Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn trác tuyệt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn trác tuyệt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2014

Secret Garden và những giai điệu đẹp - Phần 2 .


Secret Garden và những giai điệu đẹp 

- Phần 2 .








Nocturne

ow, let the day
Just slip away
So the dark night
may watch over you

Velvet, blue
Silent, true
It embraces your heart
and your soul
Nocturne

Never cry never sigh
You don't have to wonder why
Always be always see
Come and dream the night with me
Nocturne

Have no fear
When the night draws near
And fills you
with dreams and desire

Like a child asleep
So warm, so deep
You will find me there
waiting for you
Nocturne

We will fly claim the sky
We don't have to wonder why
Always see always be
Come and dream the night with me
Nocturne

Though darkness lay
It will give away
When the dark night
delivers the day
Nocturne
































 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Chúng ta phải biết và chúng ta sẽ biết .

 David Hilbert .

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2014

TIẾNG ĐÊM .

Before The Night Ends - Leslie Mills


Một khúc nhạc nhẹ nhàng , thoảng qua như hơi thở và tiếng thì thầm của trái tim .

Before The Night Ends 
I close my eyes to see the world
I close my eyes so that it won't hurt
I'm sailing on blue ocean and flying to you

I catch my breathe under the full moon
A star that shines, so pleased to meet... you
Maybe I'll dream forever
And I'd like to love right here

Before the night ends
And dawn of a new day dawns
How I hope, how I hope
That out of this endless blue
Somehow I will find you
Before the night ends,
Before the night ends

I made a choice more than a few times
To walk a road that didn't end up so right
But I want to go the distance
I'd like to love right here

Before the night ends
And dawn of a new day dawns
How I hope, how I hope
That out of this endless blue
Somehow I will find you
Before the night ends,
Before the night ends

Close my eyes...
Never gonna let up...

Before the night ends
I hope I find you

**************************************************************

TIẾNG ĐÊM





Mắt huyền khép lại
Và nhìn quanh thế giới
Đôi mi chìm dần
không chạm tới nỗi đau
Khi cơn mơ êm đềm
Lướt mau trên biển biếc ,
Em bay về anh
tìm hơi ấm thật sâu .


Hơi thở thì thầm
Dưới vầng trăng bí ẩn
Một nụ cười tinh tú
Tỏa sáng trên cao .
Em nhủ lòng mình
trong giấc mơ sương khói
Trái tim yêu
 mãi nơi đây
Những giây phút ngọt ngào .


Trước khi bóng tối tan nhanh
Và bình minh rạo rực
Hy vọng! hy vọng ,
em biết bao hy vọng
Ôi một niềm hy vọng
rất mong manh
Trong tối tăm
bất tận ánh khuya xanh
Em sẽ tìm thấy anh trước khi tan đêm tối



Đã hơn một lần
Em băn khoăn sầu rối
Đi hết một con đường
Không kết thúc đẹp đôi
Nhưng kìa trái tim em
Sao cứ nhắn nhủ không thôi
Yêu mãi nơi đây
Những phút giây hiện thực .


Trước khi bóng tối tan nhanh
Và bình minh rạo rực
Hy vọng! hy vọng ,
em biết bao hy vọng
Ôi một niềm hy vọng
rất mong manh
Trong tối tăm
bất tận ánh khuya xanh
Em sẽ tìm thấy anh trước khi tan đêm tối







Trần hồng Cơ 
12/05/2012

Lòng thổn thức khi lắng nghe tiếng đêm .



------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
 Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Albert Einstein .

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

CẢM XÚC MÙA THU . Tuyển tập Yanni - Phần 1 .

CẢM XÚC MÙA THU . 

Tuyển tập Yanni - Phần  1 .

William-Adolphe Bouguereau - Bacchante

 https://www.youtube.com/user/yannivideos





Về tác giả 

Yanni (phát âm là /ˈjɑːni/ Yah-nee), tên khai sinh là Yiànnis Hryssomàllis (phát âm /kriːsoʊˈmɑːliːs/ kree-soh-Mah-leess); tiếng Hy Lạp: Γιάννης Χρυσομάλλης; phiên âm là Giannis Chrysomallis) sinh ngày 14 tháng Mười một, 1954, tại Kalamata, Hy Lạp, là một nghệ sĩ piano tự học, nghệ sĩ organ keyboard, và là nhạc sĩ sáng tác.
Ông được nhận đề cử giải cho album năm 1992, Dare to Dream, và album tiếp theo năm 1993, In My Time. Ông đã thành công vượt bậc với việc phát hành album trực tiếp thu hình liveshow vào năm 1994 Yanni Live at the Acropolis, được đánh giá là video âm nhạc bán chạy nhất. Cho đến nay, Yanni đã biểu diễn trực tiếp trước hai triệu người đến từ hơn 20 nước trên thế giới. Ông cũng nhận được hơn 35 album Bạch kim và Vàng trên toàn cầu, với số lượng bán ra hơn 20 triệu bản.Yanni cũng được đánh giá là một trong những người thu lợi nhiều nhất từ phương tiện đại chúng. Những sáng tác của ông được trình diễn trong các buổi truyền hình Thế vận hội Olympic từ năm 1988, cũng như trong các sự kiện thể thao hay những chương trình khác. Nhạc của ông được xếp vào dòng nhạc "new age", mặc dù ông ưa dùng cụm từ "nhạc hòa tấu đương đại" để giới thiệu về nhạc của mình.



Tiểu sử

Thuở thiếu thời

Yanni là một nghệ sĩ piano tự học và là nhạc sĩ, mà theo lời thuật lại của gia đình rằng ông không được đào tạo chuyên môn, thậm chí không thể đọc nhạc được. Ông cũng là vận động viên bơi lội được tuyển chọn tại Hy Lạp và đạt được kỷ lục quốc gia về nội dung bơi tự do 50 mét khi mới 14 tuổi. Năm 18 tuổi ông đậu vào trường Đại học Minnesota. Khi còn là sinh viên ở đây, Yanni đã tham gia một ban nhạc nhỏ đầy triển vọng có tên Chameleon. Đó cũng chính là lúc ông gặp được Charlie Adams, tay trống người Mỹ mà sau này là nghệ sĩ cùng trình diễn với ông đến nay. Ban Chameleon gặt hái được nhiều thành công trong chuyến lưu diễn xuyên vùng Trung Tây Hoa Kỳ, đặc biệt là các bang Minnesota, Iowa, Wisconsin, Illinois và Nam Dakota. Sau khi nhận được bằng Cử nhân ở bộ môn tâm lý học, ông quyết theo đuổi âm nhạc. Ông chuyển đến Los Angeles, theo đuổi sự nghiệp sáng tác nhạc phim. Năm 1987 ông thành lập một ban nhạc nhỏ bao gồm cả John Tesh và Charlie Adams, bắt đầu đi trình diễn để quảng bá cho những album đầu tiên của mình, Keys to Imagination, Out of Silence, và Chameleon Days.

Thập niên 1990

Yanni phát hành album Dare to Dream vào năm 1992. Đây là album được đề cử giải Grammy đầu tiên của ông, giới thiệu nhạc phẩm Aria (dựa trên bản opera The Flower Duet) được sử dụng trong quảng cáo của hãng British Airways. Album tiếp theo của ông cũng được đề cử giải Grammy, In My Time, được phát hành vào năm 1993. Những tác phẩm của ông được sử dụng nhiều trong các chương trình truyền hình và sự kiện thể thao, bao gồm Super Bowl, Wide World of Sports, các giải U.S. Open, Tour de France, World Figure Skating Championships, Thế vận hội, và ABC News.
Năm 1994, Yanni tạo được cú hích khi phát hành album thu hình trực tiếp buổi trình diễn của ông tại quê nhà vào ngày 23 tháng Chín, 1993, Yanni Live at the Acropolis, tại Đại hý viện Herod Atticus hai nghìn năm tuổi ở Athens, Hy Lạp. Đây là album liveshow đầu tiên của ông với dàn nhạc giao hưởng đầy đủ dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng người Iran Shahrdad Rohani và ban nhạc riêng. Buổi trình diễn này cũng được phát sóng trên hệ thống đài PBS và nhanh chóng trở thành một trong những chương trình được phổ biến rộng rãi nhất, được hơn nửa tỉ người tại 65 năm nước xem.Album cũng liên tục trụ được trên các bảng xếp hạng từ khi được phát hành và là video âm nhạc thứ hai bán chạy nhất mọi thời đại, với hơn bảy triệu bản trên toàn cầu.Một tác phẩm trong album, "Acroyali/Standing in Motion", được Journal of the Royal Society of Medicine đánh giá là chịu "ảnh hưởng của nhạc Mozart" bởi nó giống bản K 448 của Mozart ở tốc độ, cấu trúc, giai điệu và tiết tấu và hoàn toàn có thể đoán trước được. Ông cũng xuất hiện trong các chương trình PBS Pledge TV Specials như chương trình Một Thập niên Đỉnh cao, giới thiệu các nhạc phẩm từ Live at the Acropolis, Tribute và Live at Royal Albert Hall, London.




Watch Yanni - Live at the Acropolis (1994) in Other Music  |  View More Free Videos Online at Veoh.com



Vào tháng Ba năm 1997, Yanni trở thành một trong số ít những nghệ sĩ Tây phương được phép trình diễn và ghi hình tại đền Taj Mahal ở Ấn Độ. Ít lâu sau ông cũng đã trình diễn tại Tử Cấm Thành, Trung Quốc. Tổng hợp từ hai buổi trình diễn này, ông đã phát hành album liveshow thứ hai, Tribute vào năm 1997. Armen Anassian, nhạc trưởng buổi trình của Yanni tại London năm 1996, đã thừa nhận rằng ông hoàn toàn nghi ngại với những ý định của Yanni khi trình diễn tại đền Taj Mahal và Tử Cấm Thành nằm trong dự án Tribute: "Thành thực mà nói, chỉ vài năm trước đây khi Yanni đề cập đến chuyện này, ý tưởng của ông thật tuyệt vời. Lúc đó bản thân tôi cũng đầy nghi hoặc, điều này cũng dễ hiểu. Nhưng sự thật là nó đã diễn ra. Chúng tôi đã làm được."Anassian mô tả Yanni là một người "rất lạc quan" và "không gì có thể cản trở ông". Quan điểm đó cũng dễ dàng nhận ra trong các tác phẩm của ông. "Bản thân tôi nghĩ nó không phải là mục tiêu. Yanni luôn chân thành với cảm xúc của mình. Và dòng nhạc của ông vẫn luôn đến từ trái tim. Ông sáng tác rất thoải mái, âm nhạc cũng xuất phát từ điều đó. Những gì hay nhất của âm nhạc cũng được tạo ra. Đó chính là những gì mọi người muốn nghe".Hai đạo diễn ánh sáng Lee Rose và David "Gurn" Kaniski đã nhận được đề cử cho giải Emmy ở hạng mục "Chỉ đạo Ánh sáng xuất sắc nhất cho Phim truyện dài tập, Chương trình tạp kỹ, Chương trình truyền hình và những Sự kiện đặc biệt" cho cả hai chương trình Live at the Acropolis và Tribute.

Thập niên 2000

Năm 2000, sau hai năm vắng bóng, Yanni đã phát hành album phòng thu đầu tiên trong bảy năm: If I Could Tell You.
Yanni tổ chức lưu diễn suốt hai năm 2003–2004 cùng với sự ra mắt album Ethnicity phát huy triết lý "Một Thế giới, Một Cộng đồng". Chuyến lưu diễn này được Tạp chí Billboard xếp hạng lớn thứ Tư toàn cầu trong năm.
Ngày 6 tháng Năm, 2004, Đại học Minnesota trao tặng học vị Tiến sĩ Nhân văn danh dự cho Yanni.
Ông khởi động chuyến lưu diễn năm 2004–2005 "Yanni Live!" tại Mandalay Bay, Las Vegas, Nevada, và phát hành album liveshow tiếp theo mang tên Yanni Live! The Concert Event vào năm 2006.
Năm 2008, cùng cộng tác với nhà sản xuất Ric Wake, Yanni cùng một số ca sĩ viết nhạc, lời và hát những tác phẩm của ông trong album Yanni Voices. Vào ngày 24 tháng Ba, 2009, Disney Pearl Imprint phát hành Yanni Voices, album phòng thu đầu tiên của ông trong sáu năm, và nhà sản xuất Buena Vista Concerts khởi động chuyến lưu diễn quảng bá bắt đầu từ tháng Tư năm 2009.

Thập niên 2010

Chuyến lưu diễn Yanni Live in South America đã diễn ra tại Santiago, Chile, Buenos Aires, Argentina, Sao Paulo và Rio de Janeiro, Brazil vào tháng Chín, và Hato Rey, Puerto Rico vào tháng Mười một năm 2010. Performances in Mexico (January 2011) and Panama (February 2011) were followed by a 43-stop tour of Canada and the United States. The tour of South, Central, and North America included new vocalists, distinct from the 2008-2009 Yanni Voices vocalists.
Album Yanni Mexicanisimo, phát hàng vào tháng Mười 2010, với mục đích tri ân dòng nhạc Mexico, kết hợp các nhạc phẩm Mexico và phong cách của Yanni.
Yanni phát hành album Truth of Touch vào đầu tháng Hai năm 2011. Yanni cũng đang cố gắng để mở rộng các buổi trình diễn của ông đến Trung Quốc và các nước Nam Mỹ, bao gồm Chile, Argentina và Brazil.




Tự thuật

Quyển tự thuật của Yanni, Yanni in Words, cùng viết với David Rensin, được phát hành vào tháng Hai năm 2003. Đó là một tuyển tập những hồi ức của ông như tuổi thơ ở Hy Lạp, thời sinh viên ở Minnesota, sự thành công của ông như một ngôi sao quốc tế với nhiệt huyết của mình trong quá trình sáng tác, mối quan hệ trong chín năm với diễn viên Linda Evans. Quyển sách được phát hành cùng lúc với thời điểm ra mắt album thứ 13 Ethnicity và được New York Times đánh giá là quyển sách bán chạy nhất.

Danh sách đĩa nhạc

Album phòng thu
1984 Optimystique
1986 Keys to Imagination
1987 Out of Silence
1988 Chameleon Days
1989 Niki Nana
1990 Reflections of Passion
1991 In Celebration of Life
1992 Dare to Dream
1993 In My Time
2000 If I Could Tell You
2003 Ethnicity
2009 Yanni Voices and Yanni Voces (Spanish Version)
2010 Yanni Mexicanisimo
2011 Truth of Touch
2012 My Passion for Mexico
2014 Inspirato

Album liveshow/Băng hình

1994 Yanni Live at the Acropolis
1995 Yanni Live at Royal Albert Hall
1996 Yanni One on One
1997 Tribute
2006 Yanni Live! The Concert Event
2009 Yanni Voices and Yanni Voces (Spanish Version)
Nhạc phim
1988 Steal the Sky
1988 Heart of Midnight
1989 I Love You Perfect
1990 Children of the Bride
1990 She'll Take Romance
1990 When You Remember Me
1994 Hua qi Shao Lin

Tuyển tập

1992 Romantic Moments, BMG
1994 A Collection of Romantic Themes, Private Music
1997 Devotion (The Best of Yanni), Private Music
1997 Port of Mystery, Windham Hill
1997 In The Mirror, Private Music
1997 Nightbird, Unison
1999 Someday, Unison
1999 The Private Years, Private Music
1999 Love Songs, RCA Victor
1999 Winter Light
2000 Snowfall
2000 The Very Best of Yanni (2000–10), Windham Hill Records, RCA Victor
2003 Ultimate Yanni
2010 The Essential Yanni

Các chuyến lưu diễn



1987: Out of Silence
1988: Chameleon Days
1990: Reflections of Passion
1991: Revolution in Sound
1992: Dare to Dream
1993: Yanni Live, The Symphony Concerts 1993
1994: Yanni Live, The Symphony Concerts 1994
1995: Yanni Live, The Symphony Concerts 1995
1997: Tribute
2003–4: Ethnicity
2004–5: Yanni Live!
2008–9: Yanni Voices
2010: Yanni Live in South America
2011: Yanni Live at El Morro, Puerto Rico
2012: An Evening with Yanni
2013: World Without Borders
2014: World Tour

Nguồn  :   http://vi.wikipedia.org/wiki/Yanni

























William-Adolphe Bouguereau - Collecting Hazlenuts





-------------------------------------------------------------------------------------------

 Chúng ta phải biết và chúng ta sẽ biết . 

 David Hilbert .

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

Albert Einstein: Đỉnh cao của khoa học và nhân văn .



Albert Einstein : Đỉnh cao của khoa học và nhân văn .

 - Đây là bài viết của tác giả Chu Hảo trên tạp chi Tia Sáng . Xin phép được đăng lại trên Blog Toán - Cơ học ứng dụng .
Trân trọng cảm ơn .





Steven Weinberg (nhà vật lý Mỹ, giải thưởng Nobel 1979), đã kết thúc cuốn sách "Ba phút đầu tiên – một cách nhìn hiện đại về vũ trụ” bằng một ý tưởng độc đáo: "Sự cố gắng hiếu biết về Vũ trụ là một trong rất ít cái làm cho đời sống con người được nâng lên cao hơn trình độ của một hài kịch và cho nó một phần nào dáng đẹp của một bi kịch”.
Albert Einstein đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời đầy bi kịch của mình cho "sự cố gắng hiểu biết về vũ trụ” ấy với cả một vầng hào quang các giai thoại hài hước, cùng với dáng điệu ngộ nghĩnh không trộn lẫn vào đâu được, nhưng gần gũi với tất cả mọi người, như kiểu vua hề Charlie Chaplin.
Sự hiểu biết về Vũ trụ mênh mông, huyền bí luôn luôn là khát vọng cháy bỏng của con người. Ta là ai? Ta từ đâu tới và sẽ đi về đâu? Đâu là điểm tựa của Đức Tin duy trì sự trương tồn của nhân loại? Nhũng câu hỏi huyết mạch muôn thuở ấy đã thôi thúc con người tìm hiểu nguồn gốc của Vũ trụ, của vật chất, của không gian và thời gian. Và chính những quan niệm (hay là sự hiểu biết) ấy là nguồn gốc của mọi nền Văn minh và Văn hóa.
Trong suốt hơn năm trăm nghìn năm lịch sử của mình, loài người mới chỉ có hai lần may mắn được chứng kiến những thay đối có tính cách mạng trong những quan niệm đó. Lần thứ nhất do nhà thiên văn học Ba Lan kiệt xuất, Copernic (1473- 1543), mở đầu bằng một kết luận khoa học bác bỏ quan điểm "Trái đất là trung tâm Vũ trụ!". Kết luận ấy đã xé tan bức màn đen của đêm dài Trung cổ, đưa loài người sang thời kỳ Phục hưng. Đó chính là cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất với sự hình thành và phát triển vật lý - thiên văn cổ điển do công lao sáng tạo của nhiều thế hệ các nhà khoa học, mà tiêu biểu là Kepler (Ba Lan), Galilée (Ý) và Newton (Anh).
Newton
Kepler
Galileo













Einstein là người đột phá trong cuộc cách mạng khoa học lần thứ hai, đúng vào lúc khoa học cổ điển tương chừng như sắp có thể hoàn chỉnh sự mô tả toàn bộ Vũ trụ bằng giả thuyết chất ête (ether) tràn ngập không gian. Với trí tưởng tượng , siêu đẳng và trực giác bẩm sinh, Einstein đã làm đố vỡ nền móng của khoa học cổ điển bằng lập luận khoa học xác đáng phủ nhận sụ tồn tại của chất ête, và do đó phủ nhận luôn cả hai cái tuyệt đối của khoa học cổ điển (không gian tuyệt đối. Và thời gian tuyệt đối) bằng Thuyết tương đối bất hủ của mình. Lúc đó, cả thế giới triết học lẫn khoa học đã chao đảo như có ai đó, (hẳn là Einstein rồi!), rút mạnh tấm thảm dưới chân mình. Cùng với Thuyết lượng trang Einstein cũng đóng góp một phần không nhỏ, Thuyết tương đối của riêng Einstein là phiến đá tảng của nền khoa học và công nghệ hiện đại - một trong vài ba nét đặc trưng quan trọng nhất của thế kỷ XX. Vì thế, Einstein đã được cộng đồng các nhà khoa học thế giới chọn làm biểu tượng của thế kỷ vừa qua - thế kỷ của khoa học và cồng nghệ (xin xem Tạp chí "Time", số 31/12/1999).



Cuộc đời của Einstein đã không suôn sẻ ngay từ nhỏ. Bên cạnh người mẹ độc đoán, cậu bé Einstein chậm biết nói và hay "nổi loạn" chỉ có được một niềm an ủi duy nhất: bà đã khuyến khích con mình ham mê âm nhạc cổ điển và chơi đàn viôlông. Với người bố dễ dãi và thất bại liên tục trong kinh doanh, Einstein chỉ còn giữ một kỷ niệm duy nhất về một món quà đã gây cho cậu thú vui tò mò đầu tiên: chiếc la bàn (vì sao đầu kim của nó luôn quay về phương Bắc ?). Einstein đã phải tự quyết định con đường học tập của mình từ năm 15 tuổi. Từ bỏ trường trung học có khuynh hướng quân sự, Einstein sang Thụy Sĩ và tốt nghiệp Trường Đại học Bách khoa Zurich rồi làm việc tại cơ quan đăng ký sáng chế - phát minh. Chính ở đây, vào năm 1905, ông đã công bố các kết quả nghiên cứu khoa học của mình (khi 26 tuổi). Chỉ với hai bài báo rất ngắn gọn, trình bày hai công trình nghiên cứu quan trọng nhất, Einstein đã trở thành một trong các nhà vật lý hàng đầu thế giới. Một trong hai bài báo đó trình bày kết quả nghiên cứu về hiện tượng quang - điện mà sau này, vào năm 1921, đã mang lại cho ông giải thưởng Nobel. Trớ trêu thay, công trình nghiên cứu mang lại cho ông niềm vinh quang bất diệt lại đã không hề nhận được bất kỳ giải thưởng nào: công trình về Thuyết tương đối hợp với những kết quả làm đảo lộn toàn bộ khái niệm đương thời về không gian, thời gian và thực tại (Reality).
Einstein vào lúc nhận giải Nobel vật lý 1921 .

Trong công trình này, Einstein đã đặt ra bài toán: nếu ta trưởng một con tàu chuyển động với vận tốc bằng tốc độ ánh sáng thì ta sẽ thấy sóng ánh sáng thế nào? Liệu ta có thấy không gian và thời gian khác đi so với bình thường ta vẫn thấy? ông đã giải bài toán ấy một cách chính xác và đi đến các kết luận kinh hoàng đối với khoa học thời đó: tốc độ ánh sáng là không đổi , gần bằng 300.000 km/giây, bất kể ta chuyển động về phía nguồn sáng hay ngược lại. Và không gian cũng như thời gian là tương đối: nếu tốc độ chuyển động của con tầu gần bằng tốc độ ánh sáng, thì thời gian trên con tầu chậm hơn so với lúc nó đứng yên (hoặc chuyển động chậm hơn), đồng thời chính con tầu cũng sẽ trở nên ngắn hơn và nặng hơn. Nói cách khác, không tồn tại chất ête và không có cái gì là tuyệt đối cả. Quan điểm này về sau đã lan truyền sang các lĩnh vực văn học, nghệ thuật... thậm chí cả đạo đức trong suốt thế kỷ XX.
Đi xa hơn nữa, Einstein còn chứng minh rằng năng lượng và vật chất (khối lượng) là hai mặt khác nhau của cùng một thục thể. Quan hệ giữa chúng được mô tả bằng một phương trình rất đơn giản nhưng lại cực kỳ lợi hại: E = mc2 (E là năng lượng được giải phóng khi vật chất bị hụt đi một khối lượng bằng m, c là tốc độ ánh sáng). Đây chính là nguồn gốc của năng lượng nguyên tử, và đau đớn thay (như sau này ông tùng than thở) của cả bom nguyên tử nữa!



Ngay từ năm 1907, ông đã nhận thấy Thuyết tương đối hẹp của mình tuy phù hợp với các định luật Điện - Từ trường (đã được xác lập một cách hoàn chỉnh), nhưng không tương thích với Định luật Trọng trường của Newton (đã được xác lập một cách còn có vẻ như hoàn chỉnh hơn!). Định luật Newton đã dẫn đến kết quả là: nếu ta thay đổi sự phân bố vật chất ở một vùng nào đó trong không gian thì trọng trường trong toàn bộ Vũ trụ tức thời thay đổi. Có nghĩa là về nguyên tắc có thể truyền tín hiệu với vận tốc lớn hơn vận tốc ánh sáng, và hơn thế nữa, thời gian là tuyệt đối. Điều đó mâu thuẫn với Thuyết tương đối hẹp. Để khắc phục mâu thuẫn này, Einstein đã lập luận rằng, ắt phải có một mối liên hệ nào đó giũa trọng trường và chuyển động gia tốc. Mối liên hệ đó được ông -mô tả bằng sự uốn cong của không- thời gian bốn chiều (ba - chiều không gian và một chiều thời gian) dưới tác động gian) dưới tác động của khối lượng (năng lượng).



Đó chính là Thuyết tương đối tổng quát, khác với Thuyêt tương đối hẹp ở chỗ có sự hiện diện của trọng trường. Einstein đã công bố công trình đồ sộ này của mình vào năm 1916, có lẽ đó là đỉnh cao nhất trong cuộc đời sáng tạo của ông.
Từ đây cho đến khi qua đời, Einstein không làm được gì đáng kể hơn cho khoa học nữa, mặc dầu ông đã dồn tất cả tinh lực của mình cho niềm đam mê cuồng nhiệt: tìm hiểu chân lý khoa học về nguồn gốc vũ trụ. Cũng bắt đầu từ đây, cuộc sống riêng của ông gặp nhiều trắc trở, và như để bù lại , tiếng tăm của ông càng ngày càng nổi như sóng cồn.
Tình duyên lỡ dở với người bạn gái thông minh cùng lớp, cùng mê say cả vật lý lẫn âm nhạc là bi kịch nặng nề của đời ông. Sau khi đứa con ngoài pháp luật của họ chết ngay sau khi ra đời. Einstein vẫn cưới người yêu của mình mặc cho gia đình phản đối. Họ đã chia tay nhau sau một thời gian ngắn, rồi lại chung sống, để rồi lại vĩnh viên chia tay vào năm 1919. Khi chia tay, Einstein hứa dành tiền thưởng của giải Nobel, mà ông tin chắc là sẽ có được, cho vợ và hai người con trai của họ. Hai năm sau, khi nhận giải thưởng, ông đã làm đúng như điều đã hứa.



Trong khoa học, Einstein cũng không còn may mắn nữa. Ông đã tự mình làm hồng phần nào vẻ đẹp toàn bích của Thuyết tương đối tổng quát bằng cách thêm vào phương trình nguyên thuỷ "hằng số vũ trụ” một cách vô căn cứ hòng chứng minh vũ trụ là "vô thủy vô chung" (như mọi người, kể cả ông, tưởng thế!). Giá như ông không “bịa" ra cái hằng số quái quỷ ấy, thì phương trình của ông đã mô tả đúng: Vũ trụ đang nở sau một vụ nổ lớn Bia Bang, đúng như mô hình chuẩn của vũ trụ mà ngày nay được coi là gần với hiện thực nhất. Trong lúc cả gan “bịa" ra "hằng số vũ trụ” thì Einstein lại không thể nào chấp nhận nổi sự mập mờ “bất khả trị” của cơ học lượng tử (xin xem bài “Bohr chưa hắn đã sai” của tác giả, Tạp chí Tia Sáng số 6/1999). Nhiều lần trong khi tranh luận với Bohr, người bênh vực một cách không nhân nhượng hệ thức bất định Heisenberg, Einstein cứ lúc lắc cái đầu to với mớ tóc bù xù và lẩm bẩm: “Thượng đế không chơi trò xúc xắc!". Có lần Bohr nổi giận, vặc lại: “Thôi đi  Einstein , đừng bảo Thượng đế phái làm gì ?” Điều đó đã giày vò Einstein suốt đời, đến nỗi trước khi mất một năm, năm 1954, ông còn than vãn: "Tôi chắc giống như con đà điểu, rúc đầu mãi vào đông cát thấy con quỷ “tương đối” để khỏi phải tìm thấy con quỷ “Lượng tử” . Khốn thay trong đống cát 'Tương đối" ấy ông càng trở nên bất hạnh hơn: suốt ba mươi năm cuối đời ông đã sa lầy vào cái "bẫy" Lý thuyết trường thống nhất (chứa đựng cả điện - từ trường và trọng trường) mà không sao thoát ra được. Ngày nay, Lý thuyết trường thống nhất vẫn còn là giấc mơ xa vời của các nhà vật.
Trong những năm 20, Einstein đã sống trong hoàn cảnh bị kìm kẹp bởi chủ nghĩa bài Do thái của Đức quốc xã, nhất là sau khi ông cùng ba nhà khoa học Đức khác, ông sang Mỹ năm 1933 và làm việc cho đến cuối đời tại Viện nghiên cứu cao cấp ở Princeton N.Y.

Viện Princeton .
Trong suốt 20 năm, Einstein là linh hồn của Viện này. Với tính tình bộc trực, hồn nhiên, giản dị là vô cùng hóm hỉnh, ông à bạn của mọi người trong thành phố, tù các nhà khoa lọc lớn đến các cháu nhỏ da mầu con của các gia đình lao động nghèo. Chuyện kề rằng, khi ông tới Princeton, có người hỏi: “Sao ông không thay cái áo măng tô này đi ? Nó sờn cũ rồi". Ông trả lời: "Ôi dào! Ở đây có ai biết tôi là ai đâu mà lo!”. Mấy năm sau người ta vẫn thấy ông mặc chiếc áo đó, ông lại biện bạch: ( Vẽ ! ở đây ai người ta chê mà tôi, thay làm gì!". Tấm áo cũ kỹ ấy ấp ủ một tấm lòng vị tha và một trái tim nhân hậu. Với tấm lòng vị tha và trái tim nhân hậu ấy, Einstein đã trở thành một nhà hoạt động xã hội nhiệt thành và hơn thế nữa, một nhà hoạt động chính trị nhân văn cao độ.
Năm 1939, khi được biết Đức quốc xã âm mưu phát triển vũ khí nguyên tử, ông đã viết thư thúc giục Tổng thống F.D. Roosevelt phê duyệt đề án chế tạo bom nguyên tử của Mỹ. Thế nhưng, khi được biết hai quả bom nguyên tử đã rơi xuống Hiroshima và Nagasaki vào cuối Thế chiến thứ hai thì Einstein đã vô cùng hối hận. Ông thú nhận: "Có lẽ đó là sai lầm lớn nhất của đời tôi”.

Từ đó, ông đã trở thành một chiến sỹ hòa bình tích cực, ra sức chống chiến tranh phi nghĩa và chống phổ biến vũ khí nguyên tử. Tuy vậy chính trị “thực sự” thì Einstein không màng. Khi nhà nước Do thái được thành lập năm 1952, người ta ngỏ lời mới ông làm Tổng thống, ông từ chối với một quan điểm rất rõ ràng: "Chính trị là nhất thời, phương trình là vĩnh cửu”. Ít ra là về sau của lời tuyên bố ấy đã rất đúng: những phương trình của Thuyết tương đối tổng quát chắc chắn sẽ trường tồn cùng vũ trụ.
Ba năm sau đó, Einstein qua đời với sự bình tĩnh và thanh thản lạ thường. Ông nói với những người thân vây quanh giường bệnh: "Đừng bối rối thế! Ai mà chẳng phải chết một lần!". Trước đó ông đã từng viết: "Nỗi lo sợ về cái chết là nét phổ quát rất dễ thương của loài người. Đó là một trong những phương thức mà tạo hóa dùng để duy trì sự sống của muôn loài. Nhưng công bằng mà nói, nỗi lo sợ ấy thật là khó biện minh, bởi vì chẳng có rủi ro tai họa nào có thể xảy ra đối với một người đã chết”. Những người thực hiện di chúc đã đưa ông trở về với cát bụi bằng cách rắc nắm tro thi hài lòng ông vào thinh không. Họ đã không ngờ rằng, có một nhà bệnh lý học táo tợn dám cất giấu bộ não của Einstein và bảo quản cho đến tận ngày nay. Nhờ thế mà gần đây, các nhà khoa học Canađa mới có điều kiện thông báo rằng: thùy não dưới (trung tâm tư duy toán học và hình tượng không gian) của con người vĩ đại ấy lớn hơn nhiều so với bình thường.



Einstein đã vĩnh biệt chúng ta gần nửa thế kỷ rồi, nhưng tên tuổi và hình ảnh của ông sẽ mãi mãi sống cùng thời gian. Người đời sau sẽ vẫn cứ luôn luôn kinh ngạc trước trí tuệ siêu phàm của Einstein . Đồng thời, cũng sẽ mãi lưu truyền những câu cách ngôn hóm hỉnh mà lúc nào ông cũng có thể úng khẩu .một cách cũng dễ dàng tựa như làm toán vậy. Chẳng hạn: "Khoa học là một thứ tuyệt vời nếu như ta không phải kiếm sống bằng khoa học!”.



Nguồn

Chu Hảo, Tạp chí Tia Sáng

Theo http://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki/Albert_Einstein

 ------------------------------------------------------------------------------------------- 

 Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống. 

 Albert Einstein .

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH - 2013

CÂU  CHUYỆN GIÁNG SINH 2013 *\* .


                    



* Xem phim . 



** Lịch sử các Thánh ca Giáng Sinh .

Nguồn gốc của ca khúc Giáng Sinh nổi tiếng Silent Night là một bài thơ viết năm 1816 bởi linh mục người Áo tên là Joseph Mohr. Vào đêm Giáng sinh năm 1818 tại ngôi làng nhỏ tên là Oberndorf thuộc một vùng núi xa xôi và hẻo lánh ,  Joseph Mohr đã gửi bài thơ của Silent Night (Stille Nacht) cho bạn ông là Franz Xavier Gruber để phổ nhạc theo lời bài thơ này . Người ta cho rằng khi đó cây đàn organ tại nhà thờ Thánh Nicholas bị vỡ , vì vậy phần nhạc của Silent Night được hoàn thành được dành cho đàn guitar trong thời gian cho Thánh lễ nửa đêm . Silent Night là ca khúc Giáng Sinh nổi tiếng nhất mọi thời đại!




 Silent night, holy night
All is calm, all is bright
Round yon Virgin Mother and Child
Holy Infant so tender and mild
Sleep in heavenly peace
Sleep in heavenly peace

Silent night, holy night!
Shepherds quake at the sight
Glories stream from heaven afar
Heavenly hosts sing Alleluia!
Christ, the Saviour is born
Christ, the Saviour is born

Silent night, holy night
Son of God, love's pure light
Radiant beams from Thy holy face
With the dawn of redeeming grace
Jesus, Lord, at Thy birth
Jesus, Lord, at Thy birth "



---------------------------------------------------------------------------------------------
Tác phẩm The First Noel không rõ nguồn gốc nhưng thường được cho là xuất xứ từ Anh quốc vào thế kỷ thứ mười sáu. Có một quan niệm sai lầm rằng The First Noel là bản tiếng Pháp và người ta tin rằng điều này là do phát âm Noel bằng tiếng Pháp trái ngược với tiếng Anh cổ Anglo-Saxon của từ Nowell. Sau khi nước Anh đã bị sáp nhập bởi người Norman rất nhiều từ tiếng Anh đã có liên hệ với tiếng Pháp-Norman và Noel đã được phát âm lại thành Nowell, phiên bản in đầu tiên của Thánh ca này sử dụng từ Nowell. The First Noel được xuất bản lần đầu vào năm 1833 khi nó xuất hiện trong cuốn "Thánh ca Giáng sinh cổ và hiện đại", là một tuyển tập các bài hát mừng được William B. Sandys thu thập và chọn lọc .





The first Noël
The angel did say
Was to certain poor shepherds
In fields as they lay

In fields where they
Lay keeping their sheep
On a cold winter's night
That was so deep

Noël, Noël, Noël, Noël
Born is the King of Israel

They looked, they looked up
And they saw a star
Shining in the east
Beyond them far

And to the earth it gave great light
So it continued both day and night

Noël, Noël, Noël, Noël
Born is the King of Israel
Noël, Noël, Noël, Noël
Born is the King, born is the King, born is the King of Israel


---------------------------------------------------------------------------------------------


Những từ ngữ và lời nhạc của Thánh ca cổ 'O Holy Night'  được Placide Cappeau de Roquemaure viết vào năm 1847. Cappeau bản thân là một người thương gia chuyên buôn bán rượu nhưng được linh mục giáo xứ yêu cầu viết một bài thơ cho Giáng sinh. Ông có nhiệm vụ viết ra những ca từ đẹp cho các bài hát phục vụ Thánh lễ  . Sau đó Cappeau nhận ra sự cần thiết phải có âm nhạc để phổ những ca từ này , ông đã gặp người bạn của mình là Adolphe Charles Adams (1803-1856). Ông đồng ý phổ nhạc cho các bài thơ vịnh vì thế 'O Holy Night'  được sáng tác bởi Adolphe Charles Adams . Adolphe cũng đã từng tham gia nhạc viện Paris và có một sự nghiệp rực rỡ như một nhà soạn nhạc.

Thánh ca 'O Holy Night'  đã được dịch sang tiếng Anh bởi John Sullivan Dwight (1812-1893).




O holy night! The stars are brightly shining,
It is the night of the dear Saviour's birth.
Long lay the world in sin and error pining.
Till He appeared and the Spirit felt its worth.
A thrill of hope the weary world rejoices,
For yonder breaks a new and glorious morn.
Fall on your knees! Oh, hear the angel voices!
O night divine, the night when Christ was born;
O night, O holy night, O night divine!
O night, O holy night, O night divine!

Led by the light of faith serenely beaming,
With glowing hearts by His cradle we stand.
O'er the world a star is sweetly gleaming,
Now come the wisemen from out of the Orient land.
The King of kings lay thus lowly manger;
In all our trials born to be our friends.
He knows our need, our weakness is no stranger,
Behold your King! Before him lowly bend!
Behold your King! Before him lowly bend!

Truly He taught us to love one another,
His law is love and His gospel is peace.
Chains he shall break, for the slave is our brother.
And in his name all oppression shall cease.
Sweet hymns of joy in grateful chorus raise we,
With all our hearts we praise His holy name.
Christ is the Lord! Then ever, ever praise we,
His power and glory ever more proclaim!
His power and glory ever more proclaim!


---------------------------------------------------------------------------------------------

Giám mục Phillips Brooks (1835-1903) giáo phận Philadelphia, viết  lời của Thánh ca O Little Town of Bethlehem vào năm 1868, sau một cuộc hành hương đến Đất Thánh Jerusalem . Phillips Brooks lấy cảm hứng từ cảnh quan xứ Bethlehem từ những ngọn đồi của Palestine , đặc biệt là vào ban đêm từ đó viết ra lời bài hát O Little Town of Bethlehem. Nhạc sĩ organ tại nhà thờ của ông là Lewis Redner (1831-1908) đã sáng tác giai điệu của bài hát O Little Town of Bethlehem cho dàn hợp xướng các em học sinh Trường chủ nhật .




O little town of Bethlehem
How still we see thee lie
Above thy deep and dreamless sleep
The silent stars go by
Yet in thy dark streets shineth
The everlasting Light
The hopes and fears of all the years
Are met in thee tonight

For Christ is born of Mary
And gathered all above
While mortals sleep, the angels keep
Their watch of wondering love
O morning stars together
Proclaim the holy birth
And praises sing to God the King
And Peace to men on earth

How silently, how silently
The wondrous gift is given!
So God imparts to human hearts
The blessings of His heaven.
No ear may hear His coming,
But in this world of sin,
Where meek souls will receive him still,
The dear Christ enters in.

O holy Child of Bethlehem
Descend to us, we pray
Cast out our sin and enter in
Be born to us today
We hear the Christmas angels
The great glad tidings tell
O come to us, abide with us
Our Lord Emmanuel



---------------------------------------------------------------------------------------------

Văn bản chính thức của Thánh ca 'Carol O Come All Ye Faithful ' ban đầu được viết bằng tiếng Latinh (có tựa là Adeste Fideles) và được dự định là một bài Thánh ca, được cho là của John Wade, một người Anh sáng tác . Giai điệu của O Come All Ye Faithful được sáng tác bởi người đồng hương Anh quốc John Reading vào đầu những năm 1700. Bản nhạc đã được xuất bản lần đầu trong một bộ sưu tập được gọi là "Cantus Diversi" năm 1751.

Năm 1841 Frederick Oakley được cho là đã thực hiện trên các bản dịch quen thuộc của O Come All Ye Faithful thay thế cho lời bài hát Latin cũ "Adeste Fideles".




O Come All Ye Faithful
Joyful and triumphant,
O come ye, O come ye to Bethlehem.
Come and behold Him,
Born the King of Angels;
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
Christ the Lord.

O Sing, choirs of angels,
Sing in exultation,
Sing all that hear in heaven God's holy word.
Give to our Father glory in the Highest;
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
Christ the Lord.

All Hail! Lord, we greet Thee,
Born this happy morning,
O Jesus! for evermore be Thy name adored.
Word of the Father, now in flesh appearing;
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
Christ the Lord.
















*** Tìm hiểu thêm về Lịch sử các Thánh ca Giáng Sinh .

Silent Night - Christmas Carol VideoThe 12 Twelve Days of Christmas - Song VideoJingle Bells - Christmas Song Video
We Wish You A Merry Christmas - Song VideoAway in a Manger - Christmas Carol Video
Deck the Halls - Christmas Carol VideoOnce in Royal David's CityO Come all Ye Faithful - Christmas Carol
Auld Lang SyneO Christmas TreeO Holy Night
The First Noel - Christmas CarolO Come, O Come, EmmanuelGod Rest Ye Merry Gentlemen
Ding Dong Merrily on High - Christmas CarolO Little Town of BethlehemGood Christian Men Rejoice
It came upon the Midnight ClearGoood King Wenceslas - Christmas CarolThe Holly and the Ivy
I Saw Three ShipsChristians awake Salute the Happy MornJoy to the World
Herewe come a-wassailingGo Tell it on the Mountain
Hark the Herald Angels Sing - Christmas CarolWhile Shepherds WatchedWe Three Kings of Orient are
Angels from the Realms of GloryHymn for Christmas DayOnce in Royal David's City
Rudolph the Reindeer storyAve MariaChristmas Facts
See Amid the Winters SnowA Boy is Born in BethlehemLove came down at Christmas
Christmas is ComingChristmas Jokes VideoXmas Bible Quiz
Its Christmas Day - Christmas Carol VideoAll Through the NightHere Is Joy For Every Age
Santa Claus PoemAdvent Game




**** Xem phim hoạt hình .


Truy cập các đường dẫn dưới đây .

 A C B Christmas - tập 1

 A C B Christmas - tập 2



Truy cập các đường dẫn dưới đây .

MCC - tập 1

MCC - tập 2








 ------------------------------------------------------------------------------------------- 

Hướng Chân Thiện Mỹ 
Độc lập tư duy 
Hoài nghi hợp lý 
Tự do sáng tạo .

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran