FRANZ SCHUBERT
DẠ KHÚC
Ta đợi chờ em ,
trong màn đêm hiu quạnh
Tiếng cung đàn ,
dìu dặt họa lời thơ
Làn gió thoảng ,
đưa hương bên lầu vắng
Réo rắt khúc ca , từ những nẻo xa mờ
Chim muông giao hòa -
điệu tình ca muôn thuở
Ríu rít lao xao - như hơi thở thầm thì
Vang từ xa xăm ,
bao lời ta đắm đuối
Của một người
ôm tha thiết mối tình si
Trên cành lá
gió xạc xào lời hát
Như tim ta
rộn rã biết yêu người
Gió hãy mang những tâm sự khúc nôi
Em có hay chăng
mối tình ta câm nín
Đừng e ấp than van
khi nụ yêu đang chín .
Trái tim này luôn
nồng cháy nỗi hân hoan ,
Xin yêu người muôn kiếp với thời gian
Thì xin mãi không rời xa nhau nhé .
Khi trái tim biết yêu ,
Nỗi han hoan trần thế .
Tôi vẫn mong chờ
chờ em mãi người ơi .
Đêm khuya tôi lắng nghe dạ khúc
Trần hồng Cơ
28/07/2015
** Lời gốc tiếng Đức - Ständchen
Leise flehen meine Lieder
Durch die Nacht zu dir;
In den stillen Hain hernieder,
Liebchen, komm zu mir!
Flüsternd schlanke Wipfel rauschen
In des Mondes Licht;
Des Verräters feindlich Lauschen
Fürchte, Holde, nicht.
Hörst die Nachtigallen schlagen?
Ach! sie flehen dich,
Mit der Töne süßen Klagen
Flehen sie für mich.
Sie verstehn des Busens Sehnen,
Kennen Liebesschmerz,
Rühren mit den Silbertönen
Jedes weiche Herz.
Laß auch dir die Brust bewegen,
Liebchen, höre mich!
Bebend harr' ich dir entgegen!
Komm, beglücke mich!
https://www.youtube.com/watch?v=ZpA0l2WB86E
Bản Dạ khúc của Franz Schubert (tiếng Đức: Ständchen) được viết lời bởi Ludwig Rellstab. Bản này có số thứ tự 4, nằm trong quyển 1 của tập Schwanengesang (Bài ca thiên nga). Đây là tuyển tập bài hát được sưu tầm sau khi tác giả Schubert qua đời, trong danh sách tác phẩm của nhà soạn nhạc nó có số thứ tự D 957. Franz Liszt là người sau này đã chuyển thể các tác phẩm trong tập Schwanengesang cho độc tấu piano.
Dạ khúc (Serenade) là một thể loại ca khúc để hát vào buổi tối, đặc biệt cho giọng nữ. Ở phương Tây thể loại ca khúc này gọi là "Serenade" và nó rất được nhiều nhạc sĩ ưa chuộng, sáng tác... cho nên Dạ khúc không chỉ riêng một tác phẩm riêng biệt của một nhạc sĩ nào cả. Nhiều nhạc sĩ đã sáng tác trên chủ đề này, nhưng có lẽ được biết đến và ưa chuộng nhiều nhất (cho mãi đến ngày hôm nay)[cần dẫn nguồn] vẫn là Serenade của nhạc sĩ thiên tài người Áo Franz Schubert.
Franz Schubert chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi 31 năm nhưng đã kịp để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ ở nhiều thể loại. Schubert còn được mệnh danh là "Vua Lied" vì ông sáng tác rất nhiều lied (số nhiều: Lieder), theo tiếng Đức nghĩa là đoản ca, có giá trị. Có lẽ lied của Schubert được nhiều người yêu thích nhất[cần dẫn nguồn] là lied có tên "Ständchen" này. "Ständchen" đã được dịch sang rất nhiều ngôn ngữ và được chuyển soạn cho nhiều nhạc cụ khác chơi dưới cái tên "Serenade" và cái tên phổ biến nhất là "Serenade của Schubert"
http://garry.holding.pagesperso-orange.fr/schubert/img/titres/maintitle.jpg |
Bài Dạ Khúc bất hủ mà Franz Schubert sáng tác là để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu trộm nhớ. Ở châu Âu ngay từ thời trung cổ các chàng trai thường có lối tỏ tình bằng cách mượn âm nhạc, ban đêm đến đứng dưới cửa lầu "người đẹp" tự thể hiện bằng tiếng đàn và giọng hát của chính mình. Những bài nhạc lãng mạn này gọi là "serenade". Serenade thời Trung cổ và Phục hưng được biểu diễn không theo một hình thức đặc biệt nào, ngoại trừ nó được một người hát tự đệm bằng nhạc cụ có thể mang theo được (guitar, mandolin...).
Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ một bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng, Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái tim cho Schubert.
http://www.naxos.com/SharedFiles/Images/Composers/Pictures/21172-2.jpg |
Những lời nỉ non, thổn thức của ca từ quyện với một giai điệu lãng mạn, quyến rũ, bản Dạ Khúc Schubert là một thông điệp tình yêu chuyển tải bẳng âm nhạc tuyệt vời, một bài lied hoàn hảo cho kẻ tỏ tình trong đêm.
Nhưng hơn thế, nhạc phẩm "Dạ Khúc" của Schubert là một bức tranh toàn bích, sâu lắng... mang dáng dấp hơi thở không chỉ của thời đại ông mà của muôn mọi thời đại. Nhạc sỹ thiên tài đã nói lên tiếng lòng mình trong thời khắc đêm về, ngoài niềm khắc khoải thường tình về tình yêu đôi lứa, còn như thân phận con người nhỏ nhoi đầy bất trắc trước mênh mông vũ trụ. Bài nhạc có giai điệu rất đẹp, trữ tình, lai láng nhưng không trầm mặc, buồn nhưng vẫn phảng phất đâu đó niềm hy vọng và hoài bão hướng thiện (tác dụng bởi việc chuyển cung từ thứ sang trưởng ở đoạn kết). Schubert như nói lên tiếng lòng của muôn người, muôn thế hệ...
Trong lời dịch của ông, nhạc sỹ Phạm Duy đã cố gắng phác thảo tất cả những cung bậc trải nghiệm hết sức tinh tế về cảm xúc mà giai điệu bản Serenade khơi gợi nơi người thính giả. Lời dịch của ông tuy hy sinh sự chính xác của ngôn từ nhưng giàu tính thẩm mỹ của cảm nhận âm nhạc, một cảm nhận ông muốn hướng dẫn người thưởng ngoạn cũng cảm nhận như ông.
Franz Schubert
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Franz Peter Schubert (31 tháng 1 năm 1797 - 19 tháng 11 năm 1828) là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông đã sáng tác 600 Lieder, 9 bản giao hưởng trong đó có bản giao hưởng nổi tiếng "Unfinished Symphony" cùng các thể loại nhạc nghi lễ, nhạc thính phòng và solo piano. Ông được biết đến với các tác phẩm có giai điệu nhẹ nhàng và du dương.
Dù Schubert có khá nhiều người bạn ngưỡng mộ các nhạc phẩm của ông (như thầy giáo của ông Antonio Salieri, và ca sĩ nổi tiếng Johann Michael Vogl), tuy nhiên âm nhạc của Schubert thời đó không được thừa nhận rộng rãi nếu không muốn nói là rất hạn chế. Schubert chưa bao giờ đảm bảo được một công việc ổn định và thường xuyên phải nhờ đến sự ủng hộ của bạn bè và gia đình trong phần lớn sự nghiệp.
Schubert mất sớm, năm 31 tuổi, do hậu quả của bệnh thương hàn là thứ bệnh không chữa được thời đó. Vài thập kỷ sau khi Schubert qua đời, các tác phẩm của ông mới khẳng định được tên tuổi của mình, một phần nhờ công lao phổ biến của các nhạc sĩ cùng thời như Franz Liszt, Robert Schumann, Felix Mendelssohn.
Franz Schubert |
Tiểu sử
Franz Peter Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Viên, nước Áo. Bố ông, Franz Theodor Schubert, là thầy giáo nổi tiếng trong giáo khu, mẹ ông là người hầu của một gia đình giàu có trước khi lấy bố ông. Ông là một trong số 14 người con trong gia đình mà phần lớn đều chết yểu. Bố Schubert cũng là một nhạc sĩ, tuy không nổi danh nhưng là người thầy đầu tiên truyền dạy cho Schubert những hiểu biết về âm nhạc.
Schubert bắt đầu được cha dạy nhạc khi lên 5, một năm sau ông theo học trường Himmelpfortgrund và bắt đầu chính thức theo học âm nhạc. Năm 7 tuổi ông học với Michael Holzer, nhạc công organ và trường dàn đồng ca của nhà thờ địa phương.
Năm 1808 ông vào trường Stadtkonvikt với suất học bổng trong dàn đồng ca. Tại đây ông bắt đầu làm quen với các bản overture và giao hưởng của Mozart. Cùng thời gian đó ông còn thỉnh thoảng đến xem các vở opera, làm quen với các tác phẩm của các nhạc sĩ khác kém quan trọng hơn. Tất cả cá điều này tạo nên nền tảng âm nhạc vững chắc trong ông. Tại trường Stadtkonvikt ông cũng tạo dựng các mối quan hệ mà sau này sẽ cùng ông đi hết cuộc đời.
Thỉnh thoảng Schubert được giao chỉ huy dàn nhạc, Antonio Salieri, nhạc sĩ đối thủ của Mozart, cũng là nhạc sĩ hàng đầu đương thời bắt đầu chú ý đến tài năng trẻ, bỏ công đào tạo Schubert về lí thuyết âm nhạc và kĩ năng sáng tác. Thể loại nhạc thính phòng ghi dấu đặc biệt trong giai đoạn này, bản thân gia đình Schubert đã là một dàn nhạc thính phòng 5 người thường xuyên trình tấu với nhau trong các dịp lễ và các ngày chủ nhật. Trong thời gian ở Stadtkonvikt ông cũng kịp sáng tác nhiều tác phẩm thính phòng, một số ca khúc nghệ thuật, và bản giao hưởng số 1.
Cuối năm 1813, ông rời Stadtkonvikt trở về quê học làm thầy giáo. Năm 1814 ông trở thành giáo viên tại trường của bố ông. Ông cũng tiếp tục học với Salieri cho đến năm 1817.
Năm 1814, ông làm quen với Therese Grob, con của một nhà sản xuất lụa trong vùng đồng thời là một ca sĩ soprano đã trình tấu một số tác phẩm của ông như Salve Regina, Tantum Ergo, Mass in F. Mối quan hệ tình cảm cũng phát triển phức tạp và có nhiều khả năng Schubert muốn kết hôn với Grob nhưng vì nhiều lí do sự việc đã không thành. Năm 1816 ông gửi Grob một tập tác phẩm mà gia đình bà còn giữ đến đầu thế kỉ 20.
Năm 1815 là năm Schubert tập trung vào sáng tác, ông viết đến 9 tác phẩm cho nhà thờ, 140 ca khúc nghệ thuật (lieder), một bản giao hưởng.
Phong cách sáng tác
Giai đoạn Âm nhạc Cổ điển - Trường phái cổ điển Vienna (1730 -1820) khép lại với những tên tuổi lừng lẫy như Haydn, Mozart, Beethoven để mở ra một giai đoạn mới - giai đoạn Âm nhạc Lãng mạn (1800 - 1910) Những nhà soạn nhạc thời kì Lãng mạn thường lấy cảm hứng từ văn học, hội họa hay từ những nguồn ngoài thế giới âm nhạc. Vì vậy, âm nhạc chương trình được phát triển rất mạnh mẽ và dẫn đến sự ra đời của thể loại thơ giao hưởng.Các bài thơ trong thế kỉ 18 và 19 là cơ sở đề hình thành nên các bài hát nghệ thuật mà trong đó các nhà soạn nhạc dùng âm nhạc để khắc họa hình ảnh và tâm trạng của lời ca. Sự huy hoàng của âm nhạc lãng mạn lan toả suốt thế kỷ XIX với rất nhiều nhà soạn nhạc ưu tú như Mendelssohn, Schumann, Chopin, Liszt hay Tchaikovsky nhưng trong đó người khai phá và là "nhân vật vĩ đại" đầu tiên chính là Franz Schubert. Schubert sáng tác đủ các thể loại âm nhạc: giao hưởng, Sonat, nhạc thính phòng, bài hát. Schubert là người đầu tiên đưa bài hát đến tầm khái quát cao, đồng thời giữ được vẻ tự nhiên ban đầu của nó. Schubert trở nên bất tử qua 600 bài hát mà ông sáng tác (nên giao hưởng và opera của ông bị khuất lấp, bị rơi vào lãng quên lúc sinh thời). Sau khi Schubert qua đời, các tác phẩm của ông mới khẳng định được tên tuổi của mình, một phần nhờ công lao phổ biến của các nhạc sĩ cùng thời như Franz Liszt, Robert Schumann, Felix Mendelssohn. Schubert được coi là ánh bình minh của chủ nghĩa lãng mạn trong âm nhạc Ông được xếp vào hàng các nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của nhân loại.
Tham khảo
Liên kết ngoài
The Best of Schubert
The Best of Schubert
Franz Schubert: Ave Maria
F. Schubert - Serenade
F. Schubert - Moment Musical Op.94 (D.780) No.3 in F Minor - Alfred Brendel
Schubert: Unfinished Symphony No.8
Franz Schubert - Trout Quintet: Tema Con Variazioni
Xem thêm
Nhạc phẩm "Dạ khúc"
Schubert, Franz |
Franz Schubert (1797-1828) |
“Khi tôi muốn ca hát về tình yêu thì tình yêu lại biến thành
đau khổ, nhưng khi tôi chỉ muốn hát về đau khổ thì đau khổ lại hoá thành
tình yêu.” - Franz Schubert
Sự
phát triển của con người và xã hội luôn liên tục và âm nhạc cũng không
đứng ngoài qui luật đó. Bối cảnh lịch sử những năm cuối thế kỷ XVIII,
đầu thế kỷ XIX tại châu Âu có những biến động đáng kể tạo nên những thay
đổi lớn về chính trị, kinh tế và nghệ thuật. Hoà mình vào dòng chảy đó,
âm nhạc cổ điển cũng có những chuyển mình cho phù hợp với qui luật tự
nhiên. Giai đoạn Cổ điển Vienna khép lại với những tên tuổi lừng lẫy như
Haydn, Mozart, Beethoven để mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn Lãng mạn
mà sự huy hoàng của nó lan toả suốt thế kỷ XIX với rất nhiều nhà soạn
nhạc ưu tú như Mendelssohn, Schumann, Chopin, Liszt hay Tchaikovsky
nhưng trong đó người khai phá và là “nhân vật vĩ đại” đầu tiên chính là
Franz Schubert.
Franz
Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Himmelpfortgrund, một làng
nhỏ ở ngoại ô Vienna trong một gia đình có nguồn gốc Bohemia. Cha của
Schubert là một thầy giáo làng chơi được violin và cello, mẹ ông vốn là
đầu bếp. Cha mẹ Schubert có cả thảy 15 người con nhưng 10 người trong số
họ đã chết ngay từ khi còn nhỏ, chỉ còn lại 5 người. Schubert có 3
người anh trai Ignaz (1785), Ferdinand (1794), Karl (1796) và một cô em
gái Theresia (1801). Chính người cha và anh trai Ignaz đã dạy cho
Schubert những bài học âm nhạc đầu tiên.
Lớn
lên trong một gia đình mà mọi thành viên đều có niềm đam mê âm nhạc lớn
lao nhưng lại có nền kinh tế tỷ lệ nghịch với niềm đam mê đó, thời thơ
ấu của Schubert là những chuỗi ngày ông không thể nào quên cho đến cuối
cuộc đời. Luôn sống trong cảnh nghèo đói, những kí ức tuổi thơ buồn bã
thường xuyên xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm của Schubert sau này.
Năm 1804, khi mới 7 tuổi, Schubert được gửi tới nhà thờ Lichtenthal ở
Vienna để học chơi đàn organ. Năm 1808, để gia đình giảm bớt một miệng
ăn, Schubert tới học ở trường nội trú Convict nơi có nhà soạn nhạc nổi
tiếng Antonio Saliari - người cùng thời với Mozart làm hiệu trưởng. Tuy
được miễn hoàn toàn học phí cũng như tiền ăn, tiền trọ nhưng cuộc sống
hà khắc nơi đây thật quá sức chịu đựng của một cậu bé mới 10 tuổi. Trong
thời gian 5 năm sống tại đây, Schubert còn phải chịu đựng sự ghẻ lạnh
của những người bạn học vốn là con của những gia đình giàu có. Cũng
trong thời gian này, Schubert ban đầu chơi ở bè violin 2 sau đó chuyển
lên bè violin 1 trong dàn nhạc của trường. Những sáng tác đầu tiên của
cậu bé cũng bắt đầu xuất hiện trong đó nổi tiếng nhất là bản Fantasia
cho 2 Piano (1810).
Rời
truờng nội trú năm 16 tuổi, để san sẻ gánh nặng cho gia đình, Schubert
định đi đăng lính nhưng vì cận thị quá nặng, bị quân đội từ chối, ông
đành nghe theo lời cha đi làm thầy giáo tại Annegasse. Tuy công việc khá
nhàm chán không làm thoả mãn nhà soạn nhạc trẻ vốn đầy hoài bão, ước mơ
nhưng vì thực tế cuộc sống Schubert đành phải tạm bằng lòng với bản
thân. Trong thời gian 3 năm dạy học, Schubert đã sáng tác được 2 tứ tấu
đàn dây, những bản giao hưởng đầu tiên, một vài Piano sonata, Mass số 1
giọng Fa trưởng. Tác phẩm Mass số 1 giọng Pha trưởng lần đầu tiên được
vang lên vào tháng 10 năm 1814 tại nhà thờ Lichtenthan với giọng hát
chính do ca sĩ trẻ Therese Grob đảm nhiệm, người mà Schubert đem lòng
yêu mến. Sau này Schubert đã ngỏ lời cầu hôn nhưng bị gia đình cô gái từ
chối và từ đó Schubert luôn mang trong mình vết thương lòng sâu sắc
cũng như không bao giờ nghĩ đến chuyện lấy vợ nữa.
Thời
gian này các tác phẩm của Schubert xuất hiện với số lượng thật đáng
kinh ngạc. Năm 1814, Schubert hoàn thành vở opera đầu tiên Des Teufels Lustschloss
D.84 cũng như 17 lied trong đó có những bài nổi tiếng như “Der Taucher”
D.77/111 hay “Gretchen am Spinnrade” D.118 (dựa theo thơ của Goethe).
Một năm sau, 145 lied và 4 vở opera khác ra đời, những con số thật ấn
tượng. Có cảm giác không phải Schubert sáng tác mà những bài hát tuôn
trào dưới tay ông như một dòng thác.
Schubert
chuyển đến dạy học tại trường Laibach ở Slovenia vào năm 1816. Hàng
loạt các tác phẩm nổi tiếng được ông sáng tác vào thời gian này. Tiêu
biểu có các lied “Erlkonig” (Chúa rừng), “Gesange des Harfners”, giao
hưởng số 4 “Tragic” giọng Đô thứ D.417, giao hưởng số 5 giọng Si giáng
trưởng D.485. Tháng 6 năm 1816, Schubert bắt tay vào viết bản cantata
“Prometheus”.
Một
năm trước đó, trong một lần đến thăm Linz, Schubert gặp Franz von
Schober - một chàng trai trẻ rất đáng mến và họ trở thành những người
bạn thân nhất của nhau. Là con một gia đình khá giả, chính Schober là
người giúp đỡ Schubert nhiệt tình nhất trong cuộc sống sau này. Nghe
theo lời khuyên của Schober, Schubert đã rời bỏ nghề dạy học để thành
một nhà soạn nhạc tự do, điều mà Schubert luôn khao khát. Năm 1817, trở
lại Vienna thời gian đầu, Schubert sống tại nhà của Schober. Tại đây
Schubert gặp Johann Michael Vogl, giọng nam trung nổi tiếng nhất Vienna
thời bấy giờ. Sự cộng tác giữa họ đã tạo nên những buổi hoà nhạc rất ấn
tượng thu hút được nhiều sự chú ý mà công chúng Vienna hồi đó gọi là
Schubertiaden. Tuy nhiên điều này cũng không che giấu được thực tế là
chàng trai 20 tuổi Franz Schubert vẫn rất khó khăn trong việc khẳng định
vị trí của mình. Các nhà xuất bản chỉ trả cho Schubert những khoản
nhuận bút rất thấp khi in ấn các tác phẩm của ông và Schubert vẫn phải ở
nhờ nhà bạn.
Với
bản tính vui vẻ, thích giao thiệp Schubert kết giao được rất nhiều bạn
bè và một người trong số đó Anselm Huttenbrenner đã giới thiệu ông đến
làm việc tại lâu đài của công tước Esterhazy - nơi mà Haydn vĩ đại đã
từng sống. Thời gian đầu tại đây Schubert còn cảm thấy hạnh phúc nhưng
dần dần nỗi buồn xâm chiếm ông và trong vòng chưa đầy một năm ông đã trở
về Vienna.
Mùa
hè năm 1819, một niềm vui nhỏ đến với Schubert. Trong chuyến lưu diễn
cùng với Vogl tại Upper, Áo, các lied của ông được đón giới yêu âm nhạc
nơi đây rất yêu thích trong đó nổi bật có lied “Die Forelle” (Cá hồi) và
Ngũ tấu Piano giọng La trưởng D.667 còn có tên khác là Ngũ tấu “Cá
hồi”. Năm 1820, Schubert hoàn thành Piano Sonata giọng La trưởng, D.664,
tác phẩm thính phòng xuất sắc Tứ tấu đàn dây giọng Đô thứ Quartettsatz
D.703, âm nhạc cho vở kịch Die Zauberharfe D.64 và vở opera Die Zwillingsbrüder D.647.
Lúc
này Schubert đã trở nên nổi tiếng nhưng sự nghèo khó vẫn không chịu
buông tha ông. Các nhà xuất bản chỉ chịu trả cho Schubert những khoản
tiền ít ỏi để in những tác phẩm của ông. Thường xuyên phải nhịn đói, đã
có lần để đổi lấy một bữa ăn Schubert phải sáng tác một bài hát tặng ông
chủ quán.
Năm
1822 sự nghiệp âm nhạc của Schubert có một bước ngoặt vĩ đại. Ông sáng
tác bản giao hưởng số 8 giọng Si thứ “Bỏ dở” D.759 nổi tiếng. Không hiểu
vì lý do gì bản giao hưởng chỉ có 2 chương thay vì 4 chương như thông
thường. Nếu như những tác phẩm được sáng tác trong thời gian đầu của
Schubert còn mang hơi hướng của trường phái cổ điển Vienna thì đến bản
giao hưởng này đã cho thấy một ngôn ngữ thể hiện hoàn toàn khác vượt qua
những qui tắc khắt khe, chặt chẽ để đến với những sáng tạo, tìm tòi mới
tạo lập nên một trường phái mới: Trường phái lãng mạn mà sau này đã lan
rộng ra khắp châu Âu trong suốt thế kỷ XIX trong đó Franz Schubert
chính là “người vĩ đại đầu tiên”. Tổng phổ tác phẩm này bị thất lạc
trong hơn 60 năm kể từ ngày được Schubert viết chỉ được tìm thấy một
cách tình cờ trong ngăn kéo tại nhà Anselm Huttenbrenner. Cùng trong năm
1822 này, Schubert hoàn thành bản Mass giọng La giáng trưởng D.678 và
tác phẩm nổi tiếng Wanderer fantasy cho Piano D760 (sau này Liszt đã
phối khí lại cho Piano và dàn nhạc). Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì bản
nhạc này dựa trên lied “Der Wanderer” của Schubert.
Toàn
bộ các sáng tác của Schubert đều mang đậm màu sắc trữ tình, trữ tình
đến mức nhiều nhà phê bình sau này không lý giải được và họ phải thốt
lên: “chất trữ tình đầy đậm đà như mặt nước của con sông Rhein trôi êm
đềm”. Phải chăng cuộc sống nghèo khổ lại là nguồn cảm hứng bất tận và âm
nhạc là người bạn sẻ chia mọi nỗi buồn đau?
Năm 1823, vở opera Rosamude, furstin von Cypern (Rosamude, hoàng tử đảo Cyprus) và tập bài hát đầu tiên Die Schöne Müllerin
D. 795 (Con gái ông chủ cối xay xinh đẹp) dựa theo thơ của Wilhelm
Müller ra đời. Các tác phẩm của Schubert luôn xuất hiện với số lượng
đáng kinh ngạc cho thấy ông quả là một con người thật phi thường. Một
năm sau, Schubert sáng tác 2 bản Tứ tấu đàn dây giọng La thứ và Rê thứ
“Death and the maiden” (Thần chết và trinh nữ) cũng như Octet giọng Fa
trưởng D.803. Trong lần trở lại nhà công tuớc Esterhazy để dạy học cho 2
con gái của công tước, ông viết “Divertissement a l'Hongroise” D.818
sau khi bị những giai điệu dân ca Hungary chinh phục. Thời gian này, đời
sống của Schubert có khá hơn nhưng ông lại có những nỗi bực bội khác.
Trong một bức thư cho bạn, Schubert viết: “Tôi cảm thấy rất mệt mỏi. Sự
tự do của tôi đang bị đánh cắp. Tôi sẽ trở về và không bao giờ quay trở
lại đây nữa”. Schubert là như vây, luôn coi trọng tự do và không để
những việc đời thường làm ảnh hưởng đến công việc sáng tác của mình.
Trong
thời kỳ mà sự ổn định tạm thời về kinh tế xen lẫn với sự suy sụp về sức
khoẻ, Schubert vẫn không ngừng sáng tác, âm nhạc đối với ông như một
niềm an ủi. Từ năm 1825 đến 1826, hàng loạt các tác phẩm quan trọng ra
đời như Piano Sonata giọng La thứ, Op. 42; giọng Rê trưởng, Op. 53 và
bản giao hưởng cuối cùng của ông bản giao hưởng số 9 giọng Đô trưởng
(the Great) D.944. Bản nhạc này cũng bị thất lạc như bản số 8 nhưng được
Robert Schumann tìm thấy vào năm 1839 trong đống giấy tờ còn sót lại
của Schubert. Mendelssohn đã lần đầu tiên chỉ huy bản giao hưởng này
nhân dịp kỷ niệm mười năm ngày mất của Schubert.
Năm
1827, Beethoven - người mà Schubert luôn kính phục trong suốt cuộc đời
mất. Như dự báo được số phận của mình, Schubert lao vào sáng tác như để
chạy đua với thời gian. Tập bài hát thứ 2 Winterreise D. 911
(Hành trình mùa đông) cũng dựa theo thơ của Müller ra đời và cùng với
tập thứ nhất là những viên ngọc vô giá trong kho tàng thanh nhạc của
nhân loại. Bốn Impromtu cho piano, D.899, Trio giọng Si giáng trưởng và
Fantasia cho violin và piano, D934 ra đời trong thời gian này cũng là
những tác phẩm ưu tú.
Mười bốn lied trong tập liên khúc thứ 3 và cũng là tập cuối cùng Schwanengesang D.957
(Bài ca thiên nga) được Schubert viết vào năm 1828. Sáu bài trong số đó
là dựa vào thơ của Heinrich Heine. Các tác phẩm cuối cùng của Schubert
là 3 Piano Sonata cuối cùng cũng như Ngũ tấu cho dàn dây giọng Đô trưởng
D.956 cho 2 violin, viola và 2 cello.
Giữa
lúc sức sáng tạo đang dồi dào nhất, sức khoẻ của Schubert ngày càng trở
nên xấu hơn. Ông luôn phải vật lôn với căn bệnh thương hàn và do chữa
bệnh bằng thuỷ ngân (cách chữa bệnh phổ thông thời đó) nên bệnh tình
ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Schubert bị suy sụp hoàn toàn vào
tháng 10 năm 1828 sau khi trở về Vienna từ Eisentadt, nơi ông đi thăm mộ
của Haydn. Trong bức thư cuối cùng Schubert viết cho Schober ngày 12
tháng 11, ông đã thể hiện sự tuyệt vọng của mình: “Tôi đang ốm. Mười một
ngày nay tôi hầu như không ăn uống được gì. Tôi đi không vững nữa”.
Schubert qua đời ngày 19 tháng 11 năm 1828. Và thể theo nguyện vọng lúc
cuối đời của ông, mộ của Schubert được đặt cạnh mộ của Beethoven tại
nghĩa trang Walhring. Vào năm 1888, hai ngôi mộ này được chuyển đến
nghĩa trang Zentralfriedhof bên cạnh Johann Strauss cha và Johannes
Brahms.
http://assets1.classicfm.com/2013/26/schubert-memorial-vienna-1372944812-view-1.jpg |
Chỉ
sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng Schubert đã để lại cho đời một khối
lượng tác phẩm thật đồ sộ. Chín bản giao hưởng (bản giao hưởng số 7 bị
thất lạc), khoảng 10 vở opera, 15 tứ tấu đàn dây, 8 Mass, gần 20 piano
sonata, 500 tiểu phẩm cho nhiều nhạc cụ và hơn 600 lied, những con số
khổng lồ khiến chúng ta ngày nay vẫn chưa hết kinh ngạc. Thật tiếc nuối
cho Schubert và cho tất cả những người yêu âm nhạc, ở độ tuổi 31, Bach
và Haydn chưa có tác phẩm nổi tiếng còn Beethoven thì chỉ vừa mới hoàn
thành bản giao hưởng số 1. Sự ngọt ngào trong đau khổ của Schubert đã
thổi vào nền âm nhạc thế kỷ XIX những ngọn gió nhẹ trong lành, tươi mát
mãi cho đến tận bây giờ...
Cobeo (nhaccodien.info) tổng hợp
View: 10994 - Nguồn: nhaccodien.info - Cập nhật lần cuối: 09:09 18/10/2011
Nguồn http://www.nhaccodien.vn
The Best of Franz Peter Schubert (31 January 1797 -- 19 November 1828)
In a short lifespan of less than 32 years, Schubert was a prolific composer, writing some 600 Lieder, ten complete or nearly complete symphonies, liturgical music, operas, incidental music and a large body of chamber and solo piano music. Appreciation of his music while he was alive was limited to a relatively small circle of admirers in Vienna, but interest in his work increased significantly in the decades immediately after his death. Felix Mendelssohn, Robert Schumann, Franz Liszt, Johannes Brahms and other 19th-century composers discovered and championed his works. Today, Schubert is ranked among the greatest composers of the early Romantic era and, as such, is one of the most frequently performed composers of the early nineteenth century.
1.Symphony No. 5 (Excerpt) 0:00
2.Ellens Gesang 3, Op. 52/6, D 839, "Ave Maria" 5:22
3.Impromptu In G Flat, D 899 10:12
4.German Dance No. 1 In C, D 90 15:38
5.String Quintet In C Major D. 956 - II. Adagio (Excerpt) 19:29
6.Symphony No. 9 In C Major Great D. 944 - III. Scherzo, Allegro vivace (Excerpt) 24:13
7.Standchen 28:09
8.Piano Quintet In A, Op. 114, D 667, "Trout" (Excerpt) 31:30
9.Moment Musical No. 3 In F Minor, Op. 94, D 780 34:36
10.Impromptus, Op. 90, D 899 - #4 In A Flat 36:21
11.Symphony No. 3 In D, D 200 - Allegretto 43:08
12.Menuet (From "3 Small Pieces") 47:43
13.Piano Sonata In A, D 664 (Excerpt) 50:22
14.Tantum Ergo In E Flat, D 962 54:45
15.Mass No. 6 In E-Flat Major D. 950 - III. Credo: Et in carnatus est 1:00:23
16.Symphony No. 8 In B Minor, D 759, "Unfinished" - 2. Andante Con Moto 1:06:16
-------------------------------------------------------------------------------------------
Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.
Geothe