tôn giáo và bí nhiệm, tuy chưa được giới học giả hàn lâm trọng vọng nhưng được đại chúng đọc nhiều nhất và được thảo luận rộng rãi nhất trong thế kỷ 20 cũng như sang thế kỷ này, sau khi ông về cõi hằng cửu. Theo thống kê của giới xuất bản sách, Gibran là thi sĩ có số lượng độc giả đông vào hàng thứ ba, chỉ sau Shakespeare và Lão Tử.
Lịch sử gia đình của Gibran bắt nguồn từ cao nguyên Li-băng, vùng núi non xinh đẹp ảnh hưởng lớn lao lên quá trình hình thành con người ông. Thân mẫu Gibran, bà Kamila Rameh, là con của một linh mục thuộc Giáo hội Maronite. Đây là một hội thánh Kitô giáo Đông phương chiếm đa số dân chúng tại Li-băng. Nó phát nguyên từ Syria vào thế kỷ thứ bảy, và tuyên bố có nguồn gốc từ Thánh Maron (qua đời năm 407). Như một ốc đảo giữa biển cả Hồi giáo và các tôn giáo bản địa, Giáo hội Maronite lưu giữ truyền thuyết và nghi lễ cổ đại, kể cả việc sử dụng tiếng Aram trong phụng vụ. Sau những biệt đãi của các đoàn quân Thập tự chinh, Giáo hội Maronite hiệp nhất với Giáo hội Công giáo La Mã kể từ năm 1182 nhưng được quyền tự bổ nhiệm hàng giáo phẩm. Người có gia đình vẫn có thể chịu chức linh mục nhưng một linh mục độc thân khi thụ phong thì không được phép được lập gia đình.
Bà Kamila từng kết hôn một lần; người chồng ấy một mình di cư và qua đời tại Brazil, để lại cho bà một con trai là Peter. Tái giá với ông Khalil Gibran, bà sinh thêm ba người con, Gibran với hai em gái là Mariana và Sultana. Thế nhưng ông Khalil không đủ ý thức trách nhiệm gia trưởng, sống buông mình theo men rượu, chỉ giúp việc thu thuế cho hương chức rồi bị tù vì nhũng lạm khiến toàn gia sản bị tịch thu, cả nhà phải đến ở nhờ thân nhân.
Trong khi đó, quang cảnh sơn cước thôn dã gây cảm hứng cho Gibran. Những con thác chảy xiết, suối nước róc rách, những tảng đá đó đây, rừng cây bách hương nổi tiếng trong Kinh thánh khi được dùng làm cột các đền thờ, những câu chuyện về Kitô giáo từ thời sơ khai còn lưu trong ký ức dân gian, v.v. tất cả để lại dấu ấn thẳm sâu trong linh hồn Gibran và về sau, ghi đậm nét trong văn thi phẩm và họa phẩm của ông. Vì nghèo và trường học ở xa, việc học của Gibran chỉ dựa vào những chuyến viếng thăm đều đặn của các linh mục. Họ dạy ông về tôn giáo, tiếng Aram là ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng và thịnh hành trong thời Tân ước, tiếng A Rập, tiếng Syria và mở mắt cho Gibran về lịch sử và khoa học.
Không giống chồng, bà mẹ của Gibran, một phụ nữ thông minh, mộ đạo, dù ít học vẫn có hoài bão và đức tin mạnh mẽ. Bà một mình đem bốn đứa con gồm Peter, Gibran và hai cô con gái Mariana và Sultana sang Mỹ tìm cuộc sống mới. Người cha vốn không để tâm nhiều tới vợ con, ngần ngại di dân và chấp nhận ở lại quê nhà.
Ngày 25 tháng Sáu năm 1895, năm mẹ con Gibran cập bến Hoa Kỳ. Họ định cư tại mạn nam thành phố Boston trong một khu vực có cộng đồng người Syria và Li-băng đông vào hàng thứ hai sau New York. Bà mẹ, lúc này là gia trưởng, bắt tay ngay vào việc đi bán dạo khăn vải lanh và rượu. Một năm sau, bà dành dụm đủ tiền cho Peter mở một tiệm tạp hóa nhỏ.
Vài tháng sau khi tới Mỹ, Gibran được tới trường, theo học lớp Anh ngữ dành cho trẻ em di dân. Nhờ tham gia sinh hoạt chung, khả năng vẽ và các bức ký họa của Gibran lọt vào mắt một tác viên xã hội tại trung tâm cộng đồng của khu phố, Gibran được giới thiệu cho Fred Holland Day, một họa sĩ và nhiếp ảnh gia cấp tiến của Boston. F.H. Day dùng Gibran làm người mẫu và bắt đầu hướng dẫn cậu về hội họa, văn học và đặt cậu lên điểm xuất phát của con đường nghệ thuật nổi tiếng. Tại cơ sở của Day, Gibran cũng khởi sự chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa tượng trưng, đồng thời xây đắp hoài bão hoạ sĩ tâm linh và thi sĩ ngôn sứ cho tương lai.
Năm 1898, được mẹ và anh chu cấp, Gibran quay lại Li-băng. Sau mấy tuần lễ cấp tốc khắc phục trình độ đọc và viết tiếng A Rập của mình, ông theo học và hoàn tất chương trình căn bản giáo dục A Rập bốn năm tại Minh triết Học đường (College of Al-Hikmah) của Giáo hội Maronite. Ông cũng thường đến trầm tư ở Tu viện Mar-Sarkis hoang phế tại Bsharri như thời còn nhỏ.
Năm 1902 Gibran trở về Hoa Kỳ nhưng cô em gái Sultana đã qua đời bốn tuần trước đó. Qua năm sau, tới lượt mẹ và người anh Peter của ông. Cả ba đều không thoát khỏi bệnh lao phổi, cũng là căn bệnh đeo đuổi Gibran lúc cuối đời. Sau cái chết của mẹ, cô em Mariana bán cửa tiệm, làm thợ may và thay thế bà chăm sóc giúp đỡ Gibran để ông yên tâm theo đuổi cuộc đời văn thi sĩ và hoạ sĩ.
Thiên hướng nghệ thuật dẫn dắt Gibran vào cuộc sống văn hóa của Boston, tỏ cho ông thấy thế giới phong phú của kịch trường, nhà hát và các cuộc triển lãm nghệ thuật. Năm 1904, vào ngày cuối cuộc triển lãm tranh lần thứ nhất của mình. Gibran gặp Mary Elizabeth Haskell, hiệu trưởng một trường nữ cấp tiến tại Boston và thường giúp đỡ cho các nghệ sĩ có tài năng và có nhu cầu. Ba năm sau, Haskell trở thành người bảo trợ mọi mặt cho Gibran, góp phần lớn hình thành sự nghiệp của ông. Chính Haskell tài trợ mọi phí tổn cho chuyến đi Paris năm 1908 của Gibran, trợ cấp mỗi khi ông cần tới trong suốt hai mươi năm về sau và là người duyệt các bản thảo tiếng Anh cho ông. Hai năm ở Paris, Gibran học tập hội họa tại Viện Julien (Académie Julien) và Trường Mỹ thuật Paris (Ecole des Beaux Arts de Paris), đôi khi được sự chỉ bảo của nhà điêu khắc thiên tài Pháp Auguste Rodin (1840-1917) mà ông có họa chân dung. Năm 1911 Gibran về lại Boston, tới năm sau, dọn hẳn lên ở New York và dành trọn thì giờ cho việc vẽ và viết.
Từ năm 1903, Gibran bắt đầu viết các tiểu phẩm đầu tiên bằng tiếng A Rập trong đó có cuốn sách mỏng về âm nhạc Nubthah fi Fan Al-Musiqa (1905) và tập truyện ngắn Linh hồn nổi loạn (1908). Tuy thế, từ năm 1918 trở đi, hầu hết sách xuất bản của ông đều viết bằng tiếng Anh; chúng góp phần vào nỗ lực cách mạng hóa ngôn ngữ thi ca và làm ông trở thành một khuôn mặt nổi tiếng thế giới.
Năm 1920, Gibran là Chủ tịch sáng lập Văn đoàn Arrabitah, một hội văn bút tại New York gồm khoảng 12 thành viên trong đó có các văn thi sĩ A Rập như Mikhail Naimy (1889-1988), Iliya Abu Madi (1889-1957), Naseeb Arida (1887-1946), Nada Haddad (1881-1950) và Ilyas Abu Sabaka (1903-47), v.v. Họ dần dà nổi tiếng khắp thế giới A Rập vì các nỗ lực cách tân văn chương bảo thủ A Rập. Diễn đàn chính của văn đoàn này là tạp chí Al-Mahajar(Người di dân), tờ báo đầu tiên bằng tiếng A Rập tại New York. Những sáng tác phẩm và bài phê bình văn học của họ trên tạp chí này và các tạp chí khác tại Trung Đông đã dọn đường cho một tự do mới trong diễn đạt thi ca.
Trong các văn thi sĩ vừa kể, Gibran trở thành người quan trọng nhất và có ảnh hưởng nhất. Nhưng khác với họ, danh tiếng và ảnh hưởng của ông vượt quá thế giới A Rập. Lúc Gibran còn sống, tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn hai chục ngôn ngữ. Về sau, tại Hoa Kỳ, sách của Gibran bắt đầu tạo ảnh hưởng đặc biệt lên văn hóa đại chúng ở Bắc Mỹ kể từ thập niên 1960.
Ký họa và tranh màu của Gibran, vốn được Auguste Rodin so sánh với thi sĩ và họa sĩ thần bí người Anh William Blake (1757-1827), được triển lãm khắp thế giới. Trong tác phẩm văn học của mình, Gibran thường đề cập tới tinh thần siêu việt, nhưng chủ đề chính trong họa phẩm của ông là những hình người khỏa thân, có khuynh hướng quấn quít nhau. Là người sáng tác dồi dào thơ văn, Gibran tự tay minh họa tác phẩm bằng ký họa, và cho tới nay, chúng được vô số người trên khắp thế giới yêu mến. Họ tìm thấy trong chúng biểu thị cho niềm hứng khởi sâu xa nhất của tâm hồn, tâm trí và tâm linh con người, đầy tinh thần nhân văn và tôn giáo.
Có một sợi chỉ nhân bản và hữu thần xuyên suốt các tác phẩm của Gibran. Nguồn mạch chính trong tư tưởng của Kahlil Gibran là tư tưởng Kitô giáo nhuốm màu sắc đông phương bí nhiệm. Tuy chống lại tinh thần cơ chế của tôn giáo và những khuyết tật của giới tăng lữ nhưng Gibran là con người tôn giáo kiên định. Với lòng mộ đạo sâu xa, ông kính ngưỡng Đức Giêsu như một tấm gương dũng cảm và hy sinh, nhân ái và lạc quan. Ông xem lòng tử tế là chiếc bóng của Thượng đế trong con người. Ông tin vào sự hiệp nhất của các tôn giáo, kêu gọi xóa bỏ tính hợm hĩnh, sự ngược đãi và lạm dụng tôn giáo thường diễn ra trong mọi thời đại. Trong cuốn Đám rước, ông viết, “Đối với con người, tôn giáo giống như cánh đồng, được gieo trồng với hi vọng, được canh tác bởi lòng ngoan đạo, hoặc bị chăm sóc bởi trí óc mông muội sợ lửa hỏa ngục, hoặc bị khai thác bởi những kẻ mạnh nhờ của cải vàng bạc hư không, những kẻ xem tôn giáo như một loại đổi chác để được đáp đền lợi nhuận. Trái tim họ đã chết tuy đang đập, và sản phẩm thu hoạch của họ chỉ toàn cỏ dại mọc hoang trong thung lũng.”
Gibran nghĩ rằng nếu con người sống nhạy cảm, họ sẽ làm chủ được số phận của mình. Ông viết, “Tâm hồn con người kêu cầu giúp đỡ; linh hồn con người kêu nài chúng ta giải phóng; nhưng chúng ta không để ý tới tiếng kêu la của chúng, vì chúng ta không nghe hoặc nghe mà không hiểu. Nhưng người nghe và hiểu thì bị chúng ta gọi là kẻ điên khùng và chúng ta lánh xa y.”
Gibran là một người A Rập yêu quê hương, tha thiết cho đất nước Li-băng được độc lập, dân chúng sống không sợ hãi và có phẩm giá. Trong cuốn Vườn ngôn sứ, ông viết, “Thương thay cho một đất nước tràn đầy đức tin nhưng trống rỗng về tôn giáo. Thương thay cho một dân tộc mặc quần áo nó không dệt, ăn chiếc bánh nó không gặt hái và uống loại rượu không chảy ra từ máy ép rượu của chính nó. Thương thay cho một dân tộc tán dương kẻ dùng vũ lực là anh hùng và cho rằng kẻ xâm chiếm đang lẫy lừng là hào phóng. Thương thay cho một dân tộc chỉ cất cao giọng nói khi đi đưa đám ma, chỉ kiêu hãnh khi chiếc cổ của nó bị đặt giữa thanh gươm và cái thớt. Thương thay cho một dân tộc mà chính khách của nó là chồn cáo, triết gia của nó là kẻ diễn trò tung hứng và nghệ thuật của nó là nghệ thuật chắp vá và mô phỏng. Thương thay cho một dân tộc nghênh đón kẻ cai trị mới của nó với điệu kèn tiếng trống rồi tiễn đưa hắn với tiếng huýt sáo chế giễu, chỉ để lại nghênh đón kẻ khác với tiếng trống điệu kèn. Thương thay cho một dân tộc mà các hiền giả của nó bị điếc hết năm này qua năm khác và những người mạnh mẽ của nó chỉ đang ở trong nôi. Thương thay cho một dân tộc bị chia thành từng mảnh, mỗi mảnh xem mình là một quốc gia."
Văn bản của Gibran đầy dẫy những lối diễn tả và các dụ ngôn được viết theo thể điệu và kiểu mẫu Kinh thánh, đặc biệt sách của các ngôn sứ và Thánh vịnh - một trộn lẫn giữa thơ và văn xuôi. Ông thường cao giọng sứ ngôn khi lên án những thảm họa đang tạo ra dịch bệnh khô kiệt tinh thần và khốn khó vật chất trên quê hương mình cùng hăm dọa toàn thể loài người. Kiểu thức của ông là sự pha trộn của cái đẹp và lòng mộ đạo mà về sau được biết tới như là trường phái Gibran (Gibranism).
Ngôn sứ (The Prophet) là tác phẩm nổi tiếng nhất của Gibran. Cuốn ấy về phong cách, chịu ảnh hưởng của cuốn Thus Sparke Zarathustra (Zarathustra đã nói như thế) của Nietzsche. Nhưng đối cực với Zarathustra, Almustafa của Gibran là một nhân vật tôn giáo, tin vào con người và Thượng đế đồng thời lạc quan trong cuộc sống và tương lai của nhân loại. Ngôn sứgồm 26 bài thơ xuôi, phát biểu về các vấn đề nhân sinh nhưng với tâm tình của một thi sĩ triết gia hiện sinh hữu thần. Tính tới nay, nó đã được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ và bán được trên 100 triệu ấn bản. Từ thập niên 1960. cuốn Ngôn sứ được xem như một loại kinh thánh hay sách thủ bản cho phong trào phản văn hoá (counter-cultural movement) của giới trẻ Hoa Kỳ và trào lưu Thời đại mới (The New Age). Thậm chí có giáo sĩ Kitô giáo dùng nó trong thánh lễ hôn phối.
Gibran qua đời năm 1931 tại New York vì bệnh xơ gan và lao phổi thời kỳ đầu. Buổi tiễn biệt ông trên bến tàu New York có đủ đại diện của các tôn giáo như Công giáo, Tin Lành, Do Thái giáo, Hồi giáo, v.v. Lễ tang ông tại Boston được tổ chức trang trọng và cảm động theo nghi thức Công giáo ở thánh đường tại Tyler Street. Sau đó, thi hài Gibran đưa về Li-băng, được chính quyền và dân chúng tổ chức liên hoan đón rước. Linh cửu được mang vào Nhà thờ Chánh toà St. George của Giáo hội Maronite tại Beirut với nghi lễ tiếp nhận do Đức Tổng giám mục Ignatius Mobarak chủ tế; sau đó, đem về Bsharri.
Khi còn sống, ước nguyện của Gibran là được vĩnh viễn trở về Bsharri nơi chào đời của mình mà nay đã thành một thị trấn. Cô em Mariana và người bạn tri kỷ Mary Haskell hoàn thành di nguyện ấy bằng cách mua lại Tu viện Mar-Sarkis để an táng ông. Nơi đó hiện nay còn có Nhà Bảo tàng Kahlil Gibran, và trở thành một địa điểm hành hương cho những kẻ ngưỡng mộ Gibran.
 Gibran cũng để lại tất cả tiền tác quyền của mình trong vòng 28 năm cho thị trấn Bsharri dùng vào sinh hoạt công ích. Bên phần mộ ông, người ta thấy có khắc dòng chữ, “Tôi đang sống giống như bạn, và tôi đang đứng cạnh bạn. Hãy nhắm mắt lại và nhìn quanh, bạn sẽ thấy tôi trước mặt bạn . . .”  Bsharri cũng trở thành một địa điểm du lịch của những người đến xứ sở Li-băng vì nó chỉ cách thủ đô Beirut 64 cây số.
Theo di chúc, Gibran để lại cho Mary Haskell tất cả những gì đang có trong xưởng vẽ của ông ở New York. Trong những vật thu thập được, bà khám phá ra các lá thư mình đã gởi cho ông trong suốt hai mươi ba năm. Bỏ qua ý định ban đầu là chấp nhận đốt chúng thể theo lời đề nghị của Barbara Young nhằm thần thánh hóa Kahlil Gibran, bà kết hợp 600 bức thư của đôi bên cùng nhật ký của mình, làm thành cuốn sách viết về con người Kahlil Gibran, có nhan đề Ngôn sứ yêu dấu (The Beloved Prophet) được xuất bản năm 1972. Sau đó, bà trao tất cả di sản của Gibran cho Đại học North Carolina.
Haskell cũng tặng bộ sưu tập cá nhân hơn 100 bức họa của Gibran cho Nhà Bảo tàng Nghệ thuật Telfair tại Georgia. Đó là bộ sưu tập lớn nhất của ông tại Hoa Kỳ, gồm tranh sơn dầu, màu nước, ký họa và các bản thảo viết tay.
Công trạng của Kahlil Gibran được ghi nhận ở nhiều nơi.
Năm 1971, Bộ trưởng Bưu điện và Viễn thông Li-băng cho phát hành con tem mang hình Kahlil Gibran.
Nhà Bảo tàng Gibran được dựng lên ở Bsharri, Li-băng.
Vườn Kahlil Gibran được khánh thành tại Beirut, Li-băng.
Ngày 27 tháng Chín năm 2008, nhân dịp 125 năm ngày sinh của Kahlil Gibran, tai Quebec Canada, mở con đường mang tên Kahlil Gibran
Khu Trượt băng An dưỡng Bách hương (The Cedars Resort Ski) ở Li-băng mở đường trượt băng Gibran Khalil Gibran.
Năm 1990, Vườn Tưởng niệm Gibran được khánh thành ở Thủ đô Washington, Hoa Kỳ.
Tháng Chín năm 2007, tại Brooklyn, New York, khánh thành Quốc tế Học đường Kahlil Gibran (Khalil Gibran International Academy).
Kahlil Gibran được vinh danh ở Bucharest, Romania.
Một tượng đài Kahlil Gibran được dựng lên bằng đá cẩm thạch tại Cuntiba, Brazil.
Các bài thơ và văn của Gibran, bằng tiếng A Rập và tiếng Anh, được nhiều học giả hợp tuyển thành hàng chục cuốn sách có nhan đề khác nhau về tình yêu, tôn giáo, tư tưởng, tâm linh ngôn sứ, v.v. Số sách viết về tiểu sử và tư tưởng của Gibran cũng lên tới hàng chục cuốn.
Tại Việt Nam, tác phẩm của Kahlil Gibran được dịch rải rác tứ thập niên 1970 tới nay với các dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu, Đỗ Đình Đồng, Trần Văn Điền, Nguyễn Ngọc Minh, Nguyễn Yến Anh, Trùng Dương, Giả Nghiệm, Trần Văn Phương, Châu Diên, Đỗ Tư Nghĩa, Đăng Quang, v.v. và được độc giả trung niên cũng như thanh niên thuộc nhiều tôn giáo khác nhau đón nhận nồng nhiệt.

Bộ sách Kalil Gibran do Nguyễn Ước biên dịch
Gồm 25 cuốn, đã hoàn tất:
1. Gãy cánh uyên ương (The Broken Wings)
2. Ngôn sứ (The Prophet)
3&4. Vườn ngôn sứ & Thần linh trần thế 
(The Garden of the Prophet & The Earth Gods)
5. Tiếng nói Tôn sư  (The Voice of the Master)
6. Trầm tư quán tưởng (Thoughts and Meditations)
7. Nước mắt và nụ cười (A Tear and a Smile)
8. Người yêu cô đơn (Secrets of the Heart)
9. Giêsu Con của Con người (Jesus the Son of Man)
10. Linh hồn nổi loạn (Spirits Rebellious)
11. Tân nương thảo nguyên (Nymphs of the Valley)
12. Gương soi linh hồn (Mirrors of the Soul)
13&14. Đám rước & Thi sĩ
(The Procession & The Poet)
15&16. Gã khùng & Châm ngôn tâm linh
(The Madman & Spiritual Sayings)
17&18 Chuyện người phiêu lãng & Cát biển và bọt sóng
(The Wanderer & Sand anf Foam)
19&20. Kẻ tiền hô & Kịch đời
(The Forerunner & Dramas of Life)
21. Chân dung tự họa (Self-Portrait)
22. Đôi cánh tình yêu (Wings of Love)
23. Đôi cánh tâm linh (Wings of Spirit)
23. Đôi cánh tư tưởng (Wings of Thoughts)
25. Minh triết của Kahlil Gibran (Wisdom of Kahlil Gibran)




Nguồn : http://vietvan.vn/vi/bvct/id3361/Gibran--Cuoc-doi-va-tac-pham/


-------------------------------------------------------------------------------------------
 Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic. 
 Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas. 
 Albert Einstein .


*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran