Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn mỹ thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn mỹ thuật. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2012

HAMLET - BI KỊCH ĐẠO ĐỨC CỦA SHAKESPEARE .

HAMLET - BI KỊCH ĐẠO ĐỨC CỦA SHAKESPEARE .


Nguồn : http://vetranhsondau.com/oilpaintingimg/4/Hamlet-polski-Jacek-Malczewski.jpg






Hamlet - Hoàng tử Đan Mạch / Shakespeare
Hamlet là vở bi kịch của nhà văn, nhà soạn kịch vĩ đại người Anh William Shakespeare (1564-1616), có lẽ được sáng tác vào năm 1601. Cốt truyện của tác phẩm có nguồn gốc từ thể loại truyện dân gian thời đại Trung cổ. Trên sân khấu Anh thời Phục Hưng đã từng diễn nhiều vở kịch cùng tên của nhiều tác giả. Người ta cho rằng Shakespeare sáng tác Hamlet có thể dựa trên Bi kịch lịch sử của François Belleforest hoặc trên vở kịch nay đã bị thất lạc Hamlet của Thomas Kyd (1558-1594), một vở kịch được gọi tên là Ur-Hamlet với ý nghĩa là vở “Hamlet nguyên bản”.

Cốt truyện Hamlet xoay quanh nhân vật trung tâm là Hamlet, hoàng tử nước Đan Mạch, sinh viên trường Đại học Wittenberg (Đức). Chàng gặp một cảnh ngộ éo le trong gia đình: vua cha vừa chết được hai tháng thì mẹ chàng, Hoàng hậu Gertrude tái giá lấy Claudius, chú ruột của chàng. Hồn ma của vua cha hiện về báo cho chàng biết Claudius là kẻ đã giết mình để chiếm đoạt ngai vàng và Hoàng hậu, và đòi Hamlet phải trả thù. Hamlet từ đó lòng tràn đầy căm phẫn, ghê tởm và chán ghét cuộc đời. Chàng giả điên để che mắt kẻ thù, thực hiện nghĩa vụ. Còn kẻ thù của Hamlet cũng ra sức theo dõi, dò xét chàng. Tình hình trở nên căng thẳng hơn khi Hamlet cho mời một đoàn kịch vào hoàng cung diễn một vở kịch. Xem đến kịch cảnh một đôi gian phu dâm phụ mưu sát nhà vua, Claudius hoảng hốt bỏ về rồi vào phòng riêng cầu nguyện. Hamlet theo sát và đứng ngay sau y. Thời cơ rất thuận lợi để chàng trả thù, nhưng chàng lại không hành động. Chàng cho rằng giết hắn trong lúc hắn đang cầu nguyện để linh hồn hắn sạch tội ác, lên thiên đàng thì không thể gọi là trả thù được và như thế không tương xứng với cái chết mà cha chàng đã chịu. Claudius lập mưu trừ khử Hamlet, hắn cho hai tên tay sai Rosencrantz và Guildenstern hộ tống Hamlet sang Anh, thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt. Trước khi Hamlet lên đường, mẹ chàng cho gọi chàng vào để nói chuyện, với ý đồ lợi dụng tình cảm mẹ con để khêu gợi Hamlet nói thật tâm trạng của mình. Quan đại thần Polonius, thân phụ của Ophelia, người yêu của Hamlet nấp sẵn sau bức rèm, có nhiệm vụ theo dõi cuộc nói chuyện đó. Nhưng Hamlet luôn đề phòng và khi phát hiện bức rèm động đậy, chàng rút gươm đâm. Tiếc thay không phải là nhà vua Claudius như chàng tưởng mà là bố người yêu của mình. Trên đường sang Anh, lợi dụng lúc hai tên tay sai của nhà vua sơ ý, Hamlet xem trộm tờ chiếu chỉ, đó là mật lệnh giao cho vua Anh phải giết ngay Hamlet. Hamlet bèn viết thay một chiếu chỉ khác, đề nghị vua Anh giết Rosencrantz và Guildenstern. Chàng trở về Đan Mạch tâu với vua là chàng bị bọn cướp biển bắt, rồi được chúng tha. Ophelia phần vì thất vọng với sự điên loạn của người yêu là Hamlet, phần quá đỗi đau thương trước cái chết bí ẩn của cha nên bị mất trí, lang thang và cuối cùng chết đuối. Laertes phẫn nộ trước cái chết của cha (Polonius) và được nhà vua nói cho biết Hamlet là thủ phạm, đồng thời bày ra kế hoạch để Laertes có thể trả thù được một cách êm thấm khiến Hoàng hậu không biết mà thần dân cũng không hay: tổ chức một cuộc đấu kiếm giữa Laertes và Hamlet, mũi kiếm của Laertes tẩm thuốc độc và không bịt đầu. Cẩn thận hơn, nhà vua còn chuẩn bị sẵn một cốc rượu độc để mời Hamlet uống. Hamlet không lường trước được âm mưu thâm độc của kẻ thù. Song, ngoài ý muốn của Claudius, khi Hamlet thắng điểm, Hoàng hậu lại là người uống cốc rượu để mừng con. Đến hiệp ba, Laertes đâm Hamlet bị thương. Đổi kiếm, Laertes lại bị Hamlet đâm trúng. Hoàng hậu ngấm rượu độc chết khiến cả triều đình sửng sốt. Laertes biết mình cũng sắp chết nên hối hận nói rõ sự thật: nhà vua Claudius là thủ phạm của âm mưu và Hamlet sẽ không thể thoát chết do đã bị trúng độc. Căm phẫn tột độ, Hamlet đã dùng mũi kiếm tẩm độc kết liễu nhà vua. Vở bi kịch kết thúc với việc Fortinbras, sau khi chinh phục được Ba Lan trở về, lên ngôi vua trị vì vương quốc Đan Mạch trong tiếng đại bác, tiếng quân nhạc tiễn đưa linh hồn Hamlet về nơi yên nghỉ.




Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

QUÊ NHÀ .

QUÊ  NHÀ .







Quê nhà một nhánh sông trôi
Ấp ôm kỷ niệm thiếu thời đã qua
Trời chiều vang khúc dân ca
Vẳng theo tiếng sáo ngân nga êm đềm ...

Xa quê đã mấy năm liền
Mộng theo hồn bướm mơ tiên ít nhiều
Cung đàn một khúc tịch liêu
Bài ca như thể cơn triều sóng xô .
Tình yêu quê cũ tuổi thơ
Khắc ghi ký ức ngày xưa quay về .







Chìm trong giấc mơ quê .
Trần hồng Cơ 
12/04/2012











 -------------------------------------------------------------------------------------------
 Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
 Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
 Albert Einstein .



Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2012

ROMEO VÀ JULIET - BI KỊCH TÌNH YÊU CỦA SHAKESPEARE

The Tragedy of Romeo and Juliet

ROMEO VÀ JULIET - BI KỊCH TÌNH YÊU CỦA SHAKESPEARE












Đọc trực tuyến
Bản tiếngViệt




Dưới đây là bài viết của tác giả Phạm Văn Tuấn đăng trên vietsciences.free.fr , xin phép được đăng lại trên Blog Toán - Cơ học ứng dụng . Trân trọng cám ơn .

Đọc tiếp ... 


Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

SARAH BRIGHTMAN - TIẾNG HÓT CHIM HỌA MI .

SARAH  BRIGHTMAN - TIẾNG HÓT CHIM HỌA MI .



Nguồn : http://en.wikipedia.org/wiki/Sarah_Brightman
Thông tin nghệ sĩ
Sinh 14 tháng 8, 1960 (52 tuổi)
Nguyên quán Berkhamsted, Hertfordshire, Anh
Nghề nghiệp Ca sĩ, diễn viên, nhạc sĩ, vũ công
Thể loại Classical crossover, operatic pop, symphonic rock
Nhạc cụ Giọng nữ cao và piano
Năm hoạt động 1976–hiện nay
Hãng đĩa A&M Records (1993)
East West Records
(1995–2001)
Angel Records/EMI
(1997–2007)
Manhattan Records/EMI
(2008–Present)
Website http://www.sarah-brightman.com


Sarah Brightman (sinh ngày 14 tháng 8 năm 1960 tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc ) là ca sĩ crossover ( cách tân ) soprano cổ điển , nữ diễn viên, kiêm nhạc sĩ và vũ công. Cô nổi tiếng vì sở hữu một chất giọng có âm vực hơn ba octaves. Sarah Brightman đã hát bằng nhiều ngôn ngữ, gồm tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Latin, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Nga, tiếng Trung và tiếng Nhật. Brightman bắt đầu sự nghiệp của mình như là một thành viên trong vũ đoàn Hot Gossip và phát hành một số đĩa đơn nhạc disco với tư cách một nghệ sĩ biểu diễn solo. Năm 1981, cô xuất hiện lần đầu trên sân khấu âm nhạc West End  tại  Nhà hát kịch Cats và gặp nhà soạn nhạc Andrew Lloyd Webber, người mà cô kết hôn sau này . Cô trở thành ngôi sao trong một số vở nhạc kịch Broadway, bao gồm cả The Phantom of the Opera ( Bóng ma trong nhà hát kịch ), nơi cô khởi nghiệp trong vai  Christine Daaé. The Original London Cast là Album âm nhạc đã được phát hành ở định dạng CD vào năm 1987 và bán được hơn 40 triệu bản trên toàn thế giới, đây là album bán chạy nhất qua mọi thời đại .Sau khi từ giã sân khấu và ly dị Lloyd Webber, Brightman tiếp tục sự nghiệp âm nhạc của mình với  nhà cựu sản xuất Enigma là Frank Peterson, lần này  với tư cách một nghệ sĩ cổ điển chuyển phong cách ( cách tân ) . Cô thường được xem như là người sáng tạo thể loại này và vẫn còn thuộc trong số các nghệ sĩ biểu diễn nổi bật nhất, có doanh số bán hàng trên toàn thế giới với hơn 30 triệu bản và 2 triệu đĩa DVD, khẳng định mình  là giọng nữ cao ( soprano )  bán chạy nhất thế giới . Những bản duet của cô song ca với tenor người Ý Andrea Bocelli, "Time To Say Goodbye", đã đứng đầu bảng xếp hạng trên khắp châu Âu và trở thành đĩa đơn bán chạy nhất và nhanh nhất ở Đức, nó được xếp trong top các bảng xếp hạng trong mười bốn tuần liên tiếp và bán được hơn 3 triệu bản . Sau đó  trở thành một sự kiện thành công quốc tế khi bán được 12 triệu bản trên toàn thế giới, đó cũng là một trong những đĩa đơn bán chạy nhất cho đến nay .  

 

Trong sự nghiệp của mình tính đến nay , Sarah Brightman đã đã đạt hơn 180 giải thưởng vàng và bạch kim với doanh số bán hàng tại khắp 38 quốc gia khác nhau . Trong năm 2010, cô được ghi tên trên Billboard , đứng thứ 5 trong số các nghệ sĩ cổ điển có tầm ảnh hưởng nhất và các tác phẩm bán chạy nhất trong các thập kỷ của những năm 2000 tại Mỹ. 


Brightman là nghệ sĩ đầu tiên đã được mời biểu diễn hai lần tại các kỳ Thế vận hội Olympic , đầu tiên tại Olympic Barcelona năm 1992, nơi cô song ca bản "Amigos Para Siempre" cùng với ca sĩ tenor Tây Ban Nha Jose Carreras trong đó khán giả toàn cầu ước tính khoảng một tỷ người, và mười sáu năm sau đó tại  Olympic Bắc Kinh, lần này với ca sĩ Trung Quốc Liu Huan, biểu diễn bài hát "You and Me" ước tính khoảng 4 tỷ người trên toàn thế giới . Từ năm 2010, Brightman là đại sứ thương hiệu toàn cầu của tập đoàn Panasonic. Với sự hợp tác này cô biểu diễn và ghi âm bài hát "Shall Be Done" ở Thế vận hội mùa đông 2010 tổ chức tại Vancouver, Canada . Brightman cũng là thành viên của hiệp hội trong việc ký kết giữa tập đoàn Panasonic về Hiệp định quan hệ đối tác chiến lược với  Trung tâm Di sản thế giới UNESCO , khi cô cổ vũ cho chiến dịch " Di sản thế giới đặc biệt "đang được phát sóng trên  183 kênh địa lý quốc gia  và khu vực.


Vào đầu năm 2012 Brightman đã được bổ nhiệm là " nghệ sĩ UNESCO phục vụ cho hòa bình " trong giai đoạn 2012-2014 cùng với những cam kết "nhân đạo và từ thiện, sự đóng góp của cô , trong suốt sự nghiệp nghệ thuật của mình dành vào việc thúc đẩy đối thoại văn hóa và giao lưu giữa các nền văn hóa, và cống hiến cho lý tưởng và mục tiêu của Tổ chức " ( the" British singer and actress Sarah Brightman becomes UNESCO Artist for Peace UN.org. Retrieved 11 April 2012 " UN.org. Retrieved 11 April 2012 )
. Trong năm 2012 kết hợp với Virgin Galactic, chương trình học bổng Brightman STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, và toán học) đã được xây dựng nhằm giúp đỡ các phụ nữ trẻ ở Mỹ theo đuổi giáo dục STEM qua giai đoạn bốn năm đại học của họ. Ngoài âm nhạc, Brightman đã bắt đầu sự nghiệp điện ảnh đầu tay của cô trong Repo! The Genetic Opera (2008), một bộ phim nhạc kịch Rock-Opera của đạo diễn Darren Lynn Bousman ;  vào mùa thu năm 2011 và đầu năm 2012 cô vào vai Stephen Evans trong phim "Đêm đầu tiên" ( First Night ), với sự tham gia diễn xuất của  Richard E. Grant . Ngoài ra, Sarah Brightman thành lập công ty sản xuất riêng Instinct Films của mình, nơi mà bộ phim đầu tiên của cô đã sản xuất trước. Brightman là  nữ nghệ sĩ biểu diễn ca nhạc cổ điển  giàu nhất thế giới  với tài sản 30 triệu bảng ( khoảng 49 triệu USD ). 

Dưới đây là buổi biểu diễn của Sarah Brightman tai Vienna , Áo . 




Gia đình và cuộc đời niên thiếu 

Brightman là chị lớn nhất trong gia đình sáu anh em ,con của doanh nhân Geoffrey Grenville Brightman (1934 -1992) Paula Brightman. lớn lên ở Berkhamsted, Hertfordshire, Anh. Ba tuổi, Sarah bắt đầu tham gia các lớp học khiêu vũ đàn piano tiếp tục biểu diễn trong các lễ hội địa phương và các cuộc thi Năm 11 tuổi, cô đã thành công khi thi vào Trường Giáo dục nghệ thuật  Công viên Tring ( Arts Education School in Tring Park ), một trường chuyên về nghệ thuật biểu diễn. Năm lên 13, năm 1973 đánh dấu sự kiện Brightman ra mắt trên sân khấu đầu tiên của cô trong nhạc kịch Tôi Albert " ( I and Albert )  tại Nhà hát Piccadilly, London . Năm 1976, người dẫn dắt của vũ đoàn truyền hình Pan's People  ( TV dance group Pan's People ) sau đó đã được tuyển chọn để lãnh đạo đoàn kịch 'Gossip Hot Arlene Phillips vào năm 1977. Nhóm đã một disco hit trong năm 1978 với bản " I Lost My Heart Trooper Starship", bán được nửa triệu bản và đứng thứ sáu trên bảng xếp hạng tại Anh . Đến lúc này Brightman bắt đầu biểu diễn solo, phát hành nhiều đĩa đơn nhạc disco dưới tên riêng của mình là Records Whisper, chẳng hạn như "Không có được!"  ( "Not Having That!" ) và một bản cover của bài hát " Bạn tôi trở lại"  (  "My Boyfriend's Back" ) . Năm 1979, Brightman xuất hiện trên nhạc nền của bộ phim "Thế giới đầy những người đàn ông có gia đình(  "The World Is Full of Married Men" )  và trình diễn bài hát "Hyde Madam".


1981-1989:  Sự nghiệp sân khấu


Đọc tiếp ...


Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

VICTOR HUGO - Những người khốn khổ .


Những người khốn khổ - VICTOR  HUGO


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Những người khốn khổ (Les Misérables)
Ebcosette.jpg
Chân dung "Cosette" do Emile Bayard vẽ, trong phiên bản ban đầu của Les Misérables (1862)
Tác giả Victor Hugo
Quốc gia Pháp
Ngôn ngữ tiếng Pháp
Thể loại tiểu thuyết
Nhà xuất bản A. Lacroix, Verboeckhoven & Ce.
Ngày phát hành 1862
Những người khốn khổ (Les Misérables) là tiểu thuyết của văn hào Pháp Victor Hugo, được xuất bản năm 1862. Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 19.
Những người khốn khổ là câu chuyện về xã hội nước Pháp trong khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ 19 kể từ thời điểm Napoléon I lên ngôi và vài thập niên sau đó. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Jean Valjean, một cựu tù khổ sai tìm cách chuộc lại những lỗi lầm gây ra thời trai trẻ. Bộ tiểu thuyết không chỉ nói tới bản chất của cái tốt, cái xấu, của luật pháp, mà tác phẩm còn là cuốn bách khoa thư đồ sộ về lịch sử, kiến trúc của Paris, nền chính trị, triết lý, luật pháp, công lý, tín ngưỡng của nước Pháp nửa đầu thế kỷ 19. Chính nhà văn Victor Hugo cũng đã viết cho người biên tập rằng: "Tôi có niềm tin rằng đây sẽ là một trong những tác phẩm đỉnh cao, nếu không nói là tác phẩm lớn nhất, trong sự nghiệp cầm bút của mình"[1].
Những người khốn khổ cũng nổi tiếng vì đã được chuyển thể nhiều lần thành các vở kịch, bộ phim, trong đó nổi tiếng nhất phải kể tới vở nhạc kịch cùng tên, thường được gọi tắt là "Les Mis" (viết tắt từ Les Misérables).

Nội dung

Lưu ý: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.
Bản thân Những người khốn khổ có rất nhiều câu chuyện, nhân vật với những cuộc đời khác nhau, nhưng sợi dây nối những mảnh đời riêng biệt này lại là câu chuyện về Jean Valjean (Giăng Van-giăng), người cựu tù khổ sai, người đang cố gắng sống vì một xã hội tốt đẹp nhưng lại không thể thoát khỏi quá khứ của mình. Sau 19 năm ngồi tù với số tù 24601 vì ăn cướp thức ăn cho gia đình của mình đang lâm vào cảnh chết đói, người nông dân Jean Valjean được thả. Tuy nhiên anh phải mang theo giấy thông hành vàng, dấu hiệu cho thấy người mang nó từng phạm tội, vì vậy Jean bị chủ quán trọ từ chối và buộc phải ngủ ngoài đường. May cho anh là giám mục Myriel, một người nổi tiếng hay làm từ thiện đã cho Jean Valjean một chỗ nương náu. Khi mọi người đã ngủ, Jean lại ăn cắp mấy thứ đồ bạc của giám mục và chạy trốn, anh bị bắt lại sau đó nhưng lại được ông Myriel cứu thoát khi nói với cảnh sát rằng đó là đồ ông tặng cho Valjean. Khi chia tay vị giám mục già nói với Jean Valjean rằng anh nhất định phải trở thành một người lương thiện và làm nhiều việc tốt cho mọi người.
6 năm sau Valjean, nay mang tên ông Madeleine, đã trở thành một chủ xưởng giàu có và là thị trưởng thành phố nhỏ nơi ông sinh sống, Valjean phải mang tên giả để tránh sự phát hiện của thanh tra Javert (Gia-ve) vẫn đang truy tìm ông ráo riết. Tuy nhiên số phận buộc Valjean phải để lộ danh tính của mình khi một người đàn ông khác bị nhầm là Jean Valjean và bị bắt đưa ra tòa. Cùng lúc này, Valjean gặp Fantine (Phăng-tin), một cô gái đang hấp hối sau khi bị đuổi việc khỏi công xưởng của ông và buộc phải làm nghề mại dâm để có tiền nuôi con gái Cosette (Cô-dét), em đang phải sống với gia đình nhà Thénardier (Tê-nác-đi-ê) độc ác. Trước khi Fantine chết, Valjean hứa với cô sẽ chăm sóc Cosette cẩn thận, ông trả tiền cho lão chủ quán trọ Thénardier để giải phóng cho Cosette và cùng em chạy trốn lên Paris khỏi sự truy đuổi của Javert. Ở Paris, hai người trú trong một nhà tu kín mà Javert không được quyền khám xét, vì vậy họ tạm thoát khỏi sự truy lùng gắt gao của viên thanh tra.
Eponine do Julie Lund thủ vai
   
10 năm sau, sau cái chết của tướng Lamarque, người duy nhất trong giới lãnh đạo Pháp có cảm tình với giai cấp lao động, nhóm sinh viên đứng đầu là Enjolras tức giận với chế độ đã chuẩn bị cho một cuộc cách mạng vào đêm ngày mùng 5, rạng sáng mùng 6 tháng 6 năm 1832. Cuộc cách mạng cũng có sự tham gia của những người nghèo khổ, trong đó có cậu bé lang thang Gavroche (Ga-vơ-rốt). Một trong những người tham gia cách mạng là Marius Pontmercy, một sinh viên bị gia đình xa lánh vì quan điểm tự do của mình, anh đã đem lòng yêu Cosette, bây giờ đã trở thành một thiếu nữ hết sức xinh đẹp. Gia đình nhà Thénardier cũng đã chuyển tới Paris, bọn họ dẫn đầu một băng trộm đột nhập nhà của Valjean trong khi Marius đang đến chơi. Tuy nhiên con gái của Thénardier là Éponine cũng đã đem lòng yêu người sinh viên và cô đã thuyết phục bọn trộm rời khỏi đó.
Ngày hôm sau cuộc cách mạng nổ ra, những sinh viên bắt đầu dựng chiến lũy trên những con phố hẹp ở Paris. Khi biết người yêu của Cosette cũng tham gia nổi dậy, Valjean đã gia nhập với họ, bởi vì ông muốn bảo vệ Marius. Éponine cũng đứng vào hàng ngũ khởi nghĩa để bảo vệ Marius và cô đã chết hạnh phúc trên tay Marius sau khi hứng một viên đạn thay anh. Trong trận chiến tiếp theo, Valjean cứu sống Javert khỏi tay những người sinh viên và để viên thanh tra đi. Ông cũng cứu được Marius khi đó đã bị thương, nhưng tất cả những người khác, kể cả Enjolras và Gavroche đều đã bị giết. Valjean vác theo Marius chạy trốn theo những đường cống ngầm ở Paris, khi ra đến miệng cống ông chạm trán Javert, ông cố gắng thuyết phục Javert cho mình thời gian để trả Marius về gia đình của anh. Javert đồng ý đề nghị của Jean và nhận ra rằng ông ta đang bị kẹt giữa niềm tin vào luật pháp và niềm tin vào lòng tốt của con người mà Valjean đã cho viên thanh tra thấy, Javert cũng hiểu rằng ông không bao giờ có thể nộp Valjean cho chính quyền được nữa. Không thể chịu đựng nổi tình trạng khó xử này, Javert nhảy xuống sông Seine tự vẫn.
Marius và Cosette cưới nhau. Valjean đã mất niềm vui duy nhất của cuộc sống cuối đời vì bây giờ Cosette đã không còn cần đến ông nữa. Cosette bị Marius thuyết phục tránh xa Valjean vì anh cho rằng ông là người có đạo đức tồi. Mãi sau đó khi Valjean đã hấp hối, Marius mới nhận ra được lòng tốt của ông và chạy đến nhà Valjean cùng Cosette. Valjean chỉ còn kịp tiết lộ cho hai người về quá khứ của mình và rằng ông chi là người bố nuôi của Cosette trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Ông cũng đã có niềm hạnh phúc khi ở bên là đứa con gái nuôi yêu quý và con rể. Ông nói với họ rằng ông rất yêu quý họ, sau đó Valjean qua đời.

Đọc tiếp ...


Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

QUO VADIS .


Quo Vadis .



Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Quo Vadis: Tiểu thuyết về thời Nero
Quo Vadis 1897 Edition.jpg
Trang bìa ấn bản đầu tiên tại Mỹ
Tác giả Henryk Sienkiewicz
Tựa gốc Quo vadis. Powieść z czasów Nerona
Quốc gia Ba Lan
Ngôn ngữ Tiếng Ba Lan
Thể loại Tiểu thuyết lịch sử
Nhà xuất bản Polish dailies (in serial) & Little, Brown (Eng. trans. book form)
Ngày phát hành 1895
Kiểu sách In (báo, Sách bìa cứng & Sách bìa mềm)
ISBN NA
Bản tiếng Việt
Người dịch Nguyễn Hữu Dũng
Tên đầy đủ của tác phẩm Quo VadisQuo Vadis: Tiểu thuyết về thời Nero; tuy nhiên tác phẩm này thường được biết dưới tên ngắn gọn là Quo Vadis. Đây là một tiểu thuyết lịch sử được sáng tác bởi văn hào Henryk Sienkiewicz, người Ba Lan. Quo Vadis trong tiếng Latin có nghĩa là "Ngài đi đâu?" Câu hỏi này liên hệ với câu Kinh Thánh (John 13:36) trong Thánh Kinh Tân Ước. Trong bản dịch King James, câu Kinh Thánh này được đọc như sau, "Si-môn Phi-e-rơ thưa cùng Ngài rằng: Lạy Chúa! Chúa đi đâu? Đức Chúa Giê-xu đáp rằng: Nơi ta đi, bây giờ ngươi chẳng có thể theo ta được; nhưng rồi sau ngươi sẽ theo ta." [1]

 

Bối cảnh sáng tác

Năm 1912, trong bức thư viết cho nhà khảo cổ và cũng là nhà phê bình văn học Pháp Boyer d'Agen, Henryk Sienkiewicz cho biết nguồn cảm hứng đề ông viết tác phẩm này bắt đầu vào năm 1893 khi ông có dịp thăm nhà thờ Quo Vadis (Chiesa del Domine Quo Vadis) tại Rome. [2] Ngôi nhà thờ này được dựng nên tại nơi Phi-e-rơ gặp Chúa Giê-xu khi ông chạy trốn. Theo truyền thuyết của Hội Thánh, khi cơn bách hại Cơ-đốc giáo tại Rome dâng cao, Sứ Đồ Phi-e-rơ định bỏ chạy khỏi thành phố. Khi ông vừa ra khỏi thành, ông gặp Chúa Giê-xu đi vào. Phi-e-rơ dùng câu hỏi, mà ông từng hỏi Chúa trong Phúc Âm Giăng 13:36, để hỏi: "Lạy Chúa! Ngài đi đâu?" Chúa Giê-xu trả lời: "Vì ngươi bỏ dân ta nên ta vào Rome để bị đóng đinh lần thứ hai." Nghe câu nói đó, Phi-e-rơ tỉnh ngộ, quay lại Rome và cùng chịu tử vì đạo với những tín hữu tại đó.

Nội dung

Quo Vadis thuật lại chuyện tình giữa một thiếu nữ Cơ-đốc, tên là Ligia (hoặc Lygia), và Marcus Vinicius, một quý tộc La mã. Chuyện xảy ra tại thành Rome dưới thời hoàng đế Nero khoảng năm AD 64.

Giá trị

Trước khi viết tiểu thuyết này, Sienkiewicz đã nghiên cứu rất kỹ về Đế quốc La mã với mục đích trích dẫn các dữ kiện lịch sử được chính xác. Do đó, có một số nhân vật lịch sử xuất hiện trong tác phẩm. Nhìn chung, tác phẩm truyền tải một thông điệp mạnh mẽ ủng hộ Cơ-đốc giáo. Ngoài ra, tác phẩm cũng gián tiếp giải thích về nguồn gốc sâu xa của Cơ-đốc giáo tại Ba Lan. Ligia, nhân vật nữ trong câu chuyện, là công chúa của bộ tộc Ligia, tiền thân của người Ba Lan hiện nay. [3]
Tác phẩm được viết vào mùa xuân năm 1895 tại Warsaw và hoàn tất ngày 18/02/1896 tại Nice. Vào năm 1895, tác phẩm được in từng phần trên ba nhật báo Ba Lan tại các thành phố Warsaw, PoznańKraków. Vài tháng sau khi tác phẩm hoàn thành, năm 1896 nhà xuất bản Genethner & Wolff in thành sách (3 tập). [4] Hiện nay, Quo Vadis đã được dịch ra hơn 50 ngôn ngữ. Cuốn tiểu thuyết này đã giúp Sienkiewicz đoạt giải Nobel Văn học vào năm 1905.
Nhiều phim đã được dựng dựa trên Quo Vadis. Phim nổi tiếng nhất là phim do Hollywood sản xuất Quo Vadis vào năm 1951. Đây cũng là phim ăn khách nhất tại Hoa Kỳ vào năm đó.

Những nhân vật trong Quo Vadis


  • Marcus Vinicius là một nhân vật lịch sử. Ông là một sĩ quan cao cấp và là một quý tộc La Mã, vừa trở lại Rome. Khi về đến nơi, Marcus gặp và yêu Ligia. Ông hỏi ý kiến của người cậu của mình là Petronius làm thế nào để sở hữu nàng.
  • Calina là một nhân vật hư cấu. Đây là tên thật của thiếu nữ này nhưng mọi người gọi nàng là Ligia (một số bản dịch gọi là Lygia). Ligia con gái của một vua Ligians đã băng hà. Ligians là một bộ tộc dã man, do đó thiếu nữ này được biết dưới tên cô gái Ligia. Ligia hiện đang bị giữ làm con tin bởi Quốc Hội và dân chúng Rome. Cô bị quên lãng nhiều năm bởi dân tộc mình. Là một người đẹp tuyệt vời, cô cũng là một Cơ-đốc nhân - một điều mà Marcus không biết.
  • C. Petronius là một nhân vật lịch sử. Ông được biết đến với danh hiệu là "người điều tiết lịch lãm", vốn là cựu thống đốc của Bythinia. Petronius là thành viên của triều đình Nero. Ông dùng sự khôn ngoan của mình vừa nịnh bợ vừa châm chọc Nero. Petronius được người La Mã thích vì những quan điểm phóng khoáng. Với một chút làm biếng và vô đạo đức, ông cố gắng giúp người cháu của mình, nhưng âm mưu xảo quyệt của ông đã bị những người bạn Cơ-đốc của Ligia ngăn trở.
  • Eunice là một nhân vật hư cấu. Eunice là một nô lệ trong nhà Petronius. Eunice là một phụ nữ Hy Lạp xinh đẹp, nàng yêu ông chủ mình, mà ông không hề biết.
  • Chilon Chilonides là một nhân vật hư cấu. Chilon là một kẻ bịp bợm và là một thám tử tư. Ông được Marcus mướn đi tìm Ligia. Trong nhiều bộ phim, nhân vật này bị loại bỏ, ngoại trừ loạt phim nhiều tập do Ba lan sản xuất vào năm 2001. Tuy nhiên trong tiểu thuyết, Chilon đóng một vai trò quan trọng. Một kẻ phản bội đôi và kết cuộc của hắn là nguồn cảm hứng từ Thánh Dismas.
  • Nero là một nhân vật lịch sử. Nero được minh họa như là một hoàng đế bất tài, nhỏ mọn và tàn ác, bị thao túng bởi quần thần. Ông thích nghe lời của những kẻ tâng bốc và dối gạt.                                   
  • Tigellinus là một nhân vật lịch sử. Tigellinus là thủ lãnh quyền uy của Đội Ngự Lâm Praetorian. Ông là đối thủ của Petronius trong việc giành ân huệ của Nero và là người xúi giục Nero làm nhiều điều gian ác.
  • Poppaea Sabina là một nhân vật lịch sử, là vợ của Nero. Bà vô cùng ghen ghét Ligia.
  • Claudia Acte là một nhân vật lịch sử. Bà là một nô lệ và từng là người tình của Nero. Nero đã chán và quên lãng Claudia, nhưng bà vẫn còn yêu ông. Bà nghiên cứu niềm tin Cơ-đốc, nhưng nghĩ mình không xứng đáng để theo đạo.
  • Aulus Plautius là một nhân vật lịch sử. Ông là một đại tướng La Mã đáng kính đã về hưu. Aulus đã lãnh đạo cuộc chinh phục Anh Quốc. Aulus dường như không biết - hay không muốn biết - rằng Pomponia, vợ của ông, và Ligia, con gái nuôi, là những người theo Cơ-đốc giáo.
  • Pomponia Graecina là một nhân vật lịch sử, đã theo Cơ-đốc giáo. Bà rất được kính trọng. Aulus và Pomponia là cha mẹ nuôi của Ligia nhưng họ không biết làm thế nào để hợp thức hóa việc này. Theo luật La Mã, Ligia vẫn là con tin của nước La Mã, tức thuộc về hoàng đế, nên cặp vợ chồng già này chỉ có trách nhiệm chăm nom mà thôi.
  • Ursus là nhân nhân vật hư cấu, là người bảo vệ Ligia. Là người cùng bộ tộc với Ligia, Ursus từng phục vụ người mẹ quá cố của Ligia. Ursus rất trung thành với công chúa của mình. Là một tín hữu Cơ-đốc, Ursus cố gắng vâng giữ những lời dạy dỗ trong niềm tin Cơ-đốc măc cho kích thước to lớn, sức mạnh và đầu óc thiếu văn minh của mình. Ông được minh họa như là một nhà quý tộc của những người thiếu văn minh.
  • Thánh Phi-e-rơ là một nhân vật lịch sử. Ông được mô tả là một cụ già mệt mỏi với trách nhiệm phải rao truyền sứ điệp về Đấng Cứu Thế.
  • Phi-e-rơ kinh ngạc về quyền lực của La Mã và sự tàn ác của hoàng đế Nero, người mà ông gọi là Con Thú. Đôi khi Phi-e-rơ hoang mang không biết mình có thể tiếp tục gieo và bảo vệ 'hạt giống tốt' của niềm tin Cơ-đốc hay không.
  • Thánh Phao-lô là một nhân vật lịch sử. Ông là người nhận trách nhiệm chính mình cải đạo Marcus.
  • Crispus là nhân vật hư cấu. Ông coi Cơ-đốc nhân là những người gần như cuồng tín.

Đọc tiếp ...

Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

Ernest Hemingway và tác phẩm Giã từ vũ khí .

 Ernest Hemingway và tác phẩm Giã từ vũ khí .



Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Giã từ vũ khí
Gia tu vu khi.jpg
Tác giả Ernest Hemingway
Quốc gia Cờ Hoa Kỳ Hoa Kỳ
Ngôn ngữ tiếng Anh
Thể loại Tiểu thuyết chiến tranh
Bán tự truyện
Nhà xuất bản Scribner's Magazine
Ngày phát hành tháng 5-tháng 10/1929
Kiểu sách In (nhiều tập)
Số trang 336
ISBN ISBN 978-0-684-80146-9

Paramedics cap from the possession of Hemingway
Giã từ vũ khí (tiếng Anh: A Farewell to Arms) là một tiểu thuyết bán tự truyện của nhà văn Ernest Hemingway viết 1929. Phần lớn cuốn tiểu thuyết này được viết tại nhà bố mẹ vợ Hemingway ở Piggott, Arkansas. Được nhiều nhà phê bình xem là một trong những tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại nhất mọi thời đại, câu chuyện được thuật lại thông qua lời kể của trung úy Frederic Henry, một người Mỹ nhưng lái xe cứu thương trong quân đội Ý vào thời Đệ nhất thế chiến.

Tóm tắt nội dung

Lưu ý: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.
Tiểu thuyết này được chia thành 5 phần: phần 1, Henry gặp Catherine Barkley và mối tình của họ chớm nở. Trong thời gian phục vụ trên mặt trận Italia, Henry bị thương vào đầu gối do đạn pháo nên anh được chuyển tới một bệnh viện ở Milano. Phần 2 kể lại sự phát triển mối tình của Henry và Catherine khi họ sống bên nhau tại Milano trong mùa Hè. Henry ngày càng yêu Catherine, rồi đến khi anh lành vết thương, Catherine đã có thai 3 tháng. Trong phần 3, Henry trở về đơn vị của mình, nhưng chẳng bao lâu sau thì quân Đức phá vỡ mặt trận Ý khiến quân Ý tháo chạy hỗn loạn. Sau khi bị tụt lại đằng sau, Henry cố bắt kịp đơn vị, nhưng anh lại bị hiến binh Ý bắt giữ và mang đi xử tử, vì bị buộc tội "phản bội", góp phần dẫn đến thất bại của quân Ý. May mắn là Henry trốn thoát được bằng cách nhảy xuống sông. Trong phần 4, Catherine và Henry đoàn tụ và bỏ trốn đến Thụy Sỹ bằng cách chèo thuyền qua biên giới. Trong phần cuối, Henry và Catherine sống cuộc đời bình lặng tại vùng núi, cho tới khi Catherine sinh con. Sau một cơn đau đẻ dài và khó nhọc, con trai của họ chết trong bụng mẹ, còn Catherine thì bị băng huyết mà chết, bỏ lại Henry một mình ngậm ngùi quay về nhà trọ trong cơn mưa tầm tã (Catherine vốn rất thích nhìn trời mưa).

Nhân vật chính


Đọc tiếp ...

Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

Jean-Baptiste Lully và phong cách Baroque cổ điển Pháp .

 Jean-Baptiste Lully và phong cách Baroque cổ điển Pháp  .

Theo Wikipedia, bách khoa toàn thư

Nguồn :  http://en.wikipedia.org/wiki/Jean_Baptiste_Lully 









Tiểu sử .


De Jean-Baptiste Lully ( tiếng Pháp phát âm: [ʒɑbatist lyli]  ; Ý: Giovanni Battista Lulli, sinh ngày 28 tháng 11 năm 1632 - mất ngày 22 tháng 3 , 1687) một người Pháp sinh tại Ý . Ông là nhà soạn nhạc đã dành phần lớn cuộc đời hoạt động trong triều đại vua Louis XIV nước Pháp. Ông được coi là người khởi xướng của phong cách Baroque Pháp. Lully từng chối bỏ bất kỳ về ảnh hưởng Ý trong âm nhạc Pháp của thời kỳ này. Tên tuổi của ông đã trở thành một chủ đề lớn ở Pháp vào năm 1661.

 Ông là con trai của một thợ cối xay thuộc tầng lớp lao động, được sinh ra tại Florence, Italy , thời niên thiếu Lully ít được học hành  , nhưng bù lại ông đã học được những kỹ thuật cơ bản về guitar, ban đầu được giảng dạy bởi một thầy dòng Phanxicô ở Florence. Sau đó , Lully đã học kỹ thuật biểu diễn violon, và khiêu vũ tại Pháp . Vào năm 1646, ông được phát hiện bởi Roger de Lorraine, Chevalier de Guise, con trai của Charles, Công tước xứ Guise, và được đưa tới Pháp, nơi ông phục vụ cho Mademoiselle de Montpensier (la Grande Mademoiselle) như là một cậu bé- phụ bếp kiêm giáo viên tiếng Ý. Với sự giúp đỡ của công chúa này, ông đã theo học nhạc lý với Nicolas Métru ,  từ đó tài năng của ông ngày càng phát triển . 

Ông phục vụ cho vua  Louis XIV vào cuối 1652, đầu 1653 với vai trò như một vũ công , đã từng viết một số bản nhạc khiêu vũ Ballet , khiến nhà vua hài lòng vô cùng. Lully được bổ nhiệm là nhà soạn nhạc với các nhạc cụ cung đình , và được đặt ở vị trí cao nhất trong Violons Petits, là một ban nhạc violon dành riêng cho nhà vua. Năm 1661, vua Louis XIV bổ nhiệm Lully làm Tổng quản âm nhạc Cung đình , với vai trò này ông đã sáng tác và chỉ huy biểu diễn cùng với 24 nghệ sĩ violons trong ban nhạc lớn của đức vua - Bande Grand Les Vingt-Quatre Violons du Roi .

Lully đã sáng tác nhiều khúc ballet cho nhà vua trong những năm từ 1650 và 1660, trong đó đích thân nhà Vua và Lully cùng khiêu vũ .  Ông cũng đã thành công to lớn trong việc sáng tác âm nhạc cho các vở hài kịch của Molière, bao gồm các vở Le Mariage  forcé ( Hôn nhân cưỡng bức-1664) , L'Amour médecin ( Tình yêu thầy thuốc -1665), và Lê gentilhomme Bourgeois (Trưởng giả học làm sang -1670). Đó là khi ông gặp Molière và họ cùng nhau tạo ra những vở hài kịch ballet  ( comédie-ballet ). Nhưng sự quan tâm đến múa ba lê và khả năng khiêu vũ của vua Louis XIV cũng suy yếu dần như tuổi tác của ông ,nên Lully bắt đầu chuyển hướng sang theo đuổi dòng nhạc opera. Ông mua tác quyền cho opera từ Pierre Perrin, với sự ủng hộ của Jean-Baptiste Colbert và nhà vua,  Lully tạo ra một đặc quyền mà về cơ bản đã cho ông kiểm soát hoàn toàn tất cả sáng tác âm nhạc được thực hiện tại Pháp mãi cho đến khi ông qua đời vào năm 1687.

 Ông được biết đến là một nhà tự do tư tưởng. Năm 1661, trong thư tịch và trong khế ước hôn nhân của ông với Madeleine Lambert, con gái của một người bạn Lully và nhạc sĩ Michel Lambert, Giovanni Battista Lulli  đã tự tuyên bố rằng ", Jean-Baptiste de Lully, gọi tắt là 'con trai của' Laurent de Lully,  bậc trưởng giả xứ Florentin " . Mặc dù cuộc sống của Lully là hoàn toàn ở đỉnh cao danh vọng , những nan đề tình cảm của ông với nhiều người đàn ông và phụ nữ cũng đã làm ông dính vào nhiều vụ bê bối , nhiều lần khiến vua Louis XIV không hài lòng . Mặc dù vậy ông vẫn  luôn có được những ân sủng của vua Louis, người đã tìm thấy Lully  như một sự cần thiết cho thú vui giải trí âm nhạc của mình và cũng  luôn suy nghĩ rằng Lully là một trong vài người bạn tốt thực sự của ông .

Portrait of several musicians and artists' by François Puget 1688 - Brunel 1980  . Theo truyền thống, hai nhân vật chính đã được xác định là Jean-Baptiste Lully nhà soạn nhạc viết lời nhạc kịch Philippe Quinault. (Musée du Louvre).


Âm nhạc .

Đọc tiếp ...


*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran