Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn danh nhân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn danh nhân. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2016

PAUL MAURIAT - Sự nghiệp âm nhạc và di sản văn hóa Pháp .



PAUL MAURIAT  - Sự nghiệp âm nhạc và di sản văn hóa Pháp . 



 Nguồn   https://vi.wikipedia.org/wiki/Paul_Mauriat
Paul Mauriat (4 tháng 3, 1925 – 3 tháng 11, 2006) là một nhạc trưởng người Pháp.

Tiểu sử

Ông sinh tại Marseille, lớn lên ở thủ đô Paris, lúc bốn tuổi ông bắt đầu chơi nhạc và lúc mười tuổi đã ghi danh vào Nhạc viện Paris nhưng với thời gian vào năm mười bảy tuổi ông bắt đầu yêu thích nhạc jazz và nhạc phổ thông. Trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ 2, ông thành lập ban nhạc khiêu vũ và bắt đầu chỉ huy dàn nhạc của riêng ông lưu diễn khắp châu Âu. Trong thập kỷ 1950, ông trở thành giám đốc âm nhạc và đi lưu diễn với ít nhất hai ca sĩ nổi tiếng người Pháp là Charles Aznavour và Maurice Chevalier.

Người ta biết đến ông nhiều nhất sau khi bản phối khí L'Amour est bleu ("Love Is Blue") (do André Popp soạn) của ông năm 1968 đứng đầu bảng xếp hạng của Hoa Kỳ. Paul Mauriat cùng dàn nhạc của ông rất được yêu thích ở Nhật Bản và Hàn Quốc.

Paul Mauriat mất tại Perpignan, thọ 81 tuổi.



Sự nghiệp và giải thưởng

Ông được trao giải Grand Prix (giải thưởng lớn) từ ngành công nghiệp ghi âm Pháp. Năm 1997, ông giành giải Commandeur des Arts et des Lettres của Bộ Văn hóa Pháp. Ông đã bán được hơn 40 triệu album trên toàn thế giới và tổ chức 28 tour du lịch tại Nhật Bản 1969-1998.

Trong khoảng đầu đến giữa thập niên 1980, Paul Mauriat đã xuất hiện trong một số quảng cáo cà phê và rượu vang truyền hình Nhật Bản, trong đó đặc trưng âm nhạc từ dàn nhạc của mình.

Các đĩa nhạc của Paul Mauriat

    Paris by Night (1961)
    Plays Standards (1963)
    Paul Mauriat Joue pour les Enfants (1963)
    Album No 1 (1965)
    Russie De Toujours (1965)
    Album No 2 (1965)
    Album No 3 (1966)
    Prestige de Paris (1966)
    Album No 4 (1966)
    Bang, Bang (1966)
    Album No 5 (1967)
    Noëls (1967)
    Album No 6 (1967)
    Love Is Blue (1968)
    Latin Nights (1968)
    Mauriat Slows (1968)
    Rain and Tears (1968)
    Cent Mille Chansons (1968)
    Rythm and Blues (1968)
    Je T'aime...Moi Non Plus (1969)
    Un Jour, Un Enfant (1969)
    Vole, Vole, Farandole (1969)
    Paul Mauriat Joue Chopin (1970)
    C'est La Vie... Lily (1970)
    Gone is Love (1970)
    Comme J'ai Toujours Envie D'aimer (1970)
    Paloma Embriagada (1970)
    Un Banc, Un Arbre, Une Rue (1971)
    Mamy Blue (1971)
    Penelope (1971)
    El Condor Pasa (1971)
    Tombe La Neige (1971)
    Apres Toi (1972)
    L'Avventura (1972)
    Last Summer Day (1972)
    Paul Mauriat Joue Les Beatles (1972)

   

    Le Lac Majeur (1972)
    Forever and Ever (1973)
    Nous Irons à Vérone (1973)
    Last Tango In Paris (1973)
    Good bye, My Love, Good bye (1973)
    White Christmas (1973)
    Retalhos de Cetim (1974)
    Je Pense à Toi (1974)
    Le Premier Pas (1974)
    I Won't Last a Day Without You (1974)
    Have You Never Been Mellow? (1974)
    L'Été Indien (1975)
    Entre Dos Aguas (1975)
    The Best of Paul Mauriat - 10 Years with Philips (1975)
    From Souvenirs to Souvenirs (1975)
    Lili Marlene (1975)
    Love Sounds Journey (1976)
    Michelle (1976)
    Love Is Still Blue (1976)
    Il Était une Fois... Nous Deux (1976)
    Chanson D'amour (1977)
    C'est La Vie (1977)
    Hymne à l'Amour (1977)
    Brasil Exclusivamente (1977)
    L'Oiseau et l'Enfant (1977)
    Overseas Call (1978)
    Dans les Yeux d'Émilie (1978)
    Brasil Exclusivamente Vol.2 (1978)
    Too Much Heaven (1979)
    Nous (1979)
    Copacabana (1979)
    Aerosong (1980)
    Chromatic (1980)
    Brasil Exclusivamente Vol.3 (1980)
    Reality (1981)
    Roma dalla Finestra (1981)
    Pour Le Plaisir (1981)
    Je n'Pourrais Jamais t'Oublier (1981)

   

    Tout Pour Le Musique (1982)
    Magic (1982)
    I Love Breeze (1982)
    Descendant Of The Dragon (1982)
    Wild Spring (1983)
    Summer Has Flown (1983)
    Olive Tree (1984)
    Piano Ballade (1984)
    The Seven Seas (1984)
    Chromatic (1984)
    Transparence (1985)
    The Best of Paul Mauriat 2 - 20 Years with Philips (1985)
    Classics In The Air (1985)
    Windy (1986)
    Classics In The Air 2 (1986)
    Song For Taipei (1986)
    Classics In The Air 3 (1987)
    Nagekidori (1987)
    Best Of France (1988)
    The Paul Mauriat Story (1988)
    Serenade (1989)
    Iberia (1989)
    Remember (1990)
    You Don't Know Me (1990)
    Gold Concert (1990)
    Retrospective (1991)
    Nostal Jazz (1991)
    Emotions (1993)
    The Color Of The Lovers (1994)
    Now And Then (1994)
    Soundtracks (1995)
    Quartet For Kobe (1995)
    Escapades (1996)
    Cri D'amour (1996)
    30th Anniversary Concert (1996)
    Romantic (1997)
    Sayonara Concert (1998)
    I Will Follow Him (2000)
    All The Best (2003, In China)


http://paul-mauriat.com/biography.html























 -------------------------------------------------------------------------------------------
 Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic. 
 Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.

 Albert Einstein .

Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2015

Thomas Edison - Nhà phát minh lỗi lạc .


 Thomas Edison - Nhà phát minh lỗi lạc .


Thomas Edison holding his right hand to his right ear.
Thomas Edison smiling as he holds his hand to his ear.
Thomas Edison NHP Archives

Thomas Edison (1847 - 1931) nhà phát minh số một của Hoa Kỳ và thế giới

1. Thời thơ ấu
Vào khoảng tháng 12 năm 1837, Đại Úy William L. Mackenzie và các đồng chí trong đó có ông Samuel Edison, đã tổ chức một cuộc cách mạng, định đánh chiếm thành phố Toronto thuộc Gia Nã Đại nhưng mưu sự không thành. Để tránh sự lùng bắt, ông Samuel Edison phải trốn sang Michigan, Hoa Kỳ, rồi lưu lại Detroit vì thời bấy giờ, chính phủ Gia Nã Đại dự định lưu đầy các phạm nhân chính trị sang Tasmania, châu Úc.

Sau khi mang được gia đình gồm vợ và hai con sang Hoa Kỳ vào đầu năm 1839, ông Samuel Edison dời nhà tới Milan, thuộc tiểu bang Ohio. Milan là một thị trấn nhỏ bên giòng sông Huron, cách hồ Erie vài dặm đường. Tại Milan, công việc buôn bán khá sầm uất. Từ nơi đây người dân chở đi nào ngũ cốc, rau trái, nào củi gỗ và các nông sản khác. Ông Samuel Edison dựng nên tại nơi đây một xưởng cưa và công việc làm ăn khá phát đạt. Chính tại nơi cư ngụ mới này, gia đình Edison đã có thêm một đứa trẻ vào ngày 11/2/1847. Ông Samuel đặt tên cho đứa bé là Thomas Alva Edison để ghi nhớ Đại Úy Alva Bradley đã có công giúp đỡ gia đình Samuel sang Hoa Kỳ.

Alva hay Al, tên gọi tắt, là một đứa trẻ có cái đầu to khác thường khiến cho bác sĩ bảo cậu sẽ bị đau óc nhưng điều tiên đoán này đã trở thành sai lầm và thực ra, chính bộ óc của Al sau này đã làm tiến triển ngành Kỹ Thuật của Nhân Loại.

Càng lớn, Al càng tỏ ra hiếu kỳ. Cậu thường đặt các câu hỏi “tại sao, thế nào... “ và các câu thắc mắc không bao giờ hết của cậu đã khiến cho những người chung quanh đành phải trả lời “không biết”. Khi lên 5 tuổi, Al thường lang thang bên bờ sông mà coi người lớn làm việc. Tại nơi này, cậu được nghe nhiều bài hát và đã thuộc lòng rất nhanh các câu ca bình dân, điều này chứng tỏ Al có một trí nhớ rất tốt và nhờ trí nhớ này mà về sau, cậu thu thập được nhiều kiến thức sâu rộng.


Vào năm 1850, đường xe lửa được đặt tại nhiều nơi trên đất Hoa Kỳ. Tại Milan, các bô lão từ chối không cho phép đường sắt đi qua làng mình vì e ngại công việc làm trên sông bị tê liệt. Vì thế đường xe lửa chỉ được thiết lập tại phía bắc tiểu bang Ohio và cũng do vậy, thị trấn Milan trở nên kém sầm uất. Ông Samuel đành phải đóng xưởng cưa và dọn nhà qua Port Huron, thuộc tiểu bang Michigan vào năm 1854. Tại Port Huron, ông Samuel buôn bán ngũ cốc, củi gỗ và cũng trồng rau và trái cây. Năm lên 8 tuổi, Al từng giúp cha, chất rau trái lên một chiếc xe ngựa và đi bán hàng từng nhà trong thị xã.

Al cũng được cha mẹ cho đi học tại một ngôi trường độc nhất. Trường chỉ có một lớp với khoảng 40 học sinh, lớn có, nhỏ có, học một ông giáo theo các trình độ khác nhau. Trong phòng học những chỗ ngồi gần ông thầy chỉ để dành cho các trẻ em ngu đần. Tại lớp học, Al đặt rất nhiều câu hỏi hắc búa mà lại không chịu trả lời các câu hỏi của thầy. Al thường đội sổ, khiến cho các bạn cậu chế riễu cậu là đần độn.

Một hôm, nhân có viên thành tra vào thăm lớp học, thầy giáo đã chỉ vào Al và nói : “trò này điên khùng, không đáng ngồi học lâu hơn”. Al rất căm hận về hai chữ “điên khùng” và đem câu chuyện này kể lại với mẹ. Bà Nancy khi nghe kể xong, liền nổi giận, bà dẫn ngay Al đến trường và bảo ông giáo : “ông bảo con tôi điên khùng hả? Tôi nói thật cho ông rõ, trí óc của nó còn hơn ông đấy. Tôi sẽ giữ nó tại nhà và dạy lấy, vì tôi đã là giáo viên, để ông thấy rằng sau này nó sẽ ra sao!”.

Từ đó, Alva không đến trường nữa mà học với mẹ tại nhà trong suốt 6 năm trường. Nhờ mẹ, Al học dần các môn Lịch Sử của Hy Lạp, La Mã và Sử Thế Giới. Al cũng được làm quen với Thánh Kinh, với các tác phẩm của Shakespeare và của các văn sĩ, thi sĩ, sử gia danh tiếng khác. Nhưng đặc biệt nhất, Al ưa thích Khoa Học. Cậu có thể kể lại rành mạch các phát minh, các thí nghiệm và tiểu sử của các đại bác học như Newton, Galileo. . . Chỉ trong vòng 6 năm, bà Nancy đã truyền lại cho con tất cả kiến thức của mình, từ môn Địa Dư với những tên núi sông, tới môn Toán Học chính xác. Bà Nancy không những dạy con về học vấn mà còn huấn luyện Al về hạnh kiểm. Al được mẹ nhắc nhở các đức tính thật thà, ngay thẳng, tự tin và cần cù, cộng với lòng ái quốc và tình yêu nhân loại.

Al học hành tiến bộ rất nhanh chóng khiến cho cha rất hài lòng. Ông Samuel thường cho con các món tiền nhỏ đủ mua dần từng cuốn sách hữu ích, nhờ thế Al đã say sưa với các tác phẩm như Ivanho của Scott, Robinson Crusoe của Defoe và Oliver Twist của Dickens. Nhưng tác giả mà Al ưa thích nhất là Victor Hugo và cậu thường kể lại cho các bạn nghe các câu chuyên đã đọc qua.

Năm 10 tuổi, Al được cha cho cuốn sách toát yếu về Khoa Học của soạn giả Parker (School Compendium of Natural and Experimental Philosophy by Richard Green Paker). Trong cuốn sách toát yếu này, Paker đã giảng giải về máy hơi nước, máy điện báo, cột thu lôi, pin Volta. . . Cuốn sách đã trả lời Al rất nhiều điều mà từ trước, Al vẫn thường thắc mắc. Cuốn sách này đã dẫn đường cho Al tới phạm vi rộng lớn của Khoa Học và khiến cho cậu yêu thích môn Hóa Học.


2. Thời kỳ thực tập.

Năm 12 tuổi, Al nói với cha mẹ : “Thưa cha mẹ, con hiện nay cần nhiều tiền, cha mẹ cho phép con đi xin việc làm”. Hai ông bà Edison đã ngăn cản con vì lo sợ Al sẽ gặp phải các rủi ro, hơn nữa công việc kiếm ăn sẽ làm trở ngại sự học nhưng Al đã quyết định rồi, cậu nằng nặc đòi cha mẹ cho phép thử tự lập và hứa rằng sẽ hết sức thận trọng.

Thời bấy giờ, công ty xe lửa Grand Trunk thiết lập một ga nhỏ tại Port Huron. Al xin được phép bán báo, tạp chí, sách vở, trái cây và bánh kẹo trên xe lửa chạy quãng đường Port Huron và Detroit dài 101 cây số. Từ đó cậu bé 12 tuổi này mỗi tháng thức dậy lúc 6 giờ để đáp chuyến xe lửa 7 giờ và tới Detroit lúc 10 giờ. Thông thường tới Detroit, Al vội vã đến thư viện và nghiền ngẫm trong nhiều giờ các cuốn sách mà cậu không thể tìm thấy tại nơi mình cư ngụ. Al tập dần cách đọc nhanh và cậu quyết định bắt đầu đọc các sách của các tác giả từ vần A cho tới hết 16,000 cuốn của thư viện. Tới 6 giờ chiều, Al lại ra xe và trở về Port Huron lúc 9 giờ 30 tối. Ít khi Al đi ngủ trước 11 giờ đêm vì cậu còn phải làm các thí nghiệm hóa học trong hơn một giờ đồng hồ.

Trong thời gian bán báo và kẹo bánh trên xe lửa, Al làm quen được nhiều người gồm các chuyên viên điện báo, các công nhân và nhân viên nhà ga. Cậu được các người này giúp đỡ trong nhiều trường hợp khó khăn.

Vào năm 1861, cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ bùng nổ. Các trận đánh càng ác liệt thì số báo lại càng bán chạy. Al bèn nghĩ tới việc bán báo tại tất cả các nhà ga phụ. Vào ngày 01 tháng 4 năm 1862, tờ báo Free Press loan tin trận đánh quyết định tại Shiloh trong tiểu bang Tennessee. Al liền chạy vội tới tòa báo Free Press là tờ báo lớn nhất tại Detroit và hỏi mua 1,000 tờ trả tiền sau, rồi Al và hai người bạn vác báo lên tầu. Tại các ga đầu, số báo bán được còn ít ỏi nhưng càng đi xa hơn, số người hỏi mua báo càng gia tăng khiến cho Al nghĩ cả đến việc tăng giá báo từ 5 xu tới 10 xu, rồi sau cùng bán tới 25 xu một tờ. Nội trong ngày hôm đó, Al đã bán hết 1,000 tờ báo trước khi tới Port Huron và thu được hơn 100 đô la, một số tiền lớn nhất mà cậu kiếm được từ trước tới nay.


3. Ông chủ báo nhỏ tuổi và điện tín viên.

Một sáng kiến khác lại nẩy ra trong đầu óc của cậu bé đầy nghị lực này : Al định ra báo. Cậu liền mua một máy in quay tay và cậu thiết lập thêm trong toa hành lý “một cơ sở báo chí” nữa. Al đã cho ra đời tờ tuần báo khổ nhỏ có tên là “The Weekly Herald” (Diễn Đàn Hàng Tuần). Viên chủ nhiệm nhỏ tuổi này nhận thấy không thể cạnh tranh với các báo chí tại Detroit về các tin tức chiến sự nên quyết định chỉ phổ biến mọi tin xẩy ra trong vùng dọc theo hai bên con đường sắt. Cậu thu lượm tin tức nhờ các chuyên viên điện báo địa phương. Al vừa là chủ nhiệm, quản lý, vừa là ký giả, thợ in và người bán báo. Từ đó tuần báo The Weekly Herald 2 trang, được in mỗi mặt 3 cột. Ngoài các tin tức địa phương, Al còn cho phổ biến các tin về hiếu hỉ, các tai nạn, hỏa hoạn. . .

Báo của Al bán được khá chạy. Ngay ở số đầu tiên đã tiêu thụ được chừng 400 tờ trong một tháng. Al còn nhận cả việc quảng cáo trên báo nữa. Tuần báo The Weekly Herald đã có lần được bán cho nhà phát minh người Anh là ông Stephenson khi viên kỹ sư này một hôm đi trên chuyến xe lửa qua miền Port Huron. Ông Stephenson đã ngợi khen các ý tưởng của Al và ông quả quyết rằng báo của cậu cũng giá trị như các báo của những người lớn gấp đôi tuổi.

Muốn làm gia tăng số độc giả, Al cho thêm vào tuần báo một đề mục chuyện nói chuyện ngồi lê mách lẻo và ký dưới tên hiệu Paul Pry (Paul, người tọc mạch). Al đã dùng báo chí của mình để chỉ trích một vài người trong vùng và cậu đã cẩn thận ghi tên của họ bằng mẫu tự đầu tiên. Nhưng quãng đường 101 cây số rất ngắn ngủi, không thể giúp Al tránh khỏi sự săn đuổi của những nạn nhân bị chế nhạo. Rồi vào một ngày đẹp trời, khi Al đang đi bộ trên bờ sông Saint Clair, bỗng có một người vạm vỡ tiến lại gần Al, túm cổ viên chủ nhiệm nhỏ tuổi, ném xuống sông. Al ngoi lên bờ, quần áo ướt như chuột. Bực mình vì bị một số độc giả luôn rình rập quấy rầy, Al quyết định ngưng việc làm báo.

Vào một buổi sáng tháng 8 năm 1862, Al đứng nói chuyện với ông Mackenzie, nhân viên nhà ga kiêm chuyên viên điện báo. Ông Mackenzie có một đứa con trai 2 tuổi rưỡi, tên là Jimmy, thường hay lân la chơi tại sân ga. Khi đang trò chuyện, bỗng Al trông thấy Jimmy đang đi dọc theo đường sắt trong khi đó, một toa xe goòng đang phóng đến. Nhận thấy sự nguy hiểm trước mắt, Al liền lao mình tới chỗ đứa bé, ôm lấy nó mà lăn ra phía ngoài. Để đền đáp ơn cứu tử đứa con của mình, ông Mackenzie nhận dạy Al nghề điện báo và hứa sẽ xin việc cho cậu khi nào Al thành thạo.

Từ đó Al bắt đầu bỏ ra mỗi ngày 18 giờ để học về điện báo và chữ Morse. Chỉ trong vài tuần lễ, Al đã theo kịp tất cả các tín hiệu do ông Mackenzie đánh đi. Sau 3 tháng học hỏi, không những Al tiến bộ đến nỗi ông Mackenzie phải gọi Al là chuyên viên điện báo hạng nhất, và Al còn chế tạo được một máy điện tín có đầy đủ tính cách toàn hảo cũng như cho phép người xử dụng máy gửi điện tín đi thật nhanh chóng.

Trong thời kỳ Nội Chiến Nam Bắc Mỹ, hàng trăm điện tín viên bị gọi nhập ngũ vào các đội truyền tin. Kết quả của sự kiện này là các công ty thương mại cũng như hỏa xa thiếu chuyên viên. Vì thế xin một chân làm việc về điện tín là một điều dễ dàng và một người mới học nghề cũng có thể kiếm được việc. Vào khoảng năm 1864, Al nhận thấy có đủ khả năng nhận một chân điện tín viên nên từ bỏ nghề bán báo và tới Stradford, Gia Nã Đại, xin làm việc vào tháng 5. Al trở thành điện tín viên tại ga Stratford này và lãnh lương mỗi tháng 25 đô la.

Từ năm 1864 tới năm 1868, Al đã làm việc tại nhiều nơi như New Orleans, Indianapolis, Louisville, Memphis và Cincinnati. . . Chàng thanh niên này cũng bắt đầu bỏ cách gọi tắt là Al mà dùng tới tên chính là Thomas hay cách gọi thân mật là Tom.

Thomas Edison bây giờ là một chàng thanh niên khỏe mạnh, nhiều thiện cảm và vui tính. Sự cởi mở, lòng chân thật đã khiến Tom có nhiều bạn nhưng cách làm việc đặc biệt của Tom đã khiến cho các bạn bè cho chàng là người kỳ quặc. Tom ăn mặc giản dị, quần áo cũ kỹ và dính mực, đôi giày của chàng mòn đế cũng không khiến chàng nghĩ đến việc thay đôi mới. Vào mùa lạnh, Tom cố chịu rét hơn là bỏ tiền mua một áo choàng bằng nỉ vì chàng đã dồn tiền vào việc mua sắm các sách vở khoa học và dụng cụ thí nghiệm.

Vào đêm hôm 14/ 4/1865, cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ chấm dứt, làm cho hàng trăm điện tín viên mất việc. Tom Edison trở về Louisville rồi tới cuối năm 1868, từ biệt cha mẹ đi Boston để nhận chân chuyên viên điện tín. Năm 21 tuổi, Tom thực hiện được phát minh đầu tiên, đó là một máy đầu phiếu. Tom gửi sáng kiến này tới Phòng Văn Bằng Sáng Chế rồi đưa trình lên Quốc Hội, nhưng vào thời đó không nghị sĩ nào ưa thích thứ máy móc tân kỳ đó. Mặc dù thất bại, Tom lại bắt đầu làm nhiều việc khác. Chàng đã chế ra được một máy điện báo cùng một lúc gửi đi hai điện tín trên một đường dây.



4. Thời kỳ thành công.

Vào một buổi sáng tháng 6 năm 1869, con tầu khởi hành từ Boston tiến dần vào hải cảng New York. Edison, chàng thanh niên 22 tuổi, đứng trên boong tầu, mơ màng nhìn vào thành phố xa lạ, không người quen biết, trong túi không có một đồng nào bởi vì chàng đang mang nợ 800 đô la. Edison rời Boston với hai bàn tay trắng vì chàng đã để lại tất cả các dụng cụ thí nghiệm cùng sách vở cho chủ nợ, hứa sẽ trở lại lấy khi có đủ tiền thanh toán. Nhưng có nhiều thứ mà không ai có thể lấy bớt được ở chàng, đó là lòng cam đảm, ý chí theo đuổi mục đích, học vấn và kinh nghiệm kỹ thuật cùng với các đức tính khác mà chàng đã thu lượm được vào thời niên thiếu.

Ngày đầu tiên tại New York, Tom đi tới tất cả các cơ sở điện báo để tìm kiếm người quen và đã vay mượn được một đô la. Sống với đồng tiền nhỏ mọn này cho tới ngày thứ ba, Tom khi đi qua Công Ty Hối Đoái Gold Indicator thì thấy hàng trăm người đang chen chúc chờ đợi. Tom tiến lại gần thì được biết rằng chiếc máy ghi giá vàng bị trục trặc và vì thế thị trường vàng hoàn toàn bị trở ngại. Khi đó viên giám đốc của công ty, Bác Sĩ Laws, đang la ầm lên : “Tôi trả lương cho hàng tá người mà chẳng ai làm được việc gì ! Ôi, tôi chỉ cần một người thợ có tài là đủ!”. Nghe thấy vậy, Tom tiến lại gần ông Laws và nói : “Thưa ông, tôi không phải là thợ của ông nhưng tôi tự xét có thể sửa chữa được chiếc máy”. Trong vòng hai giờ, chiếc máy do Tom sửa chữa lại chạy đều như trước. Ngày hôm sau, sau khi khảo sát khả năng, Bác Sĩ Laws đã thuê Tom làm quản đốc kỹ thuật với lương tháng 300 đô la.

Mặc dù lương bổng cao, Tom Edison luôn chán nản trước hoàn cảnh làm công cần cù vì trong đầu óc của chàng đang chứa đựng hàng tá sáng kiến sôi động. Trong khoảng thời gian làm việc tại công ty hối đoái, Edison được gặp Franklin L. Pope và hai người bàn với nhau hợp tác trong một công cuộc kinh doanh. Ngày 01/ 10/1869, Edison và Pope lập ra xưởng điện cơ và điện báo rồi ít lâu sau, lại có J. N. Ashley của tờ báo Telegraph cộng tác. Để sống gần người bạn cộng sự, Edison dọn nhà tới thị xã Elizabeth, thuộc tiểu bang New Jersey. Vì muốn tiết kiệm thời giờ dùng cho các công việc cần thiết, Edison tự luyện tập các giấc ngủ thật ngắn, mỗi ngày ngủ 3 hay 4 lần. Ngoài 5 giờ để ngủ, thời gian được chàng dùng cho các cải tiến kỹ thuật và công việc chuyên môn.

Vào thời bấy giờ, điện tín được ghi bằng các chấm và gạch in trên những băng giấy dài, rồi người ta lại phải chép tay ra các bản điện tín trước khi gửi cho người nhận. Nếu có cách nào in bằng chữ lên các phiếu điện tín, người ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian vô giá. Điều này làm Edison suy nghĩ. Vì Edison nổi tiếng về giỏi Kỹ Thuật, Tướng Marshall Lefferts, giám đốc công ty Gold and Stock Telegraph liền nhờ Edison biến đổi loại máy thường ra máy điện tín in chữ. Sau vài tháng tìm tòi, Edison đã thành công và lấy bằng phát minh vào năm 1869. Máy móc mới này của Edison vừa giản dị hơn, vừa chính xác hơn loại cũ nên đẵ khiến ông Lefferts đề nghị mua lại bằng sáng chế.

Công việc làm ăn của Edison tăng lên một cách rất nhanh chóng khiến chàng và các hội viên khác đồng ý đổi cơ xưởng cũ thành Công Ty Điện Báo Tự Động (The Automatic Telegraph Co.). Lúc đầu chàng chỉ mướn 18 người thợ rồi số thợ tăng lên dần tới 50 và sau này tới 250 người. Nhiều người làm việc với Edison đã trở nên các kỹ sư tài ba và đã cộng tác với chàng cho tới chết. Edison chia thợ ra từng toán, làm từng phiên cả sáng lẫn đêm. Mặc dù mới 23 tuổi, Edison được nhiều người tặng cho biệt hiệu “lão già” vì chàng điều kiển nhóm chuyên viên của mình một cách chín chắn, đôi khi hơi tàn ác nhưng ngược lại, chàng trả lương các nhân viên rất hậu, căn cứ vào tài khéo và thời gian làm việc vì chàng muốn họ đóng góp với tất cả lương tâm nghề nghiệp.

Vóc người mập mạp, Thomas Edison có đôi mắt sắc sảo dưới hàng mi rậm rạp và chiếc trán rộng. Với dáng đi nặng nề, chàng đi đi, lại lại trong xưởng, quần áo vừa bẩn lấm, vừa tả tơi, mang vào mình hình ảnh một tên vô nghề nghiệp hơn là một viên đốc công, một vị giám đốc và cũng là một kỹ nghệ gia đầy tương lai hứa hẹn. Thực vậy, người ta phải ngạc nhiên về cơ xưởng của Edison, không những do các hoạt động mà còn vì giờ giấc. Edison đã treo trong xưởng tất cả 6 chiếc đồng hồ, chỉ các giờ giấc khác nhau và nhân viên của chàng thường theo chàng làm đến hết việc chứ không phải hết giờ. Trong khoảng thời gian từ năm 1870 tới 1876, bắt đầu với tuổi 23, Thomas Edison đã cầu chứng 122 phát minh và như thế, mỗi tháng trung bình chàng có hơn một sáng kiến được thực hiện.

Vào thời kỳ của phát minh thứ 46, Thomas Edison được nghe người ta kể lại rằng Christopher Sholes tại Milwakee đang thí nghiệm về một thứ máy móc gọi là “máy đánh chữ”. Vì biết rằng thứ máy mới này sẽ góp phần to lớn trong việc chế tạo máy điện báo tự động, Edison liền mời Sholes mang mẫu máy tới Newark và chàng đã đề nghị nhiều sửa đổi hợp lý. Công Ty The Automatic Telegraph là nơi đầu tiên chế tạo máy đánh chữ rồi dùng nó trong văn phòng và chiếc máy đánh chữ đó đã mở đường cho các máy Remington mà sau này được dùng trên khắp thế giới. Nếu Morse phát minh ra máy điện báo thì Edison lại góp vào đó rất nhiều cải tiến quan trọng khiến cho chính Morse cũng khó nhận ra được phát minh của mình. Không những Edison hoàn thành máy điện báo kép cho phép gửi đồng thời 2 điện tín trên cùng một đường dây mà còn phát minh ra một phương pháp gửi đồng thời 4 hay 5 điện tín. Edison còn cứu vãn Công Ty Western Union khỏi bị phá sản bằng một hệ thống truyền tin mới.

Vào một buổi chiều năm 1870, Edison ngồi một mình trong văn phòng. Các thợ thuyền đã ra về trong khi nhà phát minh còn nán lại vì chàng muốn ghi chép cho xong các nhận xét về một thứ máy đang hoàn thành. Edison định ra về thì một trận mưa lớn đổ xuống. Lúc ra cửa, chàng gặp hai thiếu nữ đứng trú mưa tại lối đi. Edison liền tự giới thiệu : “Tôi là Thomas Edison, chủ nhân tiệm này. Xin mời các cô vào văn phòng chờ hết mưa. Tôi sẽ đi thắp đèn lên”. Một thiếu nữ trả lời chàng : “Chúng tôi không dám phiền ông, ông Edison ạ. Tôi là Mary Stilwell, còn đây là em Alice của tôi”. Edison cúi chào hai thiếu nữ và nói chuyện xuông với hai chị em Stilwell cho qua thời giờ. Nhưng ánh mắt trong sáng, khuôn mặt xin xắn và cử chỉ thanh lịch của Mary đã làm tâm hồn Edison xao xuyến.

Từ đây, Edison không thể quên hình ảnh của Mary. Chàng hỏi dò bạn bè thì được biết Mary là một giáo viên tại Newark. Edison liền nhờ bạn đưa lại thăm gia đình Stilwell và sau buổi viếng thăm, chàng thấy rằng mình đã tìm được người vợ mong ước. Sau đó, Edison thường cùng Mary đi coi hát, dự các buổi hòa tấu nhạc hay đi cắm trại ngoài trời. Sau một năm trường chờ đợi sự ưng thuận của gia đình Stilwell, Edison đã cử hành hôn lễ với Mary vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1871.

Cuối năm 1871, Edison đã có ba tiệm khác nhau tại Newark. Ba cơ xưởng ở rải rác trong một thành phố lớn đã làm mất nhiều thời giờ và năng lực quý báu của nhà phát minh. Vì vậy Edison quyết định tìm kiếm nơi xây cất một cơ xưởng lớn hơn cách Newark 40 cây số. Menlo Park là một ga nhỏ trong tiểu bang New Jersey nhưng khá yên tĩnh, thích hợp cho nhà phát minh làm việc. Ngày 3/ 01/1876, công cuộc xây cất bắt đầu. Edison đã phác họa từng chi tiết cho đồ án phòng thí nghiệm và cơ xưởng.

Cũng trong năm này, công ty Western Union lại nhờ Edison cải tiến máy điện thoại của Alexander Graham Bell vừa mới cầu chứng cách đó ít lâu. Thời bấy giờ, điện thoại của Bell là một bộ máy còn rắc rối, ống nói và loa nghe được làm chung, và người ta để loa lên miệng để nói rồi đặt vào tai nghe. Tầm hoạt động của máy bị giới hạn và dù nói từ phòng nọ sang phòng kia, những tiếng sè sè của máy sinh ra do bộ ma nhê tô đã làm cho việc đối thoại rất khó khăn. Sau hai năm tìm tòi, Edison đã phát minh ra bộ vi âm (microphone), hoàn thành một máy truyền (transmetteur) dùng thỏi than và đã thành công rực rỡ trong việc truyền tiếng nói qua 225 cây số đường dây. Edison làm cho cường độ tiếng nói qua máy điện thoại lớn gấp bội và âm thanh trở nên rõ ràng. Hãng Western Union đã mua lại bằng sáng chế chiếc máy truyền với giá 100,000 đô la. Thành công của Edison trong việc cải tiến máy điện thoại đã khiến người đời phải nói rằng “Bell đã phát minh ra máy điện thoại nhưng chính nhờ Edison mà máy điện thoại trở thành hữu dụng”.



5. Phát minh ra Máy Hát.

Lúc bấy giờ Edison đã có phòng thí nghiệm tại Menlo Park, một nơi có đủ phương tiện cho nhà phát minh tìm tòi, nghiên cứu. Edison có một cách làm việc rất đặc biệt. Khi một ý tưởng nẩy ra trong trí óc, ông liền thử ngay bằng ngàn cách khác nhau với sự cộng tác của những người giúp việc. Vào thời đó, mặc dù nhà phát minh có hàng trăm bằng sáng chế nhưng danh tiếng của Edison chỉ thực sự được đại chúng biết tới sau ngày ông cho ra đời chiếc máy hát.My Webpage

Thực ra sự phát minh này do khả năng nhận xét và suy luận của ông hơn là do công lao tìm kiếm. Vào một chiều mùa hè năm 1877, trong khi Edison đang loay hoay với chiếc máy dịch điện tín tự động, chiếc máy này gồm một mũi kim thép rạch các rãnh trên một đĩa giấy, đột nhiên khi cho đĩa quay nhanh hơn Edison đã nghe thấy tiếng cọ sát tăng lên và giảm đi tùy theo sự gồ ghề của chiếc đĩa. Sự kiện này đã ám ảnh nhà phát minh. Ông liền làm lại thí nghiệm nhưng lần này, thêm vào chiếc kim bộ phận chứa một màng mỏng. Edison nhận thấy cơ phận này đã làm tăng âm độ lên một cách đáng kể.

http://files.gereports.com/wp-content/uploads/2012/07/TimelessThomas1.jpg

Các công trình khảo cứu về máy điện thoại đã khiến Edison nhận thức rằng một màng kim loại mỏng đã rung động khi nói vào một máy phát. Như thế có thể ghi lại sự rung động này trên một chất gì đó để rồi làm cho màng kim loại rung động trở lại mà phát ra các âm thanh như tiếng nói. Nửa đêm hôm đó, Edison ngồi lại văn phòng và vẽ trên giấy một bức họa về thứ máy móc sẽ thực hiện. Ngày 24/12/1877, Edison cầu chứng cho chiếc máy hát và bằng phát minh được chính phủ Hoa Kỳ cấp cho ông vào ngày 19/ 02/1878.

Một bộ máy ghi được tiếng nói và lại phát ra tiếng nói làm cho đại chúng phải bàn tán. Để làm cho mọi người tin chắc rằng máy hát nói được là một sự thật, Edison quyết định trình bày chiếc máy kỳ lạ trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Hoa Kỳ. Sáng ngày 8/ 4/1878, nhà phát minh Edison đã xử dụng chiếc máy hát trước ông Joseph Henry, Chủ Tịch Viện Smithsonian, rồi vào buổi chiều, ông biểu diễn máy trước Hàn Lâm Viện Khoa Học. Ngay buổi tối hôm đó, Edison lại nhận được giấy mời trình bày máy hát trước Tổng Thống Rutherford B. Hayes. Nhà phát minh đã làm cho các nhân vật Tòa Bạch Cung cũng như dân chúng tin tưởng. Cả thế giới sôi nổi về phát minh này. Danh tiếng Thomas Edison được nhắc nhở tại khắp nơi. Báo chí đã nói nhiều về nhà phát minh 31 tuổi. Môt tờ báo gọi Edison là “Thầy Phù Thủy vùng Menlo Park” và danh hiệu này đã được phổ thông hóa.

Chiếc máy hát là một phát minh mà Edison rất ưa chuộng. Ông đã cải tiến máy dần dần trong nhiều năm trường để về sau này, máy được thay đổi khối trụ và tay quay bằng một đĩa tròn chuyển động do một bộ phận đồng hồ. Sự sản xuất máy hát càng ngày càng gia tăng, vào năm 1910 tiền bán máy và đĩa hát đã lên tới 7 triệu đô la. Vào năm 31 tuổi, Thomas Edison có 157 bằng phát minh và đang chờ đợi 78 bằng sáng chế khác từ Washington gửi về. Mặc dù vậy, ông vẫn không ngừng làm việc, mỗi ngày từ 18 tới 20 giờ.


6. Phát minh ra Đèn Điện.


Tháng 3 năm 1878 là đầu thời kỳ Edison bắt tay vào việc nghiên cứu đèn điện. Vào thời bấy giờ người ta chỉ biết tới nguyên tắc của đèn hồ quang là loại đèn được phát minh vào khoảng năm 1809. Khi đốt đèn hồ quang, người ta phải luôn luôn thay thỏi than, ngoài ra đèn còn phát ra tiếng cháy sè sè và cho một sức nóng quá cao, kèm theo một mùi khó chịu, không thích hợp với việc xử dụng trong nhà.

Vào năm 1831, Michael Faraday tìm ra nguyên tắc của máy ma-nhê-tô là bộ máy sinh ra các tia lửa đốt loại khí bên trong động cơ dầu lửa. Tới năm 1860, một loại đèn điện sơ sài ra đời tuy chưa thực dụng nhưng đã khiến cho người ta nghĩ tới khả năng của điện lực trong việc làm phát sáng. Thomas Edison cũng cho rằng điện lực có thể cung cấp một thứ ánh sáng dịu hơn, rẻ tiền hơn và an toàn hơn ánh sáng của đèn hồ quang của William Wallace. Edison đã tìm đọc tất cả các sách báo liên quan tới điện học. Ông muốn thấu triệt sâu rộng lý thuyết về điện lực để có thể mang kiến thức của mình vào các áp dụng thực tế. Ngày nay trong số 2,500 cuốn sổ tay 300 trang được Viện Edison cất giữ, người ta còn thấy hơn 200 cuốn ghi chép về điện học. Chính những điều ghi chép này đã là căn bản của các khám phá vĩ đại của thiên tài Edison trong phạm vi Khoa Học và Kỹ Thuật.



Thời bấy giờ, báo chí nói nhiều đến công cuộc nghiên cứu của Edison về đèn điện làm cho các công ty đèn thắp bằng khí đốt lo ngại trong khi đó Edison khuyên các hội viên của Công Ty Đèn Điện Edison (the Edison Electric Light Co.) bỏ thêm 50,000 đô la để ông theo đuổi công trình nghiên cứu. Hồi đó trong phòng thí nghiệm tại Menlo Park có vào khoảng 50 người làm việc không ngừng. Bình điện, dụng cụ, hóa chất và máy móc chất cao trong các phòng nghiên cứu. Đồng thời với việc nghiên cứu đèn điện, Edison còn phải cải tiến rất nhiều máy móc khác cũng như tìm ra các kỹ thuật cần thiết vì vào thời bấy giờ, kỹ nghệ điện lực còn trong giai đoạn phôi thai. Cũng nhờ nghiên cứu đèn điện, Edison đã sáng chế ra cầu chì, cái ngắt điện, đynamô, các lối mắc dây. . .

Căn cứ từ đèn hồ quang của Wallace, Edison thấy rằng có thể có ánh sáng từ một vật cháy sáng bằng cách đốt nóng. Edison đã dùng nhiều vòng dây kim loại rất mảnh rồi cho dòng điện có cường độ lớn đi qua để những vòng dây đó nóng đỏ lên, nhưng chỉ sau chốc lát, các vòng đó đều cháy thành than. Vào tháng 4 năm 1879, Edison nẩy ra một sáng kiến. Ông tự hỏi cái gì sẽ xẩy ra nếu sợi dây kim loại được đặt trong một bóng thủy tinh không chứa không khí? Edison liền cho gọi Ludwig Boehm, một người thợ thổi thủy tinh tại Philadelphia tới Menlo Park và phụ trách việc thổi bóng đèn. Việc rút không khí trong bóng đèn cũng đòi hỏi một máy bơm mạnh mà vào thời đó chỉ có tại trường đại học Princeton. Cuối cùng Edison cũng mang được chiếc máy bơm đó về Menlo Park.

Edison thử cho một sợi kim loại rất mảnh vào trong bóng thủy tinh rồi rút không khí ra hết, khi nối dòng điện, ông có được thứ ánh sáng trắng hơn, thời gian cháy cũng lâu hơn nhưng chưa đủ. Ngày 12/ 04/1879, để bảo vệ phát minh của mình, Edison xin bằng sáng chế về bóng đèn cháy trong chân không mặc dù ông biết rằng loại đèn này chưa hoàn hảo vì ông chưa tìm ra được một thứ gì dùng làm tóc trong bóng đèn. Edison đã dùng sợi Platine nhưng thứ này quá đắt tiền lại làm tốn nhiều điện lực hơn là cho ánh sáng hữu ích. Edison đã thử với nhiều thứ kim loại hiếm, chẳng hạn như Rhodium, Ruthenium, Titane, Zirconium và Baryum nhưng tất cả những chất đó chưa cho kết quả khả quan.

Vào 3 giờ sáng ngày Chủ Nhật, 19/ 10/ 1879, trong khi Edison và Batchelor, người cộng sự, đang cặm cụi thí nghiệm thì nhà phát minh chợt nghĩ tại sao không dùng một sợi than rất mảnh. Edison nghĩ ngay tới thứ thường dùng nhất trong nhà là sợi chỉ may. Ông liền bảo Batchelor đốt cháy sợi chỉ để lấy các sợi than rồi cho vào bóng đèn. Khi nối dòng điện, đèn cháy sáng, phát ra một thứ ánh sáng không đổi và chói chan. Edison và các cộng sự viên thở ra nhẹ nhõm. Nhưng mọi người đều không rõ đèn cháy sáng như vậy được bao lâu? 2 giờ trôi qua, rồi 3, 4. . . rồi 12 giờ. . . đèn vẫn sáng. Edison đành nhờ các cộng sự viên thay thế để đi ngủ. Chiếc đèn điện đầu tiên của Thomas Edison đã cháy liền trong hơn 40 giờ đồng hồ khiến cho mọi người hân hoan, tin tưởng vào kết quả. Lúc đó, Edison mới tăng điện thế lên khiến cho sợi dây cháy sáng gấp bội rồi đứt hẳn.

Rất hãnh diện về phát minh của mình, Edison viết thư mời viên chủ nhiệm tờ báo New York Herald gửi đặc phái viên tới Menlo Park. Ký giả Marshall Fox đã tới phòng thí nghiệm của Edison và cùng nhà phát minh làm việc trong hai tuần lễ. Sáng Chủ Nhật 21/12/1879, tờ báo Herald tường thuật về sự phát minh ra chiếc đèn điện nhưng bài tường trình này đã làm đại chúng nghi ngờ và có người còn cho rằng “một thứ ánh sáng như vậy trái với định luật thiên nhiên”. Có nhà báo lại khôi hài câu chuyện và bảo “đèn điện của Edison đã được ông dùng bóng bay thả lên trời thành những ngôi sao lấp lánh ban chiều”.

Edison rất buồn cười về những lời phủ nhận sự thật. Ông quyết định trình bày trước đại chúng chiếc đèn điện để phá tan mọi mối hoài nghi. Ông cho treo hàng trăm bóng đèn điện quanh phòng thí nghiệm, quanh nhà ở và dọc theo các con đường tại Menlo Park. Ngày 31/12/1879, một chuyến xe lửa đặc biệt đã xuôi ngược New York - Menlo Park, mang theo hơn 3,000 người hiếu kỳ gồm cả các nhà khoa học, các giáo sư, các nhân viên chính quyền cũng như các nhà kinh tài tới quan sát tận mắt chiếc đèn điện. Đêm hôm đó cả vùng Menlo Park tràn ngập trong ánh sáng chan hòa của một thứ đèn mới.My Webpage


7. Công Ty Đèn Điện Edison.

Thành công của chiếc đèn điện làm cho công ty khí thắp xuống dốc trong khi đó, Edison vẫn cho rằng đèn điện chỉ đắc dụng khi nào ông tìm ra được một thứ sợi tóc rẻ và bền hơn. Ông cho thử hơn 6,000 thứ sợi thảo mộc, cuối cùng đã chọn một thứ tre Nhật Bản và loại sợi này đã được dùng trong suốt 10 năm trường trước khi bị chất Tungstène thay thế.

Edison lại tính tới việc dùng điện lực thắp sáng một khu vực rộng lớn hơn. Ông quyết định dùng một quận trong thành phố New York rộng 2,500 mét vuông làm nơi thí nghiệm. Ông tìm ra nhiều phương pháp cách điện và chính ông trông coi việc đặt đường dây. Vào năm 1881, số chuyên viên về điện lực rất hiếm. Edison liền mở ra một trường dạy nghề và đặt những cộng sự viên cũ của mình vào các chân giảng viên. Chính ông cũng viết ra một cuốn sách kỹ thuật về điện học. Nhờ cách làm việc có phương pháp như vậy, sang năm sau Edison đã có hơn 1,500 người chuyên đào đường, đặt đường dây và bắt dây điện vào tư gia. Một nhu cầu mới cần thiết nữa lại được đặt ra là việc thiết lập một nhà máy phát điện mạnh. Việc này đòi hỏi nhiều triệu đô la. Một công ty vì thế được thành lập với tên là Công Ty Đèn Điện Edison tại New York (the Edison Electric Lighting Company of New York).

Edison lập ra một xưởng chế tạo các thành phần của máy phát điện, một xưởng chuyên làm bóng đèn điện và một cơ xưởng đặc biệt chuyên sản xuất các đồng hồ điện, các đui đèn, ngắt điện cùng các phụ tùng cần thiết cho ngành kỹ nghệ mới này.

Từ trước, công ty khí thắp độc quyền phụ trách việc đốt đèn các con đường và cung cấp khí đốt cho dân chúng. Edison muốn thay thế những phương tiện thắp sáng cũ đó bằng một cách khác, vừa tiện lợi hơn, vừa rẻ tiền hơn. Ông biết rằng ông đã tham dự một cuộc mạo hiểm rất khó khăn, nếu thất bại, ông sẽ mất hết danh tiếng, tiền bạc và tín nhiệm của dân chúng cũng như của bạn bè. Nhưng Edison vẫn không sờn lòng. Ông tuyên bố rằng tiền phí tổn về điện lực sẽ rẻ hơn tiền khí thắp và ông chỉ nhận tiền của thân chủ khi nào họ thấy thỏa mãn về cách cung ứng điện lực. Cuộc thí nghiệm đại quy mô này đã khiến Edison phải từ chối đi dự các bữa tiệc, các buổi diễn thuyết. . . Người ta thường thấy nhiều đêm ông Edison, với chiếc khăn quàng quấn quanh cổ, bước xuống những đường rãnh đặt dây điện hoặc trông coi việc thiết lập nhà máy điện trên đường Pearl.

Tới ngày 4 tháng 9 năm 1882, tất cả các công tác thiết kế đã hoàn thành và sẵn sàng chờ đợi sự thí nghiệm. Tại nhà máy phát điện đường Pearl, người thợ đổ than vào lò, các động cơ bắt đầu chuyển vận, Edison hạ chiếc cần xuống và trong khoảng khắc, dòng điện đi qua 24 cây số đường dây khiến cho hàng trăm bóng đèn Edison cháy sáng trong các công sở, cơ xưởng và các tư gia. Ông Thomas Edison đã thắng cuộc và lấy lại được niềm tin của toàn thể dân chúng.

Mặc dù là một nhà kỹ thuật có tài, Edison rất ghét sự trục lợi, đầu cơ. Khi đã đạt được các công trình nghiên cứu rồi, Edison lấy làm thỏa mãn về sự thành công mà coi thường các lời lãi do phát minh của mình mang tới. Edison đã bán xưởng chế tạo bóng đèn cho một công ty điện và công ty này về sau trở nên rất phát đạt và nổi danh trên thế giới : Công Ty General Electric.

Hai năm sau ngày thành công về đèn điện, bà Mary mắc bệnh thương hàn và qua đời, để lại cho chồng ba đứa con và lòng thương nhớ. Quá buồn phiền, Edison gửi các con về ông bà ngoại tại New York còn mình thì tìm quên trong phòng thí nghiệm. Edison nhận thấy cần phải có một cơ xưởng rộng lớn hơn cơ xưởng Menlo Park. Ông đã chọn thành phố West Orange, thuộc tiểu bang New Jersey. Công việc xây cất được bắt đầu. Cũng trong thời gian này, Edison cho thiết lập thêm một phòng thí nghiệm để làm việc trong mùa đông, vì thế một cơ xướng mới được lắp ráp tại Fort Myers, một nơi gần bờ biển trong tiểu bang Florida.

Trong khoảng thời gian từ năm 1881 tới năm 1887, Thomas Edison nghiên cứu nhiều thứ và phát minh ra các máy móc thuộc nhiều loại. Ông đã tìm ra cách gửi điện tín từ một ga tới một xe lửa đang chạy. Ông đã thử cách cất giữ trái cây trong chân không, phác họa ra máy bay trực thăng, máy gặt bông gòn, máy may điện, thang máy điện, xe lửa điện, xe gạt tuyết và ông khảo cứu cả về vô tuyền điện. Ngày nay “hiện tượng Edison” còn được áp dụng vào các bóng đèn máy vô tuyến truyền thanh.

Công việc quá bận rộn đã khiến Edison quên bớt nỗi buồn phiền về người vợ đã khuất. Ông bắt đầu cảm thấy cần phải ra khỏi tháp ngà. Người ta thường thấy ông đi dự các buổi trình diễn âm nhạc hay có mặt tại các bữa yến tiệc. Vào một buổi chiều năm 1885, trong một bữa ăn do một người bạn tổ chức, Edison đã gặp một thiếu nữ rất đẹp và duyên dáng, hôm đó đang ngồi tại đàn dương cầm. Nàng tên là Mina Miller, là con gái của ông Lewis Miller, một kỹ nghệ gia và cũng là người phát minh ra chiếc máy gặt lúa. Hai người trở nên đôi bạn thân.

Lần gặp gỡ cô Mina đã làm cho Edison hết cô đơn. Edison đã dạy cho Mina tín hiệu Morse vì ông kém về thính giác. Trong một buổi đi coi hát, Edison đã dùng tín hiệu Morse để hỏi cảm tình của Mina đối với ông. Cô Mina cũng đáp lại bằng thứ tín hiệu đó. Hai người cưới nhau vào năm 1886, khi đó chàng 39, nàng 21 tuổi, nhưng sự chênh lệch về tuổi tác không là hàng rào ngăn cách hai người. Edison thường ăn mặc lôi thôi như một đứa trẻ và Mina đã săn sóc chồng từng chút một. Mina thường dấu chiếc áo ngoài của chồng nên khi muốn ra đường, Edison phải gọi tới nàng, đó là lúc nàng kiểm soát cách ăn mặc, bắt chồng phải cạo râu, chải tóc.

Mina còn săn sóc Edison cả về sự ăn uống. Chính nàng tự tay mang thức ăn tới phòng thí nghiệm cho chồng và luôn luôn khuyến khích chồng bằng những lời nói êm dịu. Nếu Mary Stitwell, người vợ thứ nhất của Edison, là người đã góp phần quan trọng vào các thành công đầu tiên thì Mina Miller lại là người bạn trung thành và cộng sự viên đắc lực của Edison. Nàng luôn luôn theo chồng trong các chuyến du lịch hay tham dự những buổi yến tiệc, nàng nhắc lại cho Edison những gì ông không nghe rõ. Trong các buổi tiếp tân tại nhà, các bạn của Edison đã tặng Mina danh hiệu “Bà chủ nhà duyên dáng nhất Mỹ Quốc”. Mina còn làm cho gia đình Edison gồm 4 trai, 2 gái, trong đó có 3 người con của Mary, tất cả đều cảm thấy hạnh phúc.



8. Phát minh ra Máy Chiếu Bóng.

Vào một buổi chiều năm 1887, Thomas Armat tới thăm Edison và đưa cho nhà phát minh xem một máy chiếu hình, khi đó chưa hoàn hảo. Armat biết rằng chỉ có Edison mới có đủ tài cải biến máy móc đó ra một thứ có ích lợi thực tế. Khi nhìn thấy chiếc máy kinematoscope (do chữ Hy Lạp kinema là chuyển động), Edison nhận ra ngay giá trị của nó. Ông đã bỏ ra 4 năm công sức vào việc cải tiến máy chiếu bóng và chế tạo máy quay phim và như vậy, đã mở đầu cho một ngành kỹ nghệ rộng lớn trên thế giới, chuyên cung cấp món giải trí bình dân nhất.

Edison đã bỏ ra 100,000 đô la để lập phim trường tại Bronx Park. Ông đã thuê võ sĩ vô địch quyền Anh hạng năng tên là James J. Corbett tới Orange biểu diễn, để quay thành phim. Edison đã sản xuất được nhiều cuốn phim và còn cho phối hợp chiếc máy hát vào việc chiếu phim nói.



Khi kỹ nghệ chiếu bóng bắt đầu phát triển, Edison lại quay sang các lãnh vực mới. Ông làm nhiều thí nghiệm về quang tuyến X, thời đó vừa được Roentgen tìm ra. Công trình nghiên cứu của ông khiến ông chế tạo được máy huỳnh quang nghiệm (fluoroscope) và đèn huỳnh quang (lampe fluorescente). Edison còn lấy bằng phát minh cho bình ắc quy, loại đèn điện an toàn dùng trong hầm mỏ, cải tiến máy tính, tìm ra hợp chất sắt nickel. . . Ngoài ra còn rất nhiều phát minh nhỏ mọn khác mà ngày nay đối với chúng ta coi là tầm thường nhưng ở vào thời kỳ đó chưa có ai nghĩ tới cả.

Vào tuổi 60, Thomas Edison vẫn còn làm việc hăng hái như xưa. Ông đã “giải trí bằng cách thay đổi công việc làm”. Người ta hỏi ông về nghệ thuật của “Thành Công” và được ông trả lời : “Đó là khả năng kiên nhẫn”. Ông đã định nghĩa : “Thiên tài gồm 2 phần trăm cảm hứng và 98 phần trăm cực nhọc”. Edison cho rằng cách làm việc miệt mài bằng trí óc chính là bí quyết của sức khỏe và sự sống lâu, và ông còn nói thêm “Tôi chỉ cần tới thân xác để nuôi dưỡng bộ óc”.

Năm Thomas Edison 67 tuổi, một trận hỏa hoạn đã đốt sạch 7 dãy nhà không bảo hiểm tại West Orange, thiệt hại lên tới 5 triệu đô la. Edison đã mỉm cười với số phận. Ông liền bắt tay vào việc thiết lập lại cơ xưởng cũ.

Vào năm 1915, chính quyền Hoa Kỳ dự định tổ chức một cuộc triển lãm tại San Francisco, lấy tên là Cuộc Triển Lãm Panama Thái Bình Dương (Panama Pacific Exposition) để kỷ niệm ngày hoàn thành Kênh Đào Panama. Ban tổ chức Cuộc Triển Lãm có nhã ý dành ngày 21/10 làm “Ngày Edison”. Vào sáng ngày 21/10/1915 đó, ngày sinh nhật thứ 36 của chiếc đèn điện, Thomas Edison cùng Luther Burbank và Henry Ford tới thăm Phòng Triển Lãm. 50,000 người đã đứng hai bên đường để đón chào ba nhân vật đã mở mang con đường dẫn tới Văn Minh. Tại Phòng Đại Hội, Edison đã nhận lãnh huy chương đặc biệt trước hàng ngàn dân chúng hâm mộ và huy chương này được trao tặng về các công trình tốt đẹp mà ông đã thực hiện cho Nhân Loại.

Ngày 28/ 6/1914, Trận Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ và lan dần tới Mỹ Quốc khiến cho quốc gia này cũng bị liên hệ. Các nhà Khoa Học và Phát Minh đều theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Mặc dù gần 70 tuổi, Thomas Edison cũng tình nguyện gia nhập Hải Quân và nhận làm Chủ Tịch Ủy Ban Cố Vấn Kỹ Thuật với lòng mong ước mang lại Vinh Quang cho Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ông Edison đã phát minh ra máy dò tầu ngầm và thủy lôi, đèn soi sáng dưới nước và phương pháp ngụy trang tầu chiến. . . Hơn 40 phát minh có tính cách chiến thuật của ông đã mang lại cho ông Quân Công Bội Tinh (the Distinguished Service Medal), một trong những huy chương cao quý nhất của Quân Lực Hoa Kỳ.


9. Danh vọng cuối cùng

Từ năm 12 tuổi tới lúc già, Thomas Edison đã làm việc miệt mài mà không biết mỏi. Ông đã tự học từ năm lên 7 tuổi, khi bà Nancy kéo con về nhà. Ông Edison là một người đọc sách không biết mệt và thường hay thực hiện 6 dự án cùng một lượt. Lúc 70 tuổi, ông còn coi mình như một người đang độ sung sức.

Năm 1918 khi Thế Chiến Thứ Nhất kết thúc, ông Edison trở về phòng thí nghiệm và bắt tay vào việc nghiên cứu một chất cần thiết cho cả thời chiến lẫn thời bình : chất cao su. Tới năm 75 tuổi, ông Edison mới chịu giảm bớt thời giờ làm việc xuống 16 giờ một ngày. Ông thực hiện thứ đĩa hát quay lâu (disque de longue durée) vào năm 80 tuổi.

Ngày 21/ 10/1929, ông Thomas Edison được mời làm khách danh dự trong một bữa tiệc tổ chức tại Detroit. Tối hôm đó Tổng Thống Hoa Kỳ Herbert Hoover đã đứng lên ca tụng nhà Đại Phát Minh. Edison đã đáp từ bằng mấy câu cảm ơn ngắn. Bỗng bà Mina thấy mặt ông tái xanh đi rồi ông ngã người xuống ghế. Bác sĩ riêng của Tổng Thống điều trị cho ông nhưng sức mạnh không thể trở lại với ông. Edison yếu dần từ đó.

Sáng ngày Chủ Nhật, 18/10/1931, Thomas Edison lìa trần và 3 ngày sau, đúng ngày sinh nhật thứ 52 của chiếc đèn điện đầu tiên, đám tang nhà Đại Phát Minh được cử hành rất trọng thể tại thành phố West Orange, New Jersey. Buổi tối hôm đó, tất cả đèn điện trên toàn thể lãnh thổ Hoa Kỳ đều tắt trong một phút để tưởng nhớ một Vĩ Nhân, một “Người Bạn của Nhân Loại” mà 52 năm về trước, đã cho Nhân Loại một thứ đèn quý giá.

Vào 2 năm trước, 1929, nhân ngày kỷ niệm chiếc đèn điện được 50 tuổi, ông Henry Ford cho thiết lập tại Greenfield Park, thuộc tiểu bang Michigan, một ngôi làng lịch sử nhắc nhở lại cuộc đời và công trình của Thomas Edison. Phòng thí nghiệm tại Menlo Park cũng được dựng lại với tất cả chi tiết cũ cùng các máy móc xưa. Henry Ford cũng cho tìm kiếm và mua lại được 2 tờ báo The Weekly Herald, tờ báo mà hơn 70 năm về trước, Thomas Edison đã in trên xe lửa. Không những chỉ có Henry Ford là người kính trọng Thomas Edison mà hầu hết các người cộng sự của nhà Đại Phát Minh đều kính mến ông cho tới khi ông qua đời.

Trong suốt cuộc đời tận tụy, Thomas Edison đã lãnh tất cả 1,097 bằng phát minh. Thomas Edison là gương sáng của người tự học. Ngoài nền giáo dục do mẹ ban cho, Edison tìm học tại các thư viện công cộng. Tính ra ông đã đọc hơn 10,000 cuốn sách nhờ cách “ăn bớt thời giờ làm việc để ngốn hết 3 cuốn sách mỗi ngày”. Trí nhớ và óc thông minh siêu việt của ông đã giúp ông thấu hiểu và lưu trữ được tất cả kiến thức thu thập cho tới khi chết. Ngoài học vấn về Khoa Học và Sử Học, Thomas Edison còn là một học giả chuyên khảo cứu nền Văn Minh Hy Lạp và La Mã.

Lòng tận tụy đối với Nhân Loại của Thomas Alva Edison đã được ông thực hiện đúng như câu nói mà ông thường nhắc nhở : “Tổ Quốc của tôi là Thế Giới và Tôn Giáo của tôi là làm Việc Thiện”.


 Nguồn : 

http://mrnussbaum.com/thomas_edison/
http://easyscienceforkids.com/all-about-thomas-edison/
http://z3.invisionfree.com/superstudents_10a/ar/t146.htm
http://www.softschools.com/facts/biography/thomas_edison_facts/861/
http://www.theschoolrun.com/homework-help/thomas-edison
http://www.nps.gov/edis/faqs.htm
http://www.watchknowlearn.org/Video.aspx?VideoID=23758

-------------------------------------------------------------------------------------------

Trên đời không gì vĩ đại bằng con người. Trong con người không gì vĩ đại bằng trí tuệ.

A.Hamillton

Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

DANH NHÂN VIỆT .


DANH NHÂN VIỆT .


Hai anh em - hai nhà khoa học Việt kiều nổi tiếng

Vietsciences-   Bình Minh                 16/08/2009


Trong cộng đồng người Việt tại Pháp có hai nhà khoa học nổi tiếng cùng sinh ra trong một gia đình. Đó là ông Nguyễn Quang Riệu, nhà thiên văn học, và ông Nguyễn Quý Đạo, nhà hóa học. Cả hai đều là tiến sĩ, Giám đốc nghiên cứu danh dự của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), đã từng có những công trình khoa học được giới chuyên môn đánh giá cao và có nhiều đóng góp cho cả Pháp và Việt Nam.



Ông Nguyễn Quang Riệu và  Nguyễn Quý Đạo

Trong cộng đồng người Việt tại Pháp có hai nhà khoa học nổi tiếng cùng sinh ra trong một gia đình. Đó là ông Nguyễn Quang Riệu, nhà thiên văn học, và ông Nguyễn Quý Đạo, nhà hóa học. Cả hai đều là tiến sĩ, Giám đốc nghiên cứu danh dự của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), đã từng có những công trình khoa học được giới chuyên môn đánh giá cao và có nhiều đóng góp cho cả Pháp và Việt Nam.

Ông Nguyễn Quang Riệu và ông Nguyễn Quý Đạo quê ở Hải Phòng. Hai ông được gia đình gửi sang Pháp du học từ khi còn trẻ. Theo lời ông Nguyễn Quang Riệu, quãng thời gian học đại học là thời kỳ khó khăn nhất đối với hai anh em ông vì lúc đó tại quê nhà đang có chiến tranh, hai ông mất liên lạc với gia đình. Để có tiền giúp hai anh em sinh sống và tiếp tục học tập ông Riệu phải vừa học vừa làm nhiều nghề, trong đó có nghề dạy kèm và trợ giảng. Bằng ý chí quyết tâm và nghị lực của mình, hai anh em ông đã vượt qua giai đoạn khó khăn đó và đã tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, sau đó đoạt bằng tiến sĩ và trở thành các nhà nghiên cứu khoa học nổi tiếng. Ông Nguyễn Quang Riệu làm ở Đài Thiên văn Paris, đã từng công bố hàng trăm công trình khoa học nghiên cứu về các vấn đề của vũ trụ như các tia bức xạ vũ trụ hoặc các nguyên tố hóa học có khả năng dẫn đến sự sống trong dải Ngân Hà. Năm 1972 ông Riệu xác định được vụ nổ trên chòm sao Thiên Nga và đó được coi là một trong những phát hiện quan trọng trong ngành Thiên văn. Viện Hàn lâm khoa học Pháp đánh giá cao các công trình nghiên cứu của ông Nguyễn Quang Riêu. Với đóng góp đó năm 1973 ông được Đài Thiên văn Paris trao giải thưởng. Ông Nguyễn Quý Đạo cũng rất thành công trong nghề nghiệp của mình. Ông là tác giả của hơn 300 tài liệu nghiên cứu khoa học và là chủ nhân của ba bằng sáng chế, được nhiều trường đại học trên thế giới mời thuyết trình.
Có một điều đặc biệt là cả hai anh em ông Nguyễn Quang Riệu và ông Nguyễn Quý Đạo tuy sống nhiều năm ở nước ngoài nhưng vẫn nặng lòng với quê hương, đất nước. Trong các dịp trò chuyện với hai ông, tôi, người viết bài này, đã từng được nghe các ông hào hứng kể về cảm giác vui sướng của mình khi nghe tin Việt Nam chiến thắng ngoại xâm, tái lập hòa bình. Với các ông, hòa bình không chỉ mang lại hạnh phúc cho người dân trong nước mà còn tạo điều kiện để hai anh em ông về quê góp phần cống hiến cho quê hương. Sau ngày đất nước thống nhất, hai ông đều về nước rất sớm. Kể từ đó đến nay hai anh em ông Nguyễn Quang Riệu và Nguyễn Quý Đạo đã về Việt Nam nhiều lần. Ông Nguyễn Quang Riệu thì tham gia các khóa giảng dạy về vật thiên văn tại các trường đại học, nói chuyện về khoa học vũ trụ, làm việc với các cơ quan hữu quan Pháp để xin các xuất học bổng cho sinh viên Việt Nam. Ông còn viết sách về thiên văn bằng tiếng Việt và xuất bản ở trong nước để phổ biến kiến thức về vũ trụ học cho mọi người. Tôi đã từng dự một buổi nói chuyện của ông, thấy ông hào hứng, say sưa nói về vụ nổ bigbang, về vũ trụ thuở sơ khai, về các hành tinh và các thiên hà với các cử tọa mà đa số đều là những người chưa biết gì nhiều về thiên văn học. Điều đó cho thấy ông Riệu say mê công việc của mình như thế nào. Dường như với ông, quan sát các vì sao, nghiên cứu đời sống bí ẩn của chúng là một niềm hạnh phúc và ông muốn chia sẻ niềm hạnh phúc đó cho tất cả mọi người.

Để phổ biến các hiểu biết về khoa học thiên văn và khoa học môi trường tới nhiều người, ông viết một loạt sách khoa học thuộc loại dễ đọc bằng tiếng Việt, trong đó các cuốn như “Phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại”, “Lang thang trên dải Ngân Hà”, “Sông Ngân khi tỏ khi mờ”, “Bầu trời tuổi thơ” và “Con đương đến với những vì sao” để in và xuất bản tại Việt Nam.

Giống như anh mình, ông Nguyễn Quý Đạo cũng luôn quan tâm tới đất nước và tìm cách đóng góp công sức tài năng cho quê hương. Trong những lần về nước ông Đạo đã cùng các nhà khoa học Việt Nam thực hiện nhiều công trình khoa học có giá trị. Ông rất quan tâm đến việc đào tạo các nhân tài cho Việt Nam và đã từng kiến nghị Nhà nước mạnh dạn đầu tư xây dựng cơ sở trang thiết bị nghiên cứu hiện đại nhằm tạo điều kiện làm việc cho các nhà khoa học trong nước, đồng thời góp phần thu hút chất xám của kiều bào cũng như chất xám của các nhà khoa học trên thế giới, mở ra các cơ hội hợp tác quốc tế, đưa đến việc thực hiện các công trình nghiên cứu mang tầm vóc quốc tế ngay tại Việt Nam. Ông Đạo đã được trao danh hiệu “Vinh danh nước Việt 2005”, do có nhiều đóng góp cho đất nước.

http://baodaidoanket.net/ddk/mdNews.ddk?masterId=90&categoryId=218&id=19504



            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org



GS Tạ Quang Bửu, tấm gương và những lời căn dặn

Vietsciences-Nguyễn Lân Dũng              31/03/2010

           Trong những ngày này, khi nói đến những giải pháp giải quyết những bất cập, lạc hậu, bệnh hình thức, giả dối kéo dài trong nền giáo dục nước nhà, nhiều trí thức thường nhắc đến tấm gương và những di huấn của GS Tạ Quang Bửu (1910-1986), Bộ trưởng bộ Quốc phòng thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp và Bộ trưởng bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp đầu tiên, nhà bác học lớn của đất nước, một “Lê Quý Đôn thời đại Hồ Chí Minh". Đó là một nhà trí thức từ hơn 40 năm trước đã kiên tâm phấn đấu cho một nền giáo dục “thực dạy, thực học", "học đi đôi với hành" và đã sớm chỉ ra rằng đất nước không thể tiến lên được nếu không thanh toán được một nền sản xuất không có kỹ thuật và một nền kỹ thuật thiếu cơ sở khoa học, tức là nếu không sớm vươn lên một nền kinh tế tri thức như cách gọi hôm nay. 

            Giáo sư Bửu có sự uyên bác rất kỳ lạ. Tôi chỉ nói một khía cạnh nhỏ, đó là lĩnh vực Sinh học- một lĩnh vực khác hẳn với chuyên ngành Toán học, chuyên ngành mà ông đã lấy bằng Tú tài Toán từ năm 1929, và sau đó là những năm được đào tạo chính quy ở các Đại học Paris, Bordeaux (Pháp) và Oxford (Anh)... 
         Trong kháng chiến chống Pháp, khi bố tôi làm Giám đốc Giáo dục Liên khu X, có lần Cụ đã mang về nhà cuốn sách “Sống” và cuốn “Vui sống” do GS Tạ Quang Bửu viết, được in trên giấy dó. Tôi còn nhỏ quá nên đọc không hiểu. Sau này học đại học chuyên ngành Sinh học tôi mới có điều kiện đọc lại. 
          Phải nói là kỳ lạ vì GS Bửu viết ra những điều rất uyên bác ấy vào năm 1948, nghĩa là 5 năm trước khi J.D. Watson và F.H.C. Crick khám phá ra cấu trúc ADN, mở màn cho thời đại Sinh học phân tử. Thời ấy mà GS Bửu đã viết được: Ngoài chromosome (nay gọi là nhiễm sắc thể- NLD) thì tế bào chỉ chứa những hóa chất không có gì đặc sắc... Nhưng số đặc tính trong một con người lớn hơn số chromosome nhiều, nên các đặc tính ấy chỉ có thể chiếm những phần tử rất bé của chromosome: mỗi đặc tính sẽ chiếm một căn cứ gọi là gen...Một chromosome là một chuỗi gồm 2000 gen và như thế chiều dài của mỗi gen không quá 3/10000mm hay ba trăm Angstrom. Theo đó một gen dài bằng một trăm lần khoảng cách giữa hai nguyên tử trong một khí. Còn bao nhiêu khái niệm hiện đại khác mà GS Bửu ghi bằng tiếng Anh. Bất kỳ nhà Sinh học nào đọc lại cuốn sách mỏng này và nhớ rằng GS Bửu viết ra vào năm 1948 thì chỉ có thể từ ngạc nhiên đến khâm phục.
           Ngày nay, khi các nhà Sinh học trên thế giới bắt đầu chuyển sang nghiên cứu Sinh học lượng tử (Quantum Biology) thì ngay trong cuốn sách rất mỏng kia GS Bửu đã khẳng định được rằng: Gen, phân tử khổng lồ, theo thuyết Delbruck, cũng là một hệ thống phải cắt nghĩa bằng những định luật của Lượng tử học. Tiếc rằng tác phẩm này GS Bửu viết bằng tiếng Việt chứ nếu không chắc hẳn phải được coi là một trong những trước tác kinh điển của giới Sinh học quốc tế, vì trong đó đã có những tiên đoán rất khoa học. 
         Về những uyên bác trong Toán học và Vật lý học của GS Bửu chắc chúng ta đều đã biết rõ. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi biết GS Bửu là người cùng KS. Phạm Quang Lễ (tức GS Trần Đại Nghĩa sau này) đã lên Thái Nguyên thử đạn bazôca của Mỹ ngay sau khi KS Lễ vừa theo Bác Hồ từ Pháp về Hà Nội. Ông không chỉ uyên bác về kiến thức mà rất tài hoa trong việc viết tài liệu phổ biến khoa học. Cái khó mà tôi cố học ở ông là: viết thế nào để ai đọc cũng thấy những cái mới nhưng ai đọc cũng hiểu được, hay ít nhiều hiểu được nội dung chủ yếu.

         Sự uyên bác của GS Bửu gắn liền với tinh thần tự học suốt đời của ông. Ông chỉ có bằng Cử nhân trong tay, cho nên khi có người hỏi bằng cấp nào cao nhất mà ông có thì người ta đồn rằng ông đã trả lời là Bằng bơi lội do Hoàng gia Anh cấp. 
         Ông miệt mài đọc sách và chọn toàn những quyển cốt lõi nhất để đọc. Thí dụ như về Sinh học ông chọn cuốn Was ist leben? của Erwin Schrödinger qua bản dịch tiếng Đức (vì không có nguyên bản tiếng Anh). Ông thông thạo tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga và cả chữ Hán nữa. Khi đã ở cương vị lãnh đạo cao, GS Bửu vẫn đều đặn đến thư viện khoa học để tự chọn sách mượn về đọc. 
       Là người lãnh đạo ngành đại học và trung học chuyên nghiệp trong 11 năm trời, GS Bửu đã đặt nền móng cho sự nghiệp đào tạo không chỉ cho hai ngành này mà cả cho ngành giáo dục phổ thông nữa. 
         Xin nhắc lại một số ý kiến mà GS Bửu đã từng phát biểu: Mục đích phấn đấu của chúng ta là làm cho học sinh tốt nghiệp lớp 10 phải biết làm một số việc như biến đổi đại số, giải một số phương trình đại số, tính được một số đạo hàm, vẽ một số đồ thị; còn về mặt hình học cũng phải biết làm một số động tác cần cho các chứng minh và cho việc dựng hình. Biết làm là chủ yếu còn biết nhiều về toán hoc chỉ là yêu cầu phụ và chúng ta phải làm sao cho học sinh thông qua biết làm mà biết nhiều và biết sâu...Thầy cần tránh nói sai để sau phải cải chính lại, vì cải chính chỉ xóa bỏ cái sai của thầy chứ không xóa được cái sai mà trò đã tiếp thu...Ở bậc phổ thông, bài tập nên theo sát từng đợt các bài giảng để học sinh nắm vững định nghĩa và quy tắc. Rõ ràng không cần nhiều bài tập mà cần một số ít nhưng thật tiêu biểu, nhất định phải làm được... Thần đồng toán học là một quá trình xây dựng chứ không phải là một hiện tượng bẩm sinh... Chúng ta nên kiên quyết tập cho học sinh từ bé cân nhắc trước khi viết, biết quý sự viết ít mà đúng...Hình như chúng ta chưa làm được bao nhiêu so với các lời căn dặn của GS Bửu. 
         Trong gần một thập kỷ phụ trách việc xây dựng và quản lý nền khoa học và công nghệ nước ta, GS Bửu cũng đã có biết bao chính kiến cơ bản và thỏa đáng. Chúng ta không thể quên những lời chỉ bảo của ông, chẳng hạn như: Kỹ thuật là nhập cảng, là bắt chước, rồi cải tiến, sáng tạo trong cái bắt chước... Tất nhiên chúng ta càng phải sáng tạo.Nhưng sáng tạo ở đâu? Sáng tạo thế nào? Sáng tạo để làm gì? Chưa thật rõ ràng lắm. Phải chăng chúng ta phải sáng tạo để nâng cao hiệu suất và chất lượng? Ý thức về chất lượng, kỷ luật và chất lượng của chúng ta còn thấp. Cứ như vậy mãi, sẽ khó mà có tiến bộ kỹ thuật, đừng nói gì đến cách mạng kỹ thuật… Chúng ta phải thanh toán càng nhanh càng tốt hiện tượng sản xuất không có kỹ thuật. Hơn nữa, chúng ta phải tiến đến thanh toán kỹ thuật không có cơ sở khoa học... Trường chúng ta phải là trường vừa học vừa làm để đào tạo ra những người vừa làm vừa học...
         GS Tạ Quang Bửu có một nhân cách hết sức quý giá. Chưa bao giờ ông lo nghĩ cho riêng bản thân mình. Nghe nói ông dùng chiếc TV đen trắng cho mãi đến khi người con rể tặng ông một chiếc TV màu. Ông rất gần gũi với mọi người và biết chọn trong mỗi ngành những người giỏi để trực tiếp giao nhiệm vụ. Ông giao cho những việc rất cụ thể và tận tình hướng dẫn để có thể làm bằng được. Đi công tác địa phương ông kéo những cán bộ này đi theo và chỉ định những nhiệm vụ khoa học cần giải quyết. Càng giỏi càng khiêm tốn và càng biết tin dùng lớp trẻ. Đó là bài học không phải ai cũng có thể học được.


       Giáo sư Tạ Quang Bửu đã chia tay với chúng ta 24 năm rồi, nhưng tấm gương và những lời căn dặn của ông luôn còn mãi trong những người được có dịp làm việc với ông, những học trò của ông và tất cả những ai được biết đến về tài năng và nhân cách của ông.


            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org    Nguyễn Lân Dũng

Tin tức / Việt Nam

Chàng lao công gốc Việt trở thành khoa học gia không gian vũ trụ của Mỹ


Tiến sĩ Phạm Đăng Khánh.

Trà Mi-VOA
27.06.2015

Một thanh niên làm lao công cho các cửa hàng trong những khu mua sắm khi sang Mỹ tỵ nạn trở thành một nhà khoa học không gian vũ trụ của Trung tâm Thí nghiệm Nghiên cứu Không quân Hoa Kỳ sau 25 năm miệt mài vượt khó vươn lên.

Đó là câu chuyện thành công của Tiến sĩ Phạm Đăng Khánh, cháu nội đích tôn của sử gia nổi tiếng Phạm Văn Sơn và là cháu ngoại của nhà thơ lừng danh một thời Bàng Bá Lân.

Đến Mỹ năm 1991 theo diện HO vì bố mẹ là cựu tù nhân chính trị từng làm việc cho chính phủ Mỹ trước năm 1975, chàng thanh niên 19 tuổi quyết tâm theo đuổi ‘giấc mơ Mỹ’, phấn đấu tiến thân bằng con đường học vấn.

Ý chí kiên trì và những nỗ lực không ngừng đã mang về cho anh những thành quả đáng nể. Trong số này phải kể tới hàng trăm bài viết nghiên cứu khoa học cùng hàng chục giải thưởng của Không quân Hoa Kỳ như Huy chương Không quân về Thành tựu dân sự, Giải Kỹ sư Không quân Xuất sắc, Bài nghiên cứu Xuất sắc nhất năm. Anh cũng là thành viên phê bình trong các ủy ban luận án Tiến sĩ và Thạc sĩ tại các trường đại học Mỹ, cố vấn nghiên cứu cho các cơ quan khoa học danh tiếng của Mỹ như Cơ quan Phòng thủ Tên lửa, Cơ quan Dự án Nghiên cứu Quốc phòng cao cấp, Hội Kỹ thuật Khoa học Quốc phòng Hoa Kỳ..v..v..

Tạp chí Thanh niên VOA hôm nay mời các bạn cùng gặp gỡ tấm gương thành công Phạm Đăng Khánh, niềm tự hào của người Việt hải ngoại.

Bấm vào đây để nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn
******************************************************************************


******************************************************************************
TS. Khánh: Khi tôi đến Mỹ, mọi sự đều bỡ ngỡ về văn hóa, lịch sử, phong tục-tập quán. Khó khăn lớn nhất đối với tôi và cả gia đình là không có đủ khả năng đọc hiểu và nói tiếng Anh. Bản thân tôi phải bắt đầu lại con đường học vấn từ lớp 10. Các khó khăn về kinh tế người tỵ nạn nào cũng phải đương đầu, nhưng mình cũng phải cố gắng. Tôi cùng với em trai mỗi sáng sớm phải đi làm thêm. Sáng sớm, chúng tôi đi dọn dẹp, lau chùi các cửa hàng to trong các khu thương mại lớn. Mình làm 2-3 tiếng/ngày, và đi học cho tới 10 giờ đêm. Lên thạc sĩ, mình được học bổng. Mình biết tiết kiệm nên tiền học bổng cũng đủ trang trải các chi phí như đi lại, xe cộ, bảo hiểm.

Trà Mi: Với những cái giá đã trả để có được vị trí hôm nay, nhìn lại, anh nghiệm ra cho mình điều gì?

TS. Khánh: Tôi nghĩ mình lúc nào cũng nên luôn làm việc chăm chỉ, không được hài lòng với những gì đạt được, và con đường đó lúc nào cũng đòi hỏi những hy sinh. Chẳng hạn như vì công việc, thời gian của tôi dành cho gia đình đã bị ít đi.

Trà Mi: Tư chất ham học, nỗ lực, và sự may mắn chiếm tỷ lệ thế nào trong sự thành công của anh?

TS. Khánh: Tinh thần học hỏi và sự nỗ lực, hai tố chất này cộng lại chiếm 90%. Còn lại là do sự may mắn hay do cơ hội chính mình tự tạo nên. Những người tỵ nạn như tôi khi gặp khó khăn mà không biết cách giải quyết vấn đề và đương đầu với khó khăn một cách tích cực thì rất khó khăn. Làm sao để vượt qua và tìm phương hướng tùy thuộc vào bản thân mỗi người kèm theo các yếu tố tác động xung quanh từ gia đình.

Trà Mi: Nếu đặt tất cả những bí quyết thành công anh vừa kể vào môi trường ở Việt Nam, anh nghĩ đích đến của mình có giống ngày hôm nay không?

TS. Khánh: Chị hỏi một câu rất sát thực tế. Những tố chất về nỗ lực, ham học, sự giúp đỡ của những người xung quanh thì ở trong hay ngoài nước mình đều có được, nhưng môi trường nuôi nấng nghiên cứu và các chính sách hay những khuyến khích từ các cơ quan, hội đồng khoa học rất quan trọng. Có thể trong nước đang dần dần có môi trường này nhiều hơn so với những năm trước, nhưng những điều kiện đó không thể nào bằng được bên Mỹ này.

Trà Mi: Có nhiều con đường để thành công, vì sao anh chọn theo đuổi con đường khoa học đầy cam go đòi hỏi rất nhiều kỳ công và chất xám để tiến thân?

TS. Khánh: Lĩnh vực khoa học luôn năng động, thay đổi, biến động nên tôi muốn đóng góp một phần nào đó cho hướng đi này.

Trà Mi: Thành tựu hôm nay đạt được trên đất Mỹ có ý nghĩa thế nào đối với anh, một người tỵ nạn gốc Việt?

TS. Khánh: Tôi vẫn luôn tự hào mình là người Việt Nam và đề ra mục tiêu dài hạn là hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu sáng tạo do người Việt đứng đầu hoặc các chuyên gia người Việt ở đây.

Trà Mi: Vì sao mục tiêu đó chỉ mới giới hạn ở cộng đồng người Việt ở Mỹ? Anh có bao giờ nghĩ tới mình có thể làm gì để đóng góp, giúp đỡ nơi chôn nhau cắt rốn của mình chăng?

TS. Khánh: Câu hỏi này tương đối rất khó. Bất kỳ thể chế nào muốn thu hút nhân tài về giúp nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu đất nước trân trọng sự phát triển về khoa học, thúc đẩy và động viên tinh thần nghiên cứu khoa học thì ai cũng muốn về giúp đỡ cả. Hiện nay, tôi biết vài nhân tài người Việt bên này đang hợp tác với các cơ quan hữu trách ở Việt Nam để nâng cấp giáo dục đại học. Nhân tài người Việt ở nước ngoài đang dần dần trở về hợp tác và giúp đỡ phát triển kinh tế trong nước. Tôi nghĩ nếu môi trường và các điều kiện trong nước thích hợp với các nhân tài bên này và tạo điều kiện cho họ phát triển tài năng và lương bổng gần gần với bên này thì dần dần họ sẽ trở về thôi.

Trà Mi: Theo ý kiến của Tiến sĩ, học vấn cao và vị trí lãnh đạo có phải là thước đo chính xác về sự thành công của người trẻ hay không?

TS. Khánh: Tôi nghĩ học vấn vẫn là một công cụ nhiều tiềm năng. Về tinh thần lãnh đạo, đối với giới trẻ, nếu mình có vị trí cao trong một cơ quan hay tổ chức nào đó, mình nên truyền đạt tinh thần đóng góp tích cực và tinh thần tự nguyện. Tinh thần lãnh đạo và học vấn, hai điều này phải luôn đi đôi với nhau.

Trà Mi: Một lời khuyên cho các bạn trẻ ngưỡng mộ thành quả anh đạt được, anh sẽ nói gì?

TS. Khánh: Tôi muốn gửi đến các bạn trẻ một lời khuyên đơn giản thôi, đó là phải luôn luôn làm việc tích cực, ham học và hướng tới. Đây là những bí quyết đã giúp tôi thành công. Và mình cũng không nên quên nguồn gốc gia đình của mình và bản thân mình là ai.

Trà Mi: Xin cảm ơn Tiến sĩ Khánh rất nhiều về thời gian dành cho cuộc trao đổi hôm nay.


Chùm ảnh GS Bùi Trọng Liễu trong cuốn sách «Học gần Học xa»

Vietsciences        10/03/2010




 

Ảnh 1: Bùi Trọng Liễu (đứng giữa) và hai con, cùng trong lễ phục giáo sư đại học Pháp, 2003.
Ảnh 2 : Vợ chồng thuở chưa cưới, ảnh chụp trước lâu đài Chantilly, 1961.
Ảnh 3 : Với ông bà Tạ Quang Bửu vào dịp tác giả được mời về nước (1970), thí điểm cho việc Việt kiều về nước làm việc ngắn hạn. Lúc đó ông Bửu là bộ trưởng bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (ảnh chụp tại nhà ông bà Bửu phố Hoàng Diệu, Hà Nội).
Ảnh 4: Với GS anh hùng lao động Lương Định Của, khi Bùi Trọng Liễu thăm viện « Nghiên cứu cây lương thực » ở Hải Hưng, trong chuyến về nước làm việc năm 1970.
Ảnh 5 : Với bộ trưởng Nguyễn Văn Hiếu (trưởng đoàn) và bà Nguyễn thị Chơn (đoàn viên), phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tại Hội nghị hiệp thương hai bên miền Nam ở La-Celle-Saint-Cloud, sau Hiệp định Paris, 1973.
Ảnh 6 : Thăm bảo tàng họa sĩ Fernand Léger, với các ông Phạm Ngạc (bên trái trong ảnh) và Đoàn Hựu (bên phải trong ảnh), thuộc phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris. Bảo tàng Fernand Léger là một trong những địa điểm đàm phán bí mật Lê ĐứcThọ-Kissinger. Ảnh chụp 1973.
Ảnh 7 : Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Ban Chấp hành Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam tại Pháp, tại Sứ quán Việt Nam ở Paris, trong chuyến thăm chính thức nước Pháp của Thủ tướng, 1977. Bùi Trọng Liễu, chủ tịch Hiệp hội, là người đứng ngoài cùng (thứ tư phía bên trái Thủ tướng).
Ảnh 8 : Vợ chồng Bùi Trọng Liễu (hàng ghế thứ nhì, phía bên phải tấm ảnh) tại Hội nghị « liên Mỹ » về giảng dạy Toán học, Caracas 1975.
Ảnh 9 : Tại Hội nghị Toán học toàn quốc, Hà Nội 1977. Từ phải sang trái : Phan Đình Diệu (người thứ 4), Lê Văn Thiêm (người thứ 6), bộ truởng Trần Quang Huy, trưởng Ban Việt kiểu Trung ương (người thứ 11), Bùi Trọng Liễu (người thứ 16).
Ảnh 10 : Năm 1981, một Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp về nước theo lời mời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng và Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bùi Trọng Liễu, trưởng Đoàn, tại nhà khách Chính phủ, Hà Nội 1981.
Ảnh 11 : Với Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Thủ tướng, tên gọi thời đó) Phạm Văn Đồng, tại phủ Chủ tịch, Hà Nội 1981.
Ảnh 12 : Ông Hoàng Quốc Việt, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc (người thứ nhất bên trái ảnh), Bộ truởng Xuân thủy (người thứ nhì) và Bùi Trọng Liễu, tại trụ sở của Mặt trận, Hà Nội 1981.
Ảnh 13 : Trong buổi làm việc của Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp với Bộ trưởng Nguyễn Đình Tứ (bên phải tấm ảnh), Bộ Đại học, Hà Nội 1981.
Ảnh 14 : Trưởng Ban Khoa giáo Bùi Thanh Khiết (bên trái tấm ảnh) tiếp Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp. Từ trái sang phải : Phạm Thị Anh Thư (đoàn viên), Bùi Trọng Liễu (trưởng đoàn), thứ trưởng Nguyễn Ngọc Trân và Nguyễn Quang Tiến (thư ký đoàn), Hà Nội 1981.
Ảnh 15 : Trong buổi Bộ trưởng Đặng Thí, trưởng Ban Việt kiều Trung ương (người đứng) tiếp Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp, Hà Nội 1981.
Ảnh 16 : Khai mạc Đại hội 4 Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam tại Pháp, Paris 1982.
Ảnh 17 : Bia chữ Nôm khắc bài ký về việc thành lập Trung tâm Đại học « dân lập » Thăng Long năm 1988. Bia gắn tại 34 Hàn Thuyên, Hà Nội, trụ sở văn phòng lúc mới thành lập. Bia chữ quốc ngữ cũng gắn tại địa chỉ này.
Ảnh 18 : Bia khắc bài thơ của Bùi Trọng Liễu tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Toàn quốc kháng chiến, 1946-1996.
Ảnh 19 : Từ trái sang phải : Hoàng Tụy, Lê Văn Thiêm, Colette (vợ Bùi Trọng Liễu), Nguyễn Văn Đạo, Henri Van Regemorter (chủ tịch Ủy ban Hợp tác Khoa học và Kỹ thuật vói Việt Nam, Comité pour la Coopération Scientifique et Technique avec le Vietnam). Ảnh chụp tại nhà Bùi Trọng Liễu cuối năm 1981, khi Đoàn các GS Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy, Nguyễn Văn Đạo ghé qua Pháp trong chuyến đi thăm Mỹ.
Ảnh 20 : Bia thứ nhất trong Văn Miếu, trên đó có khắc tên Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ, cụ tổ bên ngoại của Bùi Trọng Liễu. Tên cụ Nguyễn Như Đổ là tên thứ nhì trên bia này.
Ảnh 21 : Tiếp GS Nguyễn Đình Trí (Đại học Bách Khoa Hà Nội) và GS Phan Đình Diệu (lúc đó còn công tác ở Viện Khoa học Việt Nam, sau này mới chuyển sang Đại học Quốc gia Hà Nội) ghé qua Pháp trong chuyến đi thăm Mỹ. Từ phải sang trái : Phan Đình Diệu và Nguyễn Đình Trí. Ảnh chụp tại nhà Bùi Trọng Liễu ở Pháp năm 1980.
Ảnh 22 : Tiếp VS anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa. Ảnh chụp tại nhà Bùi Trọng Liễu ở Pháp năm 1983.
Ảnh 23 : Lễ « Sinh phong » ông bà nội của Bùi Trọng Liễu ở quê Nhuận Ốc, năm 1938 .
Ảnh 24 : Nhà thủy tạ trên hồ bán nguyệt, ở « sinh phần » ông bà nội của Bùi Trọng Liễu ở làng Nhuận Ốc. Các công trình xây dựng này đã bị hủy trong chiến tranh Việt-Pháp và trong thời cải cách ruộng đất.



           http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org 

Bùi Trọng Liễu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bùi Trọng Liễu (sinh 28 tháng 9 năm 1934Ninh BìnhViệt Nam - mất 5 tháng 3 năm 2010 tại Bệnh viện Antony, ngoại ô phía Nam ParisPháp) là Tiến sĩ nhà nước về khoa học, ngành Toán (Docteur d’Etat ès sciences mathématiques), là nghiên cứu viên tại Direction des Etudes et Recherches de l'EDF (1959-1963) và là giáo sư đại học (Lille 1963-1969, Paris 1969-2003).[1]
Ông sinh ra trong một gia đình trí thức ở làng Nhuận Ốc, xã Khánh Cường, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh BìnhViệt Nam. Bố ông là Bùi Văn Thiệp, một nhà tân học, từng học Trường Bưởi và Trường Cao đẳng Pháp chính Hà Nội, ra làm quan đến chức Tuần phủ Thái Nguyên, rồi Tuần phủ Phúc Yên lúc trước Cách mạng Tháng Tám.
Ông sang Pháp học và lập nghiệp tại đây. Vợ ông là Colette, một người Pháp, là tiến sĩ quốc gia về toán học, phó giáo sưĐại học Paris 4. Con trai đầu là Bùi Khảo Mạc, giáo sư Đại học Compiègne. Con trai thứ hai là Bùi A Lanh, phó giáo sư Đại học Picardie (Amiens).[2]
Thuở nhỏ, bên cạnh việc học tiếng Pháp, ông còn học chữ Hán đến mức đọc hiểu bộ tiểu thuyết cổ điển Tam Quốc chí diễn nghĩa. Theo gia đình sang Pháp từ năm 1950, khi mới 15 tuổi, gần cả cuộc đời sống nơi đất khách quê người, ông vẫn sành tiếng Việt, không chỉ trong lời ăn tiếng nói ngày thường, mà cả trong văn chương nghị luận, tranh biện hay trần thuật, hồi ký, tùy bút, tiểu phẩm.[2]
Ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ quốc gia về khoa học toán học năm 28 tuổi. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm giáo sư Đại học Lille (1963-1969), rồi giáo sư Đại học René Descartes (Paris 5) từ năm 1969 cho đến khi về hưu. Ông là một trong số rất ít người Việt sớm được công nhận chức danh giáo sư đại học ngành toán ở Pháp nói riêng, cũng như ở phương Tây nói chung.[2]
Năm 1970 ông đã trở về thăm quê hương, làm việc với Ủy ban Khoa học Nhà nước, đến năm 1981, ông làm trưởng đoàn của đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp về nước theo lời mời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.[1]
Ngay từ năm 1988, khi công cuộc Đổi Mới vừa bắt đầu, ông đã đứng ra sáng lập Trường Đại học Thăng Long[3] tại Hà Nội, trường đại học dân lập đầu tiên trong chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không xin tài trợ của Nhà nước, về giảng dạy và quản lý theo quan niệm mới, phù hợp với yêu cầu của xã hội và tình hình quốc tế. Trong những ngày đầu, vợ chồng ông phải dành một phần tiền lương của mình ở Pháp để gửi về nước. Ông bà đã thành lập tại Pháp một Hội Tương trợ Đại học Pháp - Việt (Amitié Universitaire France-Vietnam) để quyên góp tiền bạc, vật dụng từ các cá nhân, đoàn thể bên Pháp gửi về, giúp trường trang trải các chi phí và hỗ trợ các học bổng miễn phí...[4][5].

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Ông là tác giả của 4 cuốn sách đã xuất bản tại Việt Nam[1] gồm:
  • Tự sự của người xa quê hương (tên cũ là Chuyện gia đình và ngoài đời), nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội 2004
  • Chung quanh việc học, nhà xuất bản Thanh niên 2004
  • Học gần, Học xa, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội 2005
  • Học một sàng khôn, nhà xuất bản Tri thức Hà Nội 2007.
Cuốn sách thứ 5 là một tạp ký còn bỏ ngỏ, đó là Hướng về quê cũ lúc chiều tà gồm các bài báo của ông đăng trên báo.[6]
Ông viết hàng trăm bài báo, tiểu luận, góp ý về cải cách giáo dục ở Việt Nam. Bài nào của ông cũng thể hiện tấm lòng dành cho quê hương. Ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục Đại học ở Việt Nam.[7]




 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị. 

 Geothe



*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran