Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn nghiên cứu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn nghiên cứu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 11 tháng 2, 2015

7 thói quen của người có trí tuệ cảm xúc cao .


7 thói quen của người có trí tuệ cảm xúc cao

Trí tuệ cảm xúc đang ngày càng được đánh giá là một nhân tố quan trọng trong thành công và hạnh phúc của mỗi con người, không chỉ trong công việc mà còn trong các mối quan hệ và tất cả các mặt của cuộc sống. Vậy điều gì làm nên sự khác biệt của những người có trí tuệ cảm xúc cao? Sau đây là 7 thói quen của những người có trí tuệ cảm xúc cao:
Think-positive.jpg

Mục lục

 [ẩn]

1. Luôn tập trung vào mặt tích cực

Mặc dù vẫn ý thức được các tin xấu, những người có trí tuệ cảm xúc cao luôn có quyết định thông minh khi không dành quá nhiều thời gian và sức lực vào các vấn đề. Thay vào đó, họ tập trung nhìn vào mặt tích cực trong bất kỳ tình huống nào cũng như tìm kiếm các giải pháp cho vấn đề phát sinh. Những người như thế luôn tập trung vào những gì họ có thể làm được hay kiểm soát được.

2. Kết giao với những người suy nghĩ tích cực

Những người có trí tuệ cảm xúc cao không bao giờ dành quá nhiều thời gian lắng nghe những người hay phàn nàn cũng như có xu hướng tránh tiếp xúc với những người có suy nghĩ tiêu cực. Họ luôn ý thức được những người có suy nghĩ tiêu cực sẽ chỉ khiến họ phí phạm sức lực. Người có trí tuệ cảm xúc cao không để cho người khác làm chùn đi nhuệ khí của mình. Do người có trí tuệ cảm xúc cao luôn nhìn vào các giải pháp và các mặt tích cực trong mọi tình huống, những người có suy nghĩ tiêu cực sẽ sớm tránh xa họ vì những người tiêu cực chỉ muốn người khác cũng có suy nghĩ tiêu cực giống như họ.
Người có trí tuệ cảm xúc cao thường dành thời gian cho những người suy nghĩ tích cực và luôn nhìn vào mặt tươi sáng của cuộc sống. Bạn có thể dễ dàng nhận ra những người như thế vì học có xu hướng luôn tươi cười rất nhiều và thu hút những người tích cực khác. Sự ấm áp, cởi mở và thái độ quan tâm của họ khiến những người khác nhìn họ với ánh mắt tin tưởng hơn.

3. Biết giữ giới hạn và quả quyết khi cần

Mặc dù bản chất thân thiện và cởi mở khiến cho những người có trí tuệ cảm xúc cao có vẻ như dễ bị khuất phục đối với một số người khác, nhưng họ thực sự là những người luôn biết giữ giới hạn rất quả quyết với bản thân khi cần thiết. Họ luôn thể hiện thái độ lịch sự, lòng tốt và sự chu đáo nhưng đồng thời cũng rất cứng rắn.
Họ không bao giờ tạo nên những kẻ thù không cần thiết. Trong những tình huống có khả năng xảy ra xung đột, cách xử sự của họ luôn có chừng mực, không thái quá, và được kiểm soát ở mức thích hợp với tình huống đó. Họ luôn nghĩ trước khi nói và cho bản thân thời gian để bình tĩnh lại khi cảm xúc đang ở trạng thái kích động. Người có trí tuệ cảm xúc cao luôn biết cách bảo vệ thời gian cũng như các cam kết của mình. Họ biết khi nào thì cần phải nói không.

4. Luôn suy nghĩ hướng về tương lai và bỏ qua quá khứ

Người có trí tuệ cảm xúc cao quá bận rộn suy nghĩ về các cơ hội trong tương lai đến nỗi họ không có nhiều thời gian cho những thứ không hiệu quả trong quá khứ. Họ luôn học hỏi từ các thất bại trong quá khứ và áp dụng những kinh nghiệm này vào các hành động trong tương lai.

5. Luôn tìm cách làm cho cuộc sống trở nên vui vẻ, hạnh phúc và thú vị hơn

Dù cho là ở nơi làm việc, ở nhà hay với đi bạn bè, người có trí tuệ cảm xúc cao luôn biết điều gì làm họ cảm thấy hạnh phúc và luôn tìm cách để phát huy những điều ấy. Họ cảm thoải mái và mãn nguyện khi thấy những người khác hạnh phúc và thỏa mãn, và sẵn sàng làm mọi thứ có thể để đem lại cho người khác một ngày vui vẻ.

6. Sử dụng năng lượng một cách thông minh

Không chỉ biết cách vượt qua quá khứ khi mọi chuyện diễn ra không suôn sẻ, người có trí tuệ cảm xúc cao còn có khả năng vượt qua những mâu thuẫn với người khác. Họ không để sự tức giận về cách người khác đối xử với họ chế ngự bản thân. Thay vào đó, họ đúc rút kinh nghiệm để tránh không cho việc ấy xảy ra một lần nữa. Châm ngôn sống của họ là: “Nếu bạn lừa tôi một lần, đó là sự xấu hổ đối với bạn, đến lần thứ hai, đó là sự xấu hổ cho chính bản thân tôi”. Mặc dù luôn biết bỏ qua và tha thứ, họ không bao giờ quên và rất khó bị lợi dụng lần thứ hai trong những tình huống tương tự.

7. Không ngừng học hỏi và phát triển hướng đến sự độc lập

Người có trí tuệ cảm xúc cao là những người học hỏi suốt cuộc đời, phát triển liên tục, luôn tiến hóa và cởi mở với các ý tưởng mới, cũng như luôn sẵn sàng học từ những người khác. Là người suy nghĩ thấu đáo kỹ càng, họ luôn cởi mở và sẵn sàng thay đổi nếu ai đó có một ý kiến tốt hơn. Mặc dù họ luôn cởi mở với các ý tưởng từ người khác và không ngừng thu thập thông tin mới, người có trí tuệ cảm xúc rất tin tưởng ở bản thân và phán quyết của chính mình trong việc quyết định đâu là lựa chọn tốt nhất cho bản thân.
Tác giả: Harvey Deutschendorf – Chuyên gia về trí tuệ cảm xúc
Nguồn:


Nguồn :
http://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki/7_thoi_quen

-------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant.

 Victor Hugo.

Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014

THUYẾT VẠN VẬT - THEORY OF EVERYTHING . Phần 1.2



THUYẾT VẠN VẬT - 
THEORY OF EVERYTHING .

Phần 1.2 



Nguyên lý vị nhân  hay  có một nhà thiết kế vũ trụ ?

Nhà vật lý học Steven Weinberg rất nổi tiếng khi đã tuyên bố rằng "vũ trụ dường như càng dễ hiểu, càng có vẻ vô nghĩa hơn ". Theo người đoạt giải Nobel này, những gì các nhà vật lý được phát hiện thông qua khoa học là "một thế giới khách quan chi phối bởi định luật toán học mà không phải là đặc biệt quan tâm đến con người, trong đó con người xuất hiện như là một hiện tượng cơ hội."
Nhưng nếu Weinberg diễn giải "luật thiên nhiên" toán học là không có gì để làm việc đối với con người, thì những người khác lại có cách giải thích khác nhau. Một số ngày càng tăng các nhà vật lý thấy được những quy luật này rất là "tinh chỉnh" để cho phép có sự xuất hiện cuộc sống. Quan điểm này được gọi là "Nguyên lý vị nhân".

Tất cả ba của lực hấp dẫn, điện, và từ đều tuân theo "luật nghịch đảo bình phương" - đó là lực hấp dẫn hay đẩy giữa hai vật thể , tính bằng nghịch đảo của bình phương khoảng cách giữa chúng. [Lực tỉ lệ với
$1/d^2$] . Bây giờ sẽ xảy ra trường hợp nếu mối quan hệ lực-khoảng cách là bất kỳ điều gì khác hơn là một định luật nghịch đảo này khi đó hệ thống năng lượng mặt trời và các nguyên tử sẽ không ổn định .
Nếu lực hấp dẫn mạnh lên, hệ thống năng lượng mặt trời ổn định  không thể hình thành do các hành tinh sẽ nhanh chóng bị rơi theo đường xoắn ốc vào mặt trời. Tương tự như vậy, nếu các lực điện mạnh hơn , các nguyên tử ổn định không thể hình thành vì các điện tử sẽ bị cuốn theo đường xoắn ốc vào hạt nhân. Tương tự, nếu lực hấp dẫn yếu hơn , các hành tinh sẽ có xu hướng trôi dạt vào không gian và không quay trên quỹ đạo vốn có . Vì vậy, có vẻ như định luật nghịch đảo bình phương thật là đặc biệt bất ngờ. Nó không chỉ cho phép sự hình thành của các nguyên tử (mà rõ ràng là cần thiết cho sự phát triển của cuộc sống), mà còn cho phép sự hình thành của hệ thống năng lượng mặt trời để cung cấp cho sự sống .

Có thể thấy rằng vũ trụ có đầy đủ các ví dụ như thế , trong đó bản chất của một định luật vật lý, hoặc giá trị của các hằng số là rất quan trọng (chẳng hạn như tỷ lệ proton-electron ) lại có vẻ ngẫu nhiên. Bất kỳ sự thay đổi nào về các giá trị đó dường như sẽ ném các cấu trúc hoặc tính ổn định của vũ trụ rất đồng đều ra khỏi trật tự và rất khó để nhận thấy cuộc sống có thể tiến hóa trong một vũ trụ như vậy. Đối với các nhà vật lý như Barrow và Tipler, điều này ngụ ý rằng một cái gì đó đã cẩn thận "điều chỉnh" quy luật tự nhiên do đó cuộc sống sẽ tiến hóa. Còn theo các nhà khoa học khác , những định luật của tự nhiên mà Weinberg đã cho là hoàn toàn khách quan, thì họ cho rằng có sự hiện diện của một trí thông minh sâu sắc chu đáo hành động đằng sau hậu trường - một thực thể mà theo một số cảm giác "đã muốn"  những tạo vật như chúng ta phát triển.

Trần hồng Cơ

Ngày 28/11/2014 .



Đọc tài liệu trực tuyến 

http://www.hc10.eu/Theory_of_everything.pdf








Xem thêm về Hố đen .


 






Đường dẫn

1. http://www.hc10.eu/
2. http://en.wikipedia.org/wiki/Theory_of_everything
3. http://abyss.uoregon.edu/~js/21st_century_science/index.html
4. http://www.pnas.org/content/97/1/28.full.pdf
5. http://www.pnas.org/content/97/1
6. http://www.pbs.org/faithandreason/intro/purpotoe-frame.html
7. http://www.motionmountain.net/online.html





 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Chúng ta phải biết và chúng ta sẽ biết .

 David Hilbert .

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

THUYẾT VẠN VẬT - THEORY OF EVERYTHING . Phần 1.1


THUYẾT VẠN VẬT - 
THEORY OF EVERYTHING .

Phần 1.1


Chúng ta đã đạt đến một điểm đặc biệt trong lịch sử khoa học, đối với một số nhà vật lý tin rằng bây giờ họ đang ở trên bờ vực của việc có một lý thuyết duy nhất sẽ liên kết tất cả các khoa học của họ dưới chiếc ô toán học. Đặc biệt lý thuyết này sẽ thống nhất hai pháo đài lớn của vật lý trong thế kỷ XX - lý thuyết tương đối tổng quát và lý thuyết lượng tử. Từ thuyết tương đối tổng quát mô tả quy mô lớn, hay vũ trụ, cấu trúc của vũ trụ, và lý thuyết lượng tử mô tả  cấu trúc vi mô , hoặc hạ nguyên tử, sự thống nhất của các lý thuyết sẽ giải thích cả hai hiện tượng :  rất lớn và rất nhỏ. Lý thuyết này thường được gọi là một " thuyết vạn vật - TOE ( theory of everything )".


Đặc biệt lý thuyết này sẽ thống nhất sự hiểu biết của chúng ta về tất cả các lực vật lý cơ bản trong vũ trụ . Có bốn lực như vậy mà các nhà vật lý đã từng biết đến  :

1. Lực hấp dẫn (giữ hành tinh quay xung quanh mặt trời , và chịu trách nhiệm cho sự hình thành của các ngôi sao và thiên hà) .
2. Lực điện từ (đó là lực chịu trách nhiệm đối với ánh sáng, nhiệt, điện, và từ tính; và cũng có nhiệm vụ giữ nguyên tử với nhau) .
3. Lực hạt nhân yếu (hoạt động bên trong hạt nhân nguyên tử, và chịu trách nhiệm cho một số loại phân rã phóng xạ) .
4. Lực hạt nhân mạnh (giữ các proton và nơtron trong hạt nhân nguyên tử, và do đó rất quan trọng cho sự ổn định của vật chất). 


Bản đồ các lỗ rỗng và siêu thiên hà trong vòng 500 triệu năm ánh sáng từ thiên hà Milky 


Hiện nay các nhà vật lý đã có những lý thuyết riêng biệt cho mỗi  lực , nhưng họ muốn một lý thuyết thống nhất của tất cả các lực này . Mục tiêu đó đã phần nào được thực hiện và bây giờ có một lý thuyết trong đó hợp nhất hai trong số các lực  - lực điện từ và lực yếu - nhưng thống nhất tất cả bốn lực đang được thực tế chỉ ra là vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, hầu hết các nhà vật lý TOE tự tin rằng mục tiêu này sẽ được thực hiện trong vài thập kỷ tới.

Nhà Vật lý lý thuyết, Steven Weinberg, người đóng một vai trò quan trọng trong việc thống nhất các lực điện từ và yếu ( ông đã được trao giải thưởng Nobel cao quý, cùng với các đồng nghiệp Abdus Salam và Sheldon Glashow), đã từng gọi lý thuyết của tất cả bốn lực là "lý thuyết cuối cùng" . Khi các nhà vật lý tìm thấy lý thuyết này, ông và những người khác đã gợi ý,  vật lý sẽ có hiệu quả tối ưu và đạt đến sự kết thúc của nó. Bấy giờ toàn bộ vũ trụ vật chất sẽ được bao phủ bởi một tập hợp các phương trình - hoặc có lẽ chỉ là một phương trình. Nhưng câu hỏi ấy vẫn còn nguyên và chưa có lời giải đáp , các phương trình đó nghĩa là gì?


Trần hồng Cơ

Ngày 28/11/2014 .



-----------

Đọc tài liệu trực tuyến 

http://www.hc10.eu/Theory_of_everything.pdf













---------

Đường dẫn

1. http://www.hc10.eu/
2. http://en.wikipedia.org/wiki/Theory_of_everything
3. http://abyss.uoregon.edu/~js/21st_century_science/index.html
4. http://www.pnas.org/content/97/1/28.full.pdf
5. http://www.pnas.org/content/97/1
6. http://www.pbs.org/faithandreason/intro/purpotoe-frame.html
7. http://www.motionmountain.net/online.html



------------------------------------------------------------------------------------------- 

 Chúng ta phải biết và chúng ta sẽ biết . 

 David Hilbert .

Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013

Nguồn gốc văn minh nhân loại - Phần 1 .

NGUỒN GỐC VĂN MINH NHÂN LOẠI .





PHẦN 1 .
Từ những manh mối nhỏ về di chỉ 26, do nhà khảo cổ học Winkle để lại trong những ghi chép của mình, nhóm chuyên gia khảo cổ do David M.Rohl dẫn đầu, đã lần theo dấu vết và phát hiện những điều thú vị. Dựa trên những khám phá này, David M.Rohl đã dựng nên bức tranh về sự hình thành và phát triển của nền văn minh thế giới cổ đại từ dấu tích vườn EDEN – vùng đất các vị thần được ghi chép trong Kinh Thánh – cho đến những dấu tích rực rỡ của văn minh Ai Cập cổ đại. Với ngôn ngữ mô tả đặc sắc, “Nguồn gốc văn minh nhân loại” như một bộ phim lịch sử sống động được trình chiếu có lớp lang cho người đọc theo dõi từ mốc điểm khởi nguyên của một quá khứ kỳ bí, hấp dẫn đến những chuỗi dài biến động như để giải thích rõ ràng và đầy đủ hơn về nguồn gốc sự phát triển của thế giới nhân loại ngày nay.

Mục lục:
 Lời nói đầu Dẫn nhập 
Phần 1: Từ sương mù của thời gian 

Chương 1: Cuộc tìm kiếm vườn địa đàng
Chương 2: Đất ARATTA 

Phần 2: Những anh hùng vĩ đại 
Chương 3: Cuộc di cư vĩ đại 
Chương 4: Đại hồng thuỷ 
Chương 5: Định niên đại hồng thuỷ 
Chương 6: Những người tiền hồng thuỷ 
Chương 7: Bên kia thời đại hoàng kim 
Chương 8: Thiên đường tìm lại 

Phần 3: Những tín đồ của HORUS 

Chương 9: Những con thuyền của sa mạc 
Chương 10: Chủng tộc triều đại 
Chương 11: Những nhà sáng lập 
Chương 12: Cầu thang lên trời 
Chương 13: Đảo ngọn lửa 
Chương 14: Sáng thế 

Phần 4: Tham khảo 
Phụ lục A: Tân niên đại học dành cho Ai Cập thuộc thời kỳ sớm 
Phụ lục B: Chiến dịch năm 8 của Sargon 
Phụ lục C: Tân niên đại của MESOPOTAMIA.




Nguồn :  http://truyen.enterplus.org/doc-truyen-audio/Nguon-Goc-Van-Minh-Nhan-Loai-79.html#.Uaa3QNJHJMg#ixzz2Ujrl07Gm



Bài  1 .


Bài  2 .



Bài  3 .


Bài  4 .


Bài  5 .





------------------------------------------------------------------------------------------- 
 Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic. 
 Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
 Albert Einstein .


Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012

Tư duy phản biện

Tư duy phản biện




( Tuổi Trẻ – Thứ ba, ngày 13 tháng mười một năm 2012 )


AT - Đó là một trong những kỹ năng quan trọng quyết định bạn có thành công hay không. Thế nhưng với nhiều người, đây vẫn là một khái niệm khá mới mẻ.

Bạn hiểu gì về tư duy phản biện?

Đó là khả năng suy nghĩ một cách rõ ràng và hợp lý. Tư duy phản biện bao gồm các khả năng phản xạ và suy nghĩ độc lập. Một người có kỹ năng tư duy phản biện thường:

1. Hiểu được kết nối logic giữa những ý tưởng.

2. Xác định, xây dựng và đánh giá các lập luận.

3. Phát hiện các mâu thuẫn và sai lầm phổ biến trong lập luận.

4. Giải quyết vấn đề một cách hệ thống.

5. Nhận ra sự liên quan và tầm quan trọng của các ý tưởng.

6. Phản xạ biện minh về niềm tin và giá trị của ai đó.

Tư duy phản biện không phải là vấn đề tích lũy thông tin. Một người với trí nhớ tốt và hiểu biết nhiều không có nghĩa giỏi tư duy phản biện. Người có tư duy phản biện có thể suy luận những hệ quả từ những gì mình biết. Họ biết cách sử dụng thông tin để giải quyết vấn đề và tìm kiếm thêm các nguồn tin liên quan hữu ích.

Tư duy phản biện không nên nhầm lẫn với tranh cãi hay phê phán người khác. Mặc dù các kỹ năng của tư duy phản biện có thể được sử dụng trong việc phơi bày những ngụy biện và lý luận xấu.

Tư duy phản biện đóng vai trò quan trọng trong lập luận mang tính xây dựng. Nó giúp bạn có thêm kiến thức và thúc đẩy những tranh luận. Với tư duy phản biện, bạn có thể đẩy mạnh tiến trình công việc và nâng cao vị thế xã hội.

Một số người cho rằng tư duy phản biện cản trở sự sáng tạo. Bởi nó yêu cầu phải tuân theo những nguyên tắc logic và hợp lý, còn sáng tạo thì phải phá vỡ nguyên tắc. Đó là một nhận thức sai lầm. Trái lại, tư duy phản biện là một phần thiết yếu của sự sáng tạo. Nó khá gần với tư duy vượt giới hạn (out of the box) và theo đuổi cách tiếp cận ít phổ biến. Với tư duy phản biện, bạn có thể đánh giá và cải thiện những ý tưởng sáng tạo của mình.

Để có tư duy phản biện

1. Xác định vấn đề mà bạn đang cố gắng giải quyết. Phải chắc chắn rằng bạn nhìn vấn đề một cách cởi mở, khách quan. Hãy nhận ra những thành kiến của bạn và đặt sang một bên.

2. Xây dựng giả thuyết, phác thảo và động não những giải pháp khác có thể. Vạch ra những ưu khuyết điểm của mỗi giải pháp. Tư duy phản biện kéo theo việc mở ra những ý tưởng mới.

3. Thu thập thông tin về các vấn đề, bao gồm cả thông tin hỗ trợ và mâu thuẫn với lập trường của bạn. Bạn cần tất cả các dữ kiện để thực hiện một quyết định thông minh không thiên vị.

4. Phân tích tất cả các dữ kiện thu thập và phân tích từng phần của vấn đề. Đừng thừa nhận bất cứ điều gì. Hãy nhìn vào sự thật khách quan để xem xét nguồn gốc của thông tin và hiện trạng của nó.

5. Đánh giá thông tin. Đặt câu hỏi cho mỗi câu trả lời mà bạn tìm thấy. Hãy chắc chắn rằng những nguồn tin là đáng tin cậy. Bạn phải thấy được những định kiến của người cung cấp thông tin.

6. Xác định một kết luận hợp lý dựa trên tất cả các dữ kiện. Đặt câu hỏi để phân tích kết luận và đưa ra quyết định.

7. Hãy chắc chắn rằng những cơ sở lập luận của bạn là hợp lý và không thừa nhận bất cứ điều gì không có bằng chứng. Bạn có thể cho rằng A là nguyên nhân của B nhưng một thực tế thứ ba là C mới là nguyên nhân. Hãy sử dụng số liệu thống kê như một bằng chứng.


PHƯƠNG MAI (Theo Philosophy và Ehow)




Tư duy phản biện và tư duy tích cực

Người gửi: Chuongaz -- 21/01/2009 10:03 PM

( Bình chọn: 9 -- Thảo luận: 5 -- Số lần đọc: 6008)

Giả sử bạn đang ngồi làm việc bên máy tính xách tay (laptop) và bên cạnh bạn có một ly nước uống được. Bạn chỉ cần chuyển tay góc 30 độ, không cần với, là sẽ được uống nước mát.

Tư duy tích cực giúp tôi nhận thấy bạn là người rất chu đáo, làm việc khoa học, biết chăm sóc bản thân. Hẳn sau này bạn sẽ là người rất biết chăm lo cho gia đình.

Tư duy phản biện giúp tôi nhận thấy bạn là người lười vận động, cẩu thả và chẳng biết an nguy cho cái máy tính quý giá ngần ấy. Hẳn sau này bạn sẽ phải cố gắng nhiều hơn nữa để thực sự biết chăm lo cho bản thân và người thân.

Tư duy tích cực lại giúp tôi khuyên bạn nên để bên trong phòng bạn, có thể là trước mặt bạn, một chai La Vie nhỏ chứa đấy nước mát và được vặn chặt nắp. Mỗi khi bạn thấy thích, hoặc cần, uống nước, bạn chỉ cần đứng dậy, đi lại 3 bước, đứng thẳng, cầm cả chai mà giải khát. Hoặc bạn có thể cầm chai đó ra gần cửa sổ thoáng mát mà uống nữa.

Với bất kì sự vật, hiện tượng hay cả con người nào mà ta tiếp xúc hàng ngày, tự thân họ cũng có những điểm mạnh và yếu, tích cực và hạn chế. Tư duy tích cực giúp ta hiểu được mặt tốt của họ mà hợp tác và học hỏi từ họ. Tư duy phản biện giúp ta nhìn thấy mặt hạn chế. Tư duy tích cực lại lần nữa giúp ta tìm được cách khắc phục hạn chế để làm sao có lợi cho ta nhất mà đối tác khác cũng lợi ít nhiều.

Bạn có thể tham khảo thêm năng lực sáng tạo và tự làm mới bản thân.

Chúc vui, khỏe.



© www.saga.vn





Phương pháp giảng dạy

Có thể dạy tư duy phản biện?


Kỹ năng tư duy phản biện rất cần thiết trong phương pháp đào tạo ngày nay. Học các kỹ năng đọc, viết, hay số học là chưa đủ. Điều quan trọng là họ phải biết cách tự đặt vấn đề, đánh giá, nghiên cứu và giải quyết vấn đề.
Chỉ khi đó học viên mới có thể đạt được những thành quả thực sự cao trong học tập. Để dạy học viên cách tư duy phản biện, giáo viên cần phải kết hợp các phương pháp sau:


1. Suy nghĩ độc lập. Giáo viên có thể giúp học viên suy nghĩ độc lập bằng cách không phải lúc nào cũng đưa ra ngay câu trả lời. Thay vào đó, hãy để người học tự mình nghiên cứu và tìm ra phương án giải quyết trước khi đưa ra sự trợ giúp.



2. Học cách tổ chức. Một vấn đề có thể trở nên rất rối rắm và phức tạp nếu học viên không biết cách tổ chức. Giáo viên có thể làm mẫu các kỹ năng và cung cấp các tư liệu cần thiết để học sinh luyện tập cách tổ chức vấn đề cũng như phác thảo trình tự xử lý các công việc.



3. Suy diễn. Thay vì trông chờ vào những câu trả lời rõ ràng, học viên nên học cách tự mình suy diễn. Một phương pháp luyện tập kỹ năng suy diễn rất hiệu quả là cho học viên đọc các đoạn văn ngắn từ các tạp chí xuất bản định kỳ hay các ấn phẩm khác rồi yêu cầu phân tích ý nghĩa của mỗi đoạn.



4. Dự đoán kết quả. Khả năng dự đoán những tình huống có thể xảy ra cũng cần thiết không kém. Những câu hỏi mở có liên quan đến nhiều chủ đề có thể giúp học viên phát huy trí tưởng tượng và dự đoán kết quả hợp lý nhất.



5. Phân biệt luận cứ hợp lý và bất hợp lý. Có một sự khác nhau giữa các luận cứ hợp lý và bất hợp lý. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng dễ dàng phân biệt được. Đâu là các sự việc chứng minh được cho luận cứ? Đâu là luận cứ không có cơ sở bởi thiếu tính thuyết phục? Hãy đưa ra các đoạn văn bao gồm cả các luận cứ thuyết phục và không thuyết phục, và yêu cầu học viên phân biệt chúng.


6. Giải quyết vấn đề. Bằng cách đưa ra nhiều phương án giải quyết, giáo viên có thể giúp học viên tự mình nhìn nhận một vấn đề. Những vấn đề này có thể liên quan đến nhiều lĩnh vực chủ chốt. Cho phép học viên đủ thời gian để nghiên cứu mà không có sự trợ giúp nào cả trước khi chỉ dẫn cho họ.



7. Lập luận. Ngoài ra, để học viên nâng cao tư duy phản biện, giáo viên hãy khuyến khích học viên sử dụng các kỹ năng lập luận. Học viên sẽ học cách nghiên cứu bằng cách đưa ra các lý giải hợp lý cho câu trả lời. Có nhiều cách luyện tập kỹ năng này như các bài tập tìm hiểu lịch sử, các bài toán hóc búa, hay các bài văn chọn lọc.



8. Mở rộng vấn đề. Không chỉ bó hẹp trong nguồn tài liệu mà giáo viên cung cấp, học viên cũng cần học cách tự tìm những tư liệu mới để phục vụ cho đề tài. Từ đó, phát huy khả năng tự phân tích và đưa ra cách nhìn nhận riêng đối với mỗi đề tài và chủ đề được giao.

Như vậy, có thể nói tư duy phản biện có vai trò rất lớn trong việc học tập của học viên. Và kỹ năng này không phải ngày một ngày hai mà có được mà phải luyện tập trong một thời gian dài, đòi hỏi cả sự cố gắng và nỗ lực của cả giáo viên và học viên. Nếu có phương pháp hợp lý, tin rằng học viên sẽ tiến bộ nhanh chóng và sử dụng tư duy phản biện một cách sắc bén và hiệu quả.

Tố Tâm - Giảng viên Global Education



-------------------------------------------------------------------------------------------
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Albert Einstein .


Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2012

NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC.

AUGUSTE  COMTE  

VÀ NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC .




Triết học phương Tây
Triết học thế kỷ 19
Auguste Comte.jpg
Tên:Isidore Auguste Marie François Xavier Comte
Sinh:17 tháng 1 năm 1798
Cờ của Pháp MontpellierPháp
Mất:5 tháng 91857
Cờ của Pháp ParisPháp
Trường phái:Sociology
Positivism
Ảnh hưởng bởi:Adam Smith,Jean-Baptiste SayWilliam RobertsonDavid HumeMarie Antoine CondorcetJean-Jacques Rosseau
Ảnh hưởng tới:Karl MarxMichel Houellebecq




Auguste Comte (tên đầy đủ: Isidore Auguste Marie François Xavier Comte; 17 tháng 1 năm 1798 – 5 tháng 9 năm 1857) là một nhà tư tưởng Pháp, nhà lý thuyết xã hội, người tạo ra ngành xã hội học, nhà thực chứng luận đã đưa ra thuật ngữ "Xã hội học" ("Sociology"). Ông đã đóng góp không nhỏ vào lĩnh vực xã hội học của thế giới, những đóng góp của ông về mặt lý thuyết như quan niệm về xã hội học xem xã hội học là khoa học nghiên cứu các tổ chức xã hội. Quan điểm nhìn nhận về xã hội và cấu trúc xã hội bao gồm: bộ phận, thành tố, quan hệ, sắp xếp theo trật tự nhất định. Ông xem xã hội là một hệ thống có cấu trúc, cá nhân, gia đình và các tổ chức xã hội.


Tiểu sử

Auguste Comte sinh ra tại Montpellier trong một gia đình Gia tô giáo và theo xu hướng quân chủ, ở tây nam nước Pháp; nhưng ông đã trở thành một người có tư tưởng tự do và cách mạng rất sớm. Năm 1814, Sau khi học xong phổ thông, ông trúng tuyển vào Trường Bách khoa Paris. Đây là ngôi trường nổi tiếng với những đào tạo chuyên sâu về Chủ nghĩa cộng hòa và tiến bộ. Khi trường này đóng cửa vào năm 1816 để tái tổ chức, Comte rời trường và tiếp tục học tại trường Y ở Montpellier. Khi trường Bách khoa mở lại ông cũng không xin quay lại học.
Sau khi trở về Montpellier, Comte nhận ra sự khác biệt với gia đình và quyết định trở lại Paris, ông kiếm sống bằng nhiều việc vụn vặt. Tháng 8 năm 1817 Comte trở thành học sinh và thư kí cho Claude Henri de Rouvroy, Comte de Saint-Simon, những người đã đưa ông tiếp xúc với giới tri thức. Chính trong thời gian này Comte đã cho xuất bản những tiểu luận trong rất nhiều ấn bản đỡ đầu bởi Saint-Simon, L'Industrie, Le Politique, Le Censeur Européen và L'Organisateur, dù không xuất bản dưới tên riêng cho tới tận tác phẩm "La séparation générale des entre les opinions et les désirs" năm 1819. Năm 1824, Comte tách khỏi Saint-Simon do có những khác biệt không thể dung hòa.
Comte sau đó đã nhận ra những gì ông muốn làm - đó là tiếp tục nghiên cứu thuyết thực chứng. Ông cho xuất bản Plan de travaux scientifiques nécessaires pour réorganiser la société (1822), dù vậy ông vẫn không nhận được một công việc ổn định, cuộc sống của Comte phải dựa vào tiền hỗ trợ từ bạn bè. Năm 1926, ông bắt đầu giảng giáo trình triết học thực chứng.
Ông kết hôn với Caroline Massin, nhưng ly hôn vào năm 1842. Năm 1826 Comte được đưa tới bệnh viện thần kinh nhưng rời viện trong tình trạng chưa được chữa trị vì ông muốn tiếp tục công việc dang dở . Trong khoảng thời gian này cho tới khi ly hôn, Comte cho xuất bản sáu tập của Cours.

Thứ Hai, 23 tháng 7, 2012

Bất biến gauge - Gauge invariance 3

Bất biến gauge -  Gauge invariance .

Trần hồng Cơ .
Ngày 15 tháng 7 năm 2012 .
Dịch , tổng hợp biên soạn và tham khảo tài liệu từ các nguồn 

1. Wikipedia .
2. The Encyclopedia of Science .
3. http://science-documentaries.com/ .
4. http://www.newscientist.com/ .
5. SCholarpedia .

4. Điều chỉnh chuẩn (gauge) trong các lý thuyết gauge cổ điển .

Trong cơ chế điện từ cổ điển, vấn đề điều chỉnh gauge chỉ đơn giản là bài toán lựa chọn một biểu diễn trong lớp của các thế tương đương, thuận tiện cho các tính toán thực tế hoặc phù hợp với trực giác vật lý.

Trong số các chuẩn thông thường phi- tương đốita có thể trích dẫn ((Jackson, 2000) để biết thêm chi tiết):
 




Và các bất biến chuẩn gauge tương đối tính như sau



Lưu ý rằng, một số trong những điều kiện này không  sửa chữa được các biểu diễn trường một cách hoàn toàn. Các hình thức và ý nghĩa của bất biến thặng dư phụ thuộc vào chuẩn đã được điều chỉnh. Cuối cùng, các chuẩn này những điểm khái quát đơn giản đối với trạng thái phi- Abel.



5. Điện động lực lượng tử .

 Trong Điện động lực học lượng tử (QED), thời gian tiến hóa có thể được đạo hàm từ một tích phân trên các trường , một sự tổng quát hóa đơn giản của các tích phân đường của cơ học lượng tử phi-tương đối tính .

5.1  Trường gauge liên kết với một dòng bảo toàn

Tương tự với cơ học lượng tử phi- tương đối tính , người ta hy vọng các toán tử thời gian tiến hóa được đưa ra bởi một tích phân đối với tất cả các trường cổ điển:

trong đó các tác động được cho bởi (34) (33). Tuy nhiên căn cứ theo bất biến gauge của nó , các tác động chỉ phụ thuộc vào 3 ( trong 4 )  bậc tự do của trường gauge  và vì thế tích phân trên toàn không gian của trường gauge là không xác định . Để giải bài toán này cần phải điều chỉnh chuẩn ( xem phần điều chỉnh chuẩn cổ điển và điều chỉnh chuẩn lượng tử ) . Sự điều chỉnh gauge có thể đạt được bằng cách hạn chế việc tích phân trên các trường có bộ phận gauge đã được sửa chữa bởi ràng buộc  G(A,x)= 0 , hoặc tổng quát hơn bằng cách điều chỉnh G(A,x)= s(x)  và bằng cách tích phân trên s(x) với một phân bố trường Gauss . Phương pháp thứ hai dẫn tới việc bổ sung tác động của phần đóng góp bất biến phi-gauge

Việc chọn lựa hiệp biến tương đối tính
 cho ta chuẩn Landau
Giá trị đặc biệt ξ=1 in (35) tương ứng với cái ta gọi là chuẩn Feymann.
Lý thuyết trường lượng tử được xây dựng bởi thủ tục này không đáp ứng một cách rõ ràng yêu cầu về tính đơn nhất (unitarity )  (việc này liên quan đến sự bảo toàn của xác suất) dường như phụ thuộc vào hàm điều chỉnh gauge các tham số ξ. Các đồng nhất thức Ward- Takahashi, -một tập hợp các mối quan hệ giữa các hàm Green -, cho phép chứng minh rằng các quan sát vật lý không phụ thuộc vào các lựa chọn cụ thể (một tính chất gọi là độc lập đo trong bối cảnh này) và cũng có thể đáp ứng tính đơn nhất unitarity.


5.2  Trường vật chất tích điện .

Trong lý thuyết trường địa phương , tác động có tính địa phương , nghĩa là , nó là một tích phân không -thời gian của phiếm hàm mật độ Lagrange , là hàm của các trường và các đạo hàm của nó . 
 Để xây dựng tác động địa phương bất biến gauge mô tả tương tác của vật chất với trường gauge Aμ(x ,  chúng ta bắt đầu từ một tác động cho trường vật chất tích điện là trường có tính địa phương và bất biến dưới phép biến đổi toàn cục U(1).   
Như một ví dụ về vật chất , ta xét những hạt fermion spin 1/2 tự do  có điện tích 
eχ  và khối lượng  m . Những trường sau đó sẽ là 4-thành phần liên hợp phức phản giao hoán ( 4-component conjugate complex anticommuting ) (i.e., thuộc về đại số Grassmann ) gồm các  vectors χ và  χˉ ( được gọi là spinors).Hàm mật độ Lagrange được viết :
Tác động

bất biến dưới phép biến đổi toàn cục U(1).   


tron đó  Ω là hằng số không-thời gian độc lập .Theo định lý Noether (1918), bất biến này kéo theo ( theo cổ điển ) sự tồn tại một dòng bảo toàn và điện tích bảo toàn .
Bất biến gauge đòi hỏi tính bất biến của tác động mới dưới những phép biến đổi nhóm địa phương thu được bằng cách thay thế Ω,U trong (37) bằng các hàm không thời gian Ω(x),U(x) . Điều này đạt được bằng cách thay thế , trong phiếm hàm vật chất Lagrange (36) ,  μ  bằng đạo hàm hiệp biến ( covariant derivative )

là cái sẽ biến đổi theo sự tổng quát hóa 4-chiều của phương trình (21) như sau

Cũng cần lưu ý rằng
Tiến hóa lượng tử của toàn hệ thống (vật chất và trường gauge ) sau đó được đưa ra bởi tích phân trường


6. Lý thuyết gauge phi-Abel  ( Non-Abelian gauge theories ) .

 Để phù hợp với việc sử dụng tiêu chuẩn, trong phần này chúng tôi sử dụng hệ đơn vị SI được ràng buộc bởi yêu cầu = c = 1.

6.1 Lý thuyết trường cổ điển .

 Yang Mills (1954) đã tổng quát hóa cấu trúc của điện động lực học lượng tử với một trạng thái  mà trong đó nhóm U (1) chuẩn Abel được thay thế bởi một số nhóm Lie phi-Abel của các N × N ma trận unitar .

Việc xây dựng một tác động bất biến gauge mô tả sự tương tác của các trường gauge phi- Abel với các trường vật chất như sau .

Điểm khởi đầu là hàm mật độ vật chất
Lagrange bất biến theo biến đổi toàn cục ( tức là, độc lập với không -thời gian ) thuộc nhóm G . Ví dụ , ta giả sử rằng trường vật chất ϕ(x)

tạo ra các vector phức biến đổi  
Ta có thể giả thiết thêm hàm mật độ   
 được bảo toàn qua phép biến đổi toàn cục , nghĩa là 










Mục đích là để thúc đẩy tính bất biến toàn cục (38) của tác động đến tính bất biến theo phép biến đổi của địa phương:





Một lần nữa vấn đề lại phát sinh với các đạo hàm trường . Như trong ví dụ về nhóm Abel, giải pháp là thay thế các đạo hàm bằng các đạo hàm hiệp biến. đây, các đạo hàm hiệp biến là các ma trận N × N  có dạng 
trong đó trường gauge Aμ (x) thuộc về các đại số Lie của nhóm G. ( không nên nhầm lẫn các trường gauge phi- Abel  với thế vector-3 chiều A (x) được sử dụng trong các phần trước.)
Theo định nghĩa đạo hàm hiệp biến Dμ là một tensor dưới phép biến đổi gauge tổng quát , đó là phép biến đổi tuyến tính sau

trong đó như một hệ quả , phép biến đổi gauge
 
 của trường gauge được cho bởi công thức

Phép biến đổi là tuyến tính trong trường hợp đặc biệt hằng số g(x)=g0 ( phép biến đổi toàn cục- global transformation), ngoại trừ trong trường hợp tổng quát là phép biến đổi affine. Từ tính chất (42) của đạo hàm hiệp biến suy ra  

, do đó, tác động vật chất bây giờ là bất biến gauge .
Nói chung, trường gauge
Aμ (x) có một diễn giải toán học như là một liên kết giá trị -Lie và được sử dụng để xây dựng các đạo hàm hiệp biến tác động trên các trường , là cái có dạng phụ thuộc vào các biểu diễn của các nhóm G, dưới các phép biến đổi trường (đối với biến đổi toàn cục ).

Các hoán tử của các
đạo hàm hiệp biến có dạng (41),
không còn là một toán tử vi phân tương ứng với độ cong của liên kết nữa là một tensor biến đổi gauge (tức là, nó đã biến đổi tuyến tính) như :


 Tensor cường độ trường  Fμν (x)  là một phần tử của đại số Lie  G.   Vì  Fμν (x)  một tensor, nên tác động địa phương đối với trường gauge 

sẽ là bất biến gauge . Khi g(x) tiến dần về đơn vị , nghĩa là
phép biến đổi (43) có dạng 
trong đó
( liên hệ với (41) )
trong đó Dμ trong  (46) đạo hàm hiệp biến tác động trên các trường thuộc về các đại số Lie của nhóm GĐiều này cho phép viết các phương trình trường tương ứng với tác động (45) dưới dạng 
Vì các tensor cường độ bậc hai trong trường gauge (44) tuyến tính trong đạo hàm hiệp biến (46), nên các phương trình trường là bậc 3 , cho thấy rằng các trường gauge phi- Abeltự tương tác, trái ngược lại với trường hợp Abel.

Trong cả hai trường hợp Abel phi-Abel, những quan sát vật lý có liên quan đến các đa thức bất biến trong các trường ( hoặc các toán tử gauge 
bất biến ).

6.1.1  Dạng thành phần ( Component form ) 


Một cơ sở sinh đại số Lie của một nhóm ma trận unitar có thể được chọn dưới dạng một tập hợp các ma trận ta  phản-Hermit cấp N × N  . Cả hai trường gauge và tensor cường độ trường đều có thể mở rộng trên một cơ sở như vậy :  
 Ta đưa ra các hằng số cấu trúc của đại số Lie 
 các thành phần của tensor có thể được viết rõ hơn như sau ( xem (44) )
  Việc xây dựng các trường gauge  Abel  của những phần trước đó có thể được phục hồi   ( đến các thừa số chuẩn hóa tầm thường ) đối với  
           












 
------------------------------------------------------------------------------------------- 
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
 Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas. 

Albert Einstein .

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran