Một thế hệ các đài quan sát mới hiện đang được hoàn thành trên toàn thế giới, sẽ cung cấp cho các nhà thiên văn không chỉ là một cửa sổ nhìn vào vũ trụ, mà còn là một cảm giác hoàn toàn mới lạ mà với điều ấy có thể khám phá và trải nghiệm các tầng trời phía trên chúng ta. Thay vì thu thập những sóng ánh sáng hoặc sóng vô tuyến, những dụng cụ hiện đại sẽ cho phép các nhà thiên văn cuối cùng sẽ đặt tay mình lên trên các cấu trúc không-thời gian và cảm nhận được nhịp điệu rất đẹp của vũ trụ.
Những dao động trong không -thời gian hoặc sóng hấp dẫn -là những dự báo gần đây của lý thuyết tổng quát Einstein vẫn chưa được quan sát trực tiếp. Chúng là những bản giao hưởng dở dang của ông , hiện vẫn đang chờ đợi gần một thế kỷ để được lắng nghe .Cuối cùng khi chúng đã tiết lộ bản thân cho các nhà thiên văn, chúng ta sẽ lần đầu tiên có thể nghe đến các tai nạn chập chỏa từ các vụ nổ sao, hòa hợp trong các nhịp đập định kỳ từ các pulsar quay tít , lắng nghe những tiếng líu lo mở rộng từ việc sáp nhập hai lỗ đen, và thu nhận được những tiếng vọng còn sót lại từ những cú xóc mạnh của bản thân vụ nổ Big Bang.
Khi Einstein đưa ra thuyết tương đối tổng quát vào năm 1915, đó được xem là một thành tích có tính chất khái niệm rất quan trọng. Einstein trở nên cực kỳ nổi tiếng. Nhưng, theo Marcia Bartusiak , một khi các nhà khoa học xác nhận những điều khả dĩ của lý thuyết này, vốn đã đưa ra những thí nghiệm ít ỏi còn thiếu sót vào thời điểm đó, thuyết tương đối đã trở thành " một sự tò mò cực lớn về lý thuyết" .
Ngày nay , sau nhiều thập kỷ tiến bộ về công nghệ, thuyết tương đối tổng quát đang được thử nghiệm với độ chính xác chưa từng có. Thậm chí nó còn ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của chúng ta.Các vệ tinh được cả khách du lịch và binh sĩ trong quân đội sử dụng để xác định vị trí của họ , đòi hỏi phải liên tục điều chỉnh các khái niệm chính xác của Einstein. Trong khi đó, "kính viễn vọng" dựa trên sóng hấp dẫn đầu tiên -bao gồm các cơ sở LIGO (Laser Interferometer Gravitational-Wave Observatory - giao thoa kế laser quan sát sóng hấp dẫn)- dần sắp trở nên hiện thực.
Trong bản giao hưởng dở dang này của Einstein, tác giả Bartusiak nắm được sự phấn khích giống như hai đài quan sát sóng hấp dẫn ở bang Louisiana và Washington, cũng như những người khác đang nghiên cứu ở Italy, Đức , Nhật Bản và các nhà vật lý học đã bắt đầu tăng tốc công việc của mình để khảo sát các chấn động từ lâu được dự đoán trong không-thời gian.
Từng chương một , Bartusiak lần lượt đưa ra những ẩn dụ âm nhạc của mình trong việc truy tìm những câu chuyện về thuyết tương đối tổng quát, từ lúc "Maestro-Nhạc trưởng" Einstein đi vào vật lý, xuyên qua "Bản luân vũ ánh sáng vì sao -Starlight Waltz" của các ngôi sao neutron tự xoắn không-thời gian xung quanh mình, cho đến những hợp âm "mâu thuẫn " của sự tranh cãi khi các nhà vật lý đang đấu tranh để có được đài quan sát hoàn toàn mới của họ đã được phê duyệt, đến "Chương kết - Finale" như một nỗ lực toàn cầu trong việc nghiên cứu thiên văn sóng hấp dẫn .
Thomas Edison smiling as he holds his hand to his ear.
Thomas Edison NHP Archives
Thomas Edison (1847 - 1931) nhà phát minh số một của Hoa Kỳ và thế giới
1. Thời thơ ấu
Vào
khoảng tháng 12 năm 1837, Đại Úy William L. Mackenzie và các đồng chí
trong đó có ông Samuel Edison, đã tổ chức một cuộc cách mạng, định đánh
chiếm thành phố Toronto thuộc Gia Nã Đại nhưng mưu sự không thành. Để
tránh sự lùng bắt, ông Samuel Edison phải trốn sang Michigan, Hoa Kỳ,
rồi lưu lại Detroit vì thời bấy giờ, chính phủ Gia Nã Đại dự định lưu
đầy các phạm nhân chính trị sang Tasmania, châu Úc.
Sau khi mang
được gia đình gồm vợ và hai con sang Hoa Kỳ vào đầu năm 1839, ông Samuel
Edison dời nhà tới Milan, thuộc tiểu bang Ohio. Milan là một thị trấn
nhỏ bên giòng sông Huron, cách hồ Erie vài dặm đường. Tại Milan, công
việc buôn bán khá sầm uất. Từ nơi đây người dân chở đi nào ngũ cốc, rau
trái, nào củi gỗ và các nông sản khác. Ông Samuel Edison dựng nên tại
nơi đây một xưởng cưa và công việc làm ăn khá phát đạt. Chính tại nơi cư
ngụ mới này, gia đình Edison đã có thêm một đứa trẻ vào ngày 11/2/1847.
Ông Samuel đặt tên cho đứa bé là Thomas Alva Edison để ghi nhớ Đại Úy
Alva Bradley đã có công giúp đỡ gia đình Samuel sang Hoa Kỳ.
Alva
hay Al, tên gọi tắt, là một đứa trẻ có cái đầu to khác thường khiến cho
bác sĩ bảo cậu sẽ bị đau óc nhưng điều tiên đoán này đã trở thành sai
lầm và thực ra, chính bộ óc của Al sau này đã làm tiến triển ngành Kỹ
Thuật của Nhân Loại.
Càng lớn, Al càng tỏ ra hiếu kỳ. Cậu thường
đặt các câu hỏi “tại sao, thế nào... “ và các câu thắc mắc không bao giờ
hết của cậu đã khiến cho những người chung quanh đành phải trả lời
“không biết”. Khi lên 5 tuổi, Al thường lang thang bên bờ sông mà coi
người lớn làm việc. Tại nơi này, cậu được nghe nhiều bài hát và đã thuộc
lòng rất nhanh các câu ca bình dân, điều này chứng tỏ Al có một trí nhớ
rất tốt và nhờ trí nhớ này mà về sau, cậu thu thập được nhiều kiến thức
sâu rộng.
Vào năm 1850, đường xe lửa được đặt tại nhiều nơi trên
đất Hoa Kỳ. Tại Milan, các bô lão từ chối không cho phép đường sắt đi
qua làng mình vì e ngại công việc làm trên sông bị tê liệt. Vì thế đường
xe lửa chỉ được thiết lập tại phía bắc tiểu bang Ohio và cũng do vậy,
thị trấn Milan trở nên kém sầm uất. Ông Samuel đành phải đóng xưởng cưa
và dọn nhà qua Port Huron, thuộc tiểu bang Michigan vào năm 1854. Tại
Port Huron, ông Samuel buôn bán ngũ cốc, củi gỗ và cũng trồng rau và
trái cây. Năm lên 8 tuổi, Al từng giúp cha, chất rau trái lên một chiếc
xe ngựa và đi bán hàng từng nhà trong thị xã.
Al cũng được cha mẹ
cho đi học tại một ngôi trường độc nhất. Trường chỉ có một lớp với
khoảng 40 học sinh, lớn có, nhỏ có, học một ông giáo theo các trình độ
khác nhau. Trong phòng học những chỗ ngồi gần ông thầy chỉ để dành cho
các trẻ em ngu đần. Tại lớp học, Al đặt rất nhiều câu hỏi hắc búa mà lại
không chịu trả lời các câu hỏi của thầy. Al thường đội sổ, khiến cho
các bạn cậu chế riễu cậu là đần độn.
Một hôm, nhân có viên thành
tra vào thăm lớp học, thầy giáo đã chỉ vào Al và nói : “trò này điên
khùng, không đáng ngồi học lâu hơn”. Al rất căm hận về hai chữ “điên
khùng” và đem câu chuyện này kể lại với mẹ. Bà Nancy khi nghe kể xong,
liền nổi giận, bà dẫn ngay Al đến trường và bảo ông giáo : “ông bảo con
tôi điên khùng hả? Tôi nói thật cho ông rõ, trí óc của nó còn hơn ông
đấy. Tôi sẽ giữ nó tại nhà và dạy lấy, vì tôi đã là giáo viên, để ông
thấy rằng sau này nó sẽ ra sao!”.
Từ đó, Alva không đến
trường nữa mà học với mẹ tại nhà trong suốt 6 năm trường. Nhờ mẹ, Al
học dần các môn Lịch Sử của Hy Lạp, La Mã và Sử Thế Giới. Al cũng được
làm quen với Thánh Kinh, với các tác phẩm của Shakespeare và của các văn
sĩ, thi sĩ, sử gia danh tiếng khác. Nhưng đặc biệt nhất, Al ưa thích
Khoa Học. Cậu có thể kể lại rành mạch các phát minh, các thí nghiệm và
tiểu sử của các đại bác học như Newton, Galileo. . . Chỉ trong vòng 6
năm, bà Nancy đã truyền lại cho con tất cả kiến thức của mình, từ môn
Địa Dư với những tên núi sông, tới môn Toán Học chính xác. Bà Nancy
không những dạy con về học vấn mà còn huấn luyện Al về hạnh kiểm. Al
được mẹ nhắc nhở các đức tính thật thà, ngay thẳng, tự tin và cần cù,
cộng với lòng ái quốc và tình yêu nhân loại.
Al học hành tiến bộ
rất nhanh chóng khiến cho cha rất hài lòng. Ông Samuel thường cho con
các món tiền nhỏ đủ mua dần từng cuốn sách hữu ích, nhờ thế Al đã say
sưa với các tác phẩm như Ivanho của Scott, Robinson Crusoe của Defoe và
Oliver Twist của Dickens. Nhưng tác giả mà Al ưa thích nhất là Victor
Hugo và cậu thường kể lại cho các bạn nghe các câu chuyên đã đọc qua.
Năm
10 tuổi, Al được cha cho cuốn sách toát yếu về Khoa Học của soạn giả
Parker (School Compendium of Natural and Experimental Philosophy by
Richard Green Paker). Trong cuốn sách toát yếu này, Paker đã giảng giải
về máy hơi nước, máy điện báo, cột thu lôi, pin Volta. . . Cuốn sách đã
trả lời Al rất nhiều điều mà từ trước, Al vẫn thường thắc mắc. Cuốn sách
này đã dẫn đường cho Al tới phạm vi rộng lớn của Khoa Học và khiến cho
cậu yêu thích môn Hóa Học.
2. Thời kỳ thực tập.
Năm
12 tuổi, Al nói với cha mẹ : “Thưa cha mẹ, con hiện nay cần nhiều tiền,
cha mẹ cho phép con đi xin việc làm”. Hai ông bà Edison đã ngăn cản con
vì lo sợ Al sẽ gặp phải các rủi ro, hơn nữa công việc kiếm ăn sẽ làm
trở ngại sự học nhưng Al đã quyết định rồi, cậu nằng nặc đòi cha mẹ cho
phép thử tự lập và hứa rằng sẽ hết sức thận trọng.
Thời bấy giờ,
công ty xe lửa Grand Trunk thiết lập một ga nhỏ tại Port Huron. Al xin
được phép bán báo, tạp chí, sách vở, trái cây và bánh kẹo trên xe lửa
chạy quãng đường Port Huron và Detroit dài 101 cây số. Từ đó cậu bé 12
tuổi này mỗi tháng thức dậy lúc 6 giờ để đáp chuyến xe lửa 7 giờ và tới
Detroit lúc 10 giờ. Thông thường tới Detroit, Al vội vã đến thư viện và
nghiền ngẫm trong nhiều giờ các cuốn sách mà cậu không thể tìm thấy tại
nơi mình cư ngụ. Al tập dần cách đọc nhanh và cậu quyết định bắt đầu đọc
các sách của các tác giả từ vần A cho tới hết 16,000 cuốn của thư viện.
Tới 6 giờ chiều, Al lại ra xe và trở về Port Huron lúc 9 giờ 30 tối. Ít
khi Al đi ngủ trước 11 giờ đêm vì cậu còn phải làm các thí nghiệm hóa
học trong hơn một giờ đồng hồ.
Trong thời gian bán báo và kẹo
bánh trên xe lửa, Al làm quen được nhiều người gồm các chuyên viên điện
báo, các công nhân và nhân viên nhà ga. Cậu được các người này giúp đỡ
trong nhiều trường hợp khó khăn.
Vào năm 1861, cuộc Nội Chiến Nam
Bắc Mỹ bùng nổ. Các trận đánh càng ác liệt thì số báo lại càng bán
chạy. Al bèn nghĩ tới việc bán báo tại tất cả các nhà ga phụ. Vào ngày
01 tháng 4 năm 1862, tờ báo Free Press loan tin trận đánh quyết định tại
Shiloh trong tiểu bang Tennessee. Al liền chạy vội tới tòa báo Free
Press là tờ báo lớn nhất tại Detroit và hỏi mua 1,000 tờ trả tiền sau,
rồi Al và hai người bạn vác báo lên tầu. Tại các ga đầu, số báo bán được
còn ít ỏi nhưng càng đi xa hơn, số người hỏi mua báo càng gia tăng
khiến cho Al nghĩ cả đến việc tăng giá báo từ 5 xu tới 10 xu, rồi sau
cùng bán tới 25 xu một tờ. Nội trong ngày hôm đó, Al đã bán hết 1,000 tờ
báo trước khi tới Port Huron và thu được hơn 100 đô la, một số tiền lớn
nhất mà cậu kiếm được từ trước tới nay.
3. Ông chủ báo nhỏ tuổi và điện tín viên.
Một
sáng kiến khác lại nẩy ra trong đầu óc của cậu bé đầy nghị lực này : Al
định ra báo. Cậu liền mua một máy in quay tay và cậu thiết lập thêm
trong toa hành lý “một cơ sở báo chí” nữa. Al đã cho ra đời tờ tuần báo
khổ nhỏ có tên là “The Weekly Herald” (Diễn Đàn Hàng Tuần). Viên chủ
nhiệm nhỏ tuổi này nhận thấy không thể cạnh tranh với các báo chí tại
Detroit về các tin tức chiến sự nên quyết định chỉ phổ biến mọi tin xẩy
ra trong vùng dọc theo hai bên con đường sắt. Cậu thu lượm tin tức nhờ
các chuyên viên điện báo địa phương. Al vừa là chủ nhiệm, quản lý, vừa
là ký giả, thợ in và người bán báo. Từ đó tuần báo The Weekly Herald 2
trang, được in mỗi mặt 3 cột. Ngoài các tin tức địa phương, Al còn cho
phổ biến các tin về hiếu hỉ, các tai nạn, hỏa hoạn. . .
Báo của
Al bán được khá chạy. Ngay ở số đầu tiên đã tiêu thụ được chừng 400 tờ
trong một tháng. Al còn nhận cả việc quảng cáo trên báo nữa. Tuần báo
The Weekly Herald đã có lần được bán cho nhà phát minh người Anh là ông
Stephenson khi viên kỹ sư này một hôm đi trên chuyến xe lửa qua miền
Port Huron. Ông Stephenson đã ngợi khen các ý tưởng của Al và ông quả
quyết rằng báo của cậu cũng giá trị như các báo của những người lớn gấp
đôi tuổi.
Muốn làm gia tăng số độc giả, Al cho thêm vào tuần báo
một đề mục chuyện nói chuyện ngồi lê mách lẻo và ký dưới tên hiệu Paul
Pry (Paul, người tọc mạch). Al đã dùng báo chí của mình để chỉ trích một
vài người trong vùng và cậu đã cẩn thận ghi tên của họ bằng mẫu tự đầu
tiên. Nhưng quãng đường 101 cây số rất ngắn ngủi, không thể giúp Al
tránh khỏi sự săn đuổi của những nạn nhân bị chế nhạo. Rồi vào một ngày
đẹp trời, khi Al đang đi bộ trên bờ sông Saint Clair, bỗng có một người
vạm vỡ tiến lại gần Al, túm cổ viên chủ nhiệm nhỏ tuổi, ném xuống sông.
Al ngoi lên bờ, quần áo ướt như chuột. Bực mình vì bị một số độc giả
luôn rình rập quấy rầy, Al quyết định ngưng việc làm báo.
Vào một
buổi sáng tháng 8 năm 1862, Al đứng nói chuyện với ông Mackenzie, nhân
viên nhà ga kiêm chuyên viên điện báo. Ông Mackenzie có một đứa con trai
2 tuổi rưỡi, tên là Jimmy, thường hay lân la chơi tại sân ga. Khi đang
trò chuyện, bỗng Al trông thấy Jimmy đang đi dọc theo đường sắt trong
khi đó, một toa xe goòng đang phóng đến. Nhận thấy sự nguy hiểm trước
mắt, Al liền lao mình tới chỗ đứa bé, ôm lấy nó mà lăn ra phía ngoài. Để
đền đáp ơn cứu tử đứa con của mình, ông Mackenzie nhận dạy Al nghề điện
báo và hứa sẽ xin việc cho cậu khi nào Al thành thạo.
Từ đó Al
bắt đầu bỏ ra mỗi ngày 18 giờ để học về điện báo và chữ Morse. Chỉ trong
vài tuần lễ, Al đã theo kịp tất cả các tín hiệu do ông Mackenzie đánh
đi. Sau 3 tháng học hỏi, không những Al tiến bộ đến nỗi ông Mackenzie
phải gọi Al là chuyên viên điện báo hạng nhất, và Al còn chế tạo được
một máy điện tín có đầy đủ tính cách toàn hảo cũng như cho phép người xử
dụng máy gửi điện tín đi thật nhanh chóng.
Trong thời kỳ Nội
Chiến Nam Bắc Mỹ, hàng trăm điện tín viên bị gọi nhập ngũ vào các đội
truyền tin. Kết quả của sự kiện này là các công ty thương mại cũng như
hỏa xa thiếu chuyên viên. Vì thế xin một chân làm việc về điện tín là
một điều dễ dàng và một người mới học nghề cũng có thể kiếm được việc.
Vào khoảng năm 1864, Al nhận thấy có đủ khả năng nhận một chân điện tín
viên nên từ bỏ nghề bán báo và tới Stradford, Gia Nã Đại, xin làm việc
vào tháng 5. Al trở thành điện tín viên tại ga Stratford này và lãnh
lương mỗi tháng 25 đô la.
Từ năm 1864 tới năm 1868, Al đã làm
việc tại nhiều nơi như New Orleans, Indianapolis, Louisville, Memphis và
Cincinnati. . . Chàng thanh niên này cũng bắt đầu bỏ cách gọi tắt là Al
mà dùng tới tên chính là Thomas hay cách gọi thân mật là Tom.
Thomas
Edison bây giờ là một chàng thanh niên khỏe mạnh, nhiều thiện cảm và
vui tính. Sự cởi mở, lòng chân thật đã khiến Tom có nhiều bạn nhưng cách
làm việc đặc biệt của Tom đã khiến cho các bạn bè cho chàng là người kỳ
quặc. Tom ăn mặc giản dị, quần áo cũ kỹ và dính mực, đôi giày của chàng
mòn đế cũng không khiến chàng nghĩ đến việc thay đôi mới. Vào mùa lạnh,
Tom cố chịu rét hơn là bỏ tiền mua một áo choàng bằng nỉ vì chàng đã
dồn tiền vào việc mua sắm các sách vở khoa học và dụng cụ thí nghiệm.
Vào
đêm hôm 14/ 4/1865, cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ chấm dứt, làm cho hàng
trăm điện tín viên mất việc. Tom Edison trở về Louisville rồi tới cuối
năm 1868, từ biệt cha mẹ đi Boston để nhận chân chuyên viên điện tín.
Năm 21 tuổi, Tom thực hiện được phát minh đầu tiên, đó là một máy đầu
phiếu. Tom gửi sáng kiến này tới Phòng Văn Bằng Sáng Chế rồi đưa trình
lên Quốc Hội, nhưng vào thời đó không nghị sĩ nào ưa thích thứ máy móc
tân kỳ đó. Mặc dù thất bại, Tom lại bắt đầu làm nhiều việc khác. Chàng
đã chế ra được một máy điện báo cùng một lúc gửi đi hai điện tín trên
một đường dây.
4. Thời kỳ thành công.
Vào
một buổi sáng tháng 6 năm 1869, con tầu khởi hành từ Boston tiến dần
vào hải cảng New York. Edison, chàng thanh niên 22 tuổi, đứng trên boong
tầu, mơ màng nhìn vào thành phố xa lạ, không người quen biết, trong túi
không có một đồng nào bởi vì chàng đang mang nợ 800 đô la. Edison rời
Boston với hai bàn tay trắng vì chàng đã để lại tất cả các dụng cụ thí
nghiệm cùng sách vở cho chủ nợ, hứa sẽ trở lại lấy khi có đủ tiền thanh
toán. Nhưng có nhiều thứ mà không ai có thể lấy bớt được ở chàng, đó là
lòng cam đảm, ý chí theo đuổi mục đích, học vấn và kinh nghiệm kỹ thuật
cùng với các đức tính khác mà chàng đã thu lượm được vào thời niên
thiếu.
Ngày đầu tiên tại New York, Tom đi tới tất cả các cơ sở
điện báo để tìm kiếm người quen và đã vay mượn được một đô la. Sống với
đồng tiền nhỏ mọn này cho tới ngày thứ ba, Tom khi đi qua Công Ty Hối
Đoái Gold Indicator thì thấy hàng trăm người đang chen chúc chờ đợi. Tom
tiến lại gần thì được biết rằng chiếc máy ghi giá vàng bị trục trặc và
vì thế thị trường vàng hoàn toàn bị trở ngại. Khi đó viên giám đốc của
công ty, Bác Sĩ Laws, đang la ầm lên : “Tôi trả lương cho hàng tá người
mà chẳng ai làm được việc gì ! Ôi, tôi chỉ cần một người thợ có tài là
đủ!”. Nghe thấy vậy, Tom tiến lại gần ông Laws và nói : “Thưa ông, tôi
không phải là thợ của ông nhưng tôi tự xét có thể sửa chữa được chiếc
máy”. Trong vòng hai giờ, chiếc máy do Tom sửa chữa lại chạy đều như
trước. Ngày hôm sau, sau khi khảo sát khả năng, Bác Sĩ Laws đã thuê Tom
làm quản đốc kỹ thuật với lương tháng 300 đô la.
Mặc dù lương
bổng cao, Tom Edison luôn chán nản trước hoàn cảnh làm công cần cù vì
trong đầu óc của chàng đang chứa đựng hàng tá sáng kiến sôi động. Trong
khoảng thời gian làm việc tại công ty hối đoái, Edison được gặp Franklin
L. Pope và hai người bàn với nhau hợp tác trong một công cuộc kinh
doanh. Ngày 01/ 10/1869, Edison và Pope lập ra xưởng điện cơ và điện báo
rồi ít lâu sau, lại có J. N. Ashley của tờ báo Telegraph cộng tác. Để
sống gần người bạn cộng sự, Edison dọn nhà tới thị xã Elizabeth, thuộc
tiểu bang New Jersey. Vì muốn tiết kiệm thời giờ dùng cho các công việc
cần thiết, Edison tự luyện tập các giấc ngủ thật ngắn, mỗi ngày ngủ 3
hay 4 lần. Ngoài 5 giờ để ngủ, thời gian được chàng dùng cho các cải
tiến kỹ thuật và công việc chuyên môn.
Vào thời bấy giờ, điện tín
được ghi bằng các chấm và gạch in trên những băng giấy dài, rồi người
ta lại phải chép tay ra các bản điện tín trước khi gửi cho người nhận.
Nếu có cách nào in bằng chữ lên các phiếu điện tín, người ta sẽ tiết
kiệm được rất nhiều thời gian vô giá. Điều này làm Edison suy nghĩ. Vì
Edison nổi tiếng về giỏi Kỹ Thuật, Tướng Marshall Lefferts, giám đốc
công ty Gold and Stock Telegraph liền nhờ Edison biến đổi loại máy
thường ra máy điện tín in chữ. Sau vài tháng tìm tòi, Edison đã thành
công và lấy bằng phát minh vào năm 1869. Máy móc mới này của Edison vừa
giản dị hơn, vừa chính xác hơn loại cũ nên đẵ khiến ông Lefferts đề nghị
mua lại bằng sáng chế.
Công việc làm ăn của Edison tăng lên một
cách rất nhanh chóng khiến chàng và các hội viên khác đồng ý đổi cơ
xưởng cũ thành Công Ty Điện Báo Tự Động (The Automatic Telegraph Co.).
Lúc đầu chàng chỉ mướn 18 người thợ rồi số thợ tăng lên dần tới 50 và
sau này tới 250 người. Nhiều người làm việc với Edison đã trở nên các kỹ
sư tài ba và đã cộng tác với chàng cho tới chết. Edison chia thợ ra
từng toán, làm từng phiên cả sáng lẫn đêm. Mặc dù mới 23 tuổi, Edison
được nhiều người tặng cho biệt hiệu “lão già” vì chàng điều kiển nhóm
chuyên viên của mình một cách chín chắn, đôi khi hơi tàn ác nhưng ngược
lại, chàng trả lương các nhân viên rất hậu, căn cứ vào tài khéo và thời
gian làm việc vì chàng muốn họ đóng góp với tất cả lương tâm nghề
nghiệp.
Vóc người mập mạp, Thomas Edison có đôi mắt sắc sảo dưới
hàng mi rậm rạp và chiếc trán rộng. Với dáng đi nặng nề, chàng đi đi,
lại lại trong xưởng, quần áo vừa bẩn lấm, vừa tả tơi, mang vào mình hình
ảnh một tên vô nghề nghiệp hơn là một viên đốc công, một vị giám đốc và
cũng là một kỹ nghệ gia đầy tương lai hứa hẹn. Thực vậy, người ta phải
ngạc nhiên về cơ xưởng của Edison, không những do các hoạt động mà còn
vì giờ giấc. Edison đã treo trong xưởng tất cả 6 chiếc đồng hồ, chỉ các
giờ giấc khác nhau và nhân viên của chàng thường theo chàng làm đến hết
việc chứ không phải hết giờ. Trong khoảng thời gian từ năm 1870 tới
1876, bắt đầu với tuổi 23, Thomas Edison đã cầu chứng 122 phát minh và
như thế, mỗi tháng trung bình chàng có hơn một sáng kiến được thực hiện.
Vào
thời kỳ của phát minh thứ 46, Thomas Edison được nghe người ta kể lại
rằng Christopher Sholes tại Milwakee đang thí nghiệm về một thứ máy móc
gọi là “máy đánh chữ”. Vì biết rằng thứ máy mới này sẽ góp phần to lớn
trong việc chế tạo máy điện báo tự động, Edison liền mời Sholes mang mẫu
máy tới Newark và chàng đã đề nghị nhiều sửa đổi hợp lý. Công Ty The
Automatic Telegraph là nơi đầu tiên chế tạo máy đánh chữ rồi dùng nó
trong văn phòng và chiếc máy đánh chữ đó đã mở đường cho các máy
Remington mà sau này được dùng trên khắp thế giới. Nếu Morse phát minh
ra máy điện báo thì Edison lại góp vào đó rất nhiều cải tiến quan trọng
khiến cho chính Morse cũng khó nhận ra được phát minh của mình. Không
những Edison hoàn thành máy điện báo kép cho phép gửi đồng thời 2 điện
tín trên cùng một đường dây mà còn phát minh ra một phương pháp gửi đồng
thời 4 hay 5 điện tín. Edison còn cứu vãn Công Ty Western Union khỏi bị
phá sản bằng một hệ thống truyền tin mới.
Vào một buổi chiều năm
1870, Edison ngồi một mình trong văn phòng. Các thợ thuyền đã ra về
trong khi nhà phát minh còn nán lại vì chàng muốn ghi chép cho xong các
nhận xét về một thứ máy đang hoàn thành. Edison định ra về thì một trận
mưa lớn đổ xuống. Lúc ra cửa, chàng gặp hai thiếu nữ đứng trú mưa tại
lối đi. Edison liền tự giới thiệu : “Tôi là Thomas Edison, chủ nhân tiệm
này. Xin mời các cô vào văn phòng chờ hết mưa. Tôi sẽ đi thắp đèn lên”.
Một thiếu nữ trả lời chàng : “Chúng tôi không dám phiền ông, ông Edison
ạ. Tôi là Mary Stilwell, còn đây là em Alice của tôi”. Edison cúi chào
hai thiếu nữ và nói chuyện xuông với hai chị em Stilwell cho qua thời
giờ. Nhưng ánh mắt trong sáng, khuôn mặt xin xắn và cử chỉ thanh lịch
của Mary đã làm tâm hồn Edison xao xuyến.
Từ đây, Edison không
thể quên hình ảnh của Mary. Chàng hỏi dò bạn bè thì được biết Mary là
một giáo viên tại Newark. Edison liền nhờ bạn đưa lại thăm gia đình
Stilwell và sau buổi viếng thăm, chàng thấy rằng mình đã tìm được người
vợ mong ước. Sau đó, Edison thường cùng Mary đi coi hát, dự các buổi hòa
tấu nhạc hay đi cắm trại ngoài trời. Sau một năm trường chờ đợi sự ưng
thuận của gia đình Stilwell, Edison đã cử hành hôn lễ với Mary vào ngày
lễ Giáng Sinh năm 1871.
Cuối năm 1871, Edison đã có ba tiệm khác
nhau tại Newark. Ba cơ xưởng ở rải rác trong một thành phố lớn đã làm
mất nhiều thời giờ và năng lực quý báu của nhà phát minh. Vì vậy Edison
quyết định tìm kiếm nơi xây cất một cơ xưởng lớn hơn cách Newark 40 cây
số. Menlo Park là một ga nhỏ trong tiểu bang New Jersey nhưng khá yên
tĩnh, thích hợp cho nhà phát minh làm việc. Ngày 3/ 01/1876, công cuộc
xây cất bắt đầu. Edison đã phác họa từng chi tiết cho đồ án phòng thí
nghiệm và cơ xưởng.
Cũng trong năm này, công ty Western Union lại
nhờ Edison cải tiến máy điện thoại của Alexander Graham Bell vừa mới
cầu chứng cách đó ít lâu. Thời bấy giờ, điện thoại của Bell là một bộ
máy còn rắc rối, ống nói và loa nghe được làm chung, và người ta để loa
lên miệng để nói rồi đặt vào tai nghe. Tầm hoạt động của máy bị giới hạn
và dù nói từ phòng nọ sang phòng kia, những tiếng sè sè của máy sinh ra
do bộ ma nhê tô đã làm cho việc đối thoại rất khó khăn. Sau hai năm tìm
tòi, Edison đã phát minh ra bộ vi âm (microphone), hoàn thành một máy
truyền (transmetteur) dùng thỏi than và đã thành công rực rỡ trong việc
truyền tiếng nói qua 225 cây số đường dây. Edison làm cho cường độ tiếng
nói qua máy điện thoại lớn gấp bội và âm thanh trở nên rõ ràng. Hãng
Western Union đã mua lại bằng sáng chế chiếc máy truyền với giá 100,000
đô la. Thành công của Edison trong việc cải tiến máy điện thoại đã khiến
người đời phải nói rằng “Bell đã phát minh ra máy điện thoại nhưng
chính nhờ Edison mà máy điện thoại trở thành hữu dụng”.
5. Phát minh ra Máy Hát.
Lúc
bấy giờ Edison đã có phòng thí nghiệm tại Menlo Park, một nơi có đủ
phương tiện cho nhà phát minh tìm tòi, nghiên cứu. Edison có một cách
làm việc rất đặc biệt. Khi một ý tưởng nẩy ra trong trí óc, ông liền thử
ngay bằng ngàn cách khác nhau với sự cộng tác của những người giúp
việc. Vào thời đó, mặc dù nhà phát minh có hàng trăm bằng sáng chế nhưng
danh tiếng của Edison chỉ thực sự được đại chúng biết tới sau ngày ông
cho ra đời chiếc máy hát.My Webpage
Thực ra sự phát minh này do
khả năng nhận xét và suy luận của ông hơn là do công lao tìm kiếm. Vào
một chiều mùa hè năm 1877, trong khi Edison đang loay hoay với chiếc máy
dịch điện tín tự động, chiếc máy này gồm một mũi kim thép rạch các rãnh
trên một đĩa giấy, đột nhiên khi cho đĩa quay nhanh hơn Edison đã nghe
thấy tiếng cọ sát tăng lên và giảm đi tùy theo sự gồ ghề của chiếc đĩa.
Sự kiện này đã ám ảnh nhà phát minh. Ông liền làm lại thí nghiệm nhưng
lần này, thêm vào chiếc kim bộ phận chứa một màng mỏng. Edison nhận thấy
cơ phận này đã làm tăng âm độ lên một cách đáng kể.
Các công
trình khảo cứu về máy điện thoại đã khiến Edison nhận thức rằng một màng
kim loại mỏng đã rung động khi nói vào một máy phát. Như thế có thể ghi
lại sự rung động này trên một chất gì đó để rồi làm cho màng kim loại
rung động trở lại mà phát ra các âm thanh như tiếng nói. Nửa đêm hôm đó,
Edison ngồi lại văn phòng và vẽ trên giấy một bức họa về thứ máy móc sẽ
thực hiện. Ngày 24/12/1877, Edison cầu chứng cho chiếc máy hát và bằng
phát minh được chính phủ Hoa Kỳ cấp cho ông vào ngày 19/ 02/1878.
Một
bộ máy ghi được tiếng nói và lại phát ra tiếng nói làm cho đại chúng
phải bàn tán. Để làm cho mọi người tin chắc rằng máy hát nói được là một
sự thật, Edison quyết định trình bày chiếc máy kỳ lạ trước Hàn Lâm Viện
Khoa Học Hoa Kỳ. Sáng ngày 8/ 4/1878, nhà phát minh Edison đã xử dụng
chiếc máy hát trước ông Joseph Henry, Chủ Tịch Viện Smithsonian, rồi vào
buổi chiều, ông biểu diễn máy trước Hàn Lâm Viện Khoa Học. Ngay buổi
tối hôm đó, Edison lại nhận được giấy mời trình bày máy hát trước Tổng
Thống Rutherford B. Hayes. Nhà phát minh đã làm cho các nhân vật Tòa
Bạch Cung cũng như dân chúng tin tưởng. Cả thế giới sôi nổi về phát minh
này. Danh tiếng Thomas Edison được nhắc nhở tại khắp nơi. Báo chí đã
nói nhiều về nhà phát minh 31 tuổi. Môt tờ báo gọi Edison là “Thầy Phù
Thủy vùng Menlo Park” và danh hiệu này đã được phổ thông hóa.
Chiếc
máy hát là một phát minh mà Edison rất ưa chuộng. Ông đã cải tiến máy
dần dần trong nhiều năm trường để về sau này, máy được thay đổi khối trụ
và tay quay bằng một đĩa tròn chuyển động do một bộ phận đồng hồ. Sự
sản xuất máy hát càng ngày càng gia tăng, vào năm 1910 tiền bán máy và
đĩa hát đã lên tới 7 triệu đô la. Vào năm 31 tuổi, Thomas Edison có 157
bằng phát minh và đang chờ đợi 78 bằng sáng chế khác từ Washington gửi
về. Mặc dù vậy, ông vẫn không ngừng làm việc, mỗi ngày từ 18 tới 20 giờ.
6. Phát minh ra Đèn Điện.
Tháng
3 năm 1878 là đầu thời kỳ Edison bắt tay vào việc nghiên cứu đèn điện.
Vào thời bấy giờ người ta chỉ biết tới nguyên tắc của đèn hồ quang là
loại đèn được phát minh vào khoảng năm 1809. Khi đốt đèn hồ quang, người
ta phải luôn luôn thay thỏi than, ngoài ra đèn còn phát ra tiếng cháy
sè sè và cho một sức nóng quá cao, kèm theo một mùi khó chịu, không
thích hợp với việc xử dụng trong nhà.
Vào năm 1831, Michael
Faraday tìm ra nguyên tắc của máy ma-nhê-tô là bộ máy sinh ra các tia
lửa đốt loại khí bên trong động cơ dầu lửa. Tới năm 1860, một loại đèn
điện sơ sài ra đời tuy chưa thực dụng nhưng đã khiến cho người ta nghĩ
tới khả năng của điện lực trong việc làm phát sáng. Thomas Edison cũng
cho rằng điện lực có thể cung cấp một thứ ánh sáng dịu hơn, rẻ tiền hơn
và an toàn hơn ánh sáng của đèn hồ quang của William Wallace. Edison đã
tìm đọc tất cả các sách báo liên quan tới điện học. Ông muốn thấu triệt
sâu rộng lý thuyết về điện lực để có thể mang kiến thức của mình vào các
áp dụng thực tế. Ngày nay trong số 2,500 cuốn sổ tay 300 trang được
Viện Edison cất giữ, người ta còn thấy hơn 200 cuốn ghi chép về điện
học. Chính những điều ghi chép này đã là căn bản của các khám phá vĩ đại
của thiên tài Edison trong phạm vi Khoa Học và Kỹ Thuật.
Thời
bấy giờ, báo chí nói nhiều đến công cuộc nghiên cứu của Edison về đèn
điện làm cho các công ty đèn thắp bằng khí đốt lo ngại trong khi đó
Edison khuyên các hội viên của Công Ty Đèn Điện Edison (the Edison
Electric Light Co.) bỏ thêm 50,000 đô la để ông theo đuổi công trình
nghiên cứu. Hồi đó trong phòng thí nghiệm tại Menlo Park có vào khoảng
50 người làm việc không ngừng. Bình điện, dụng cụ, hóa chất và máy móc
chất cao trong các phòng nghiên cứu. Đồng thời với việc nghiên cứu đèn
điện, Edison còn phải cải tiến rất nhiều máy móc khác cũng như tìm ra
các kỹ thuật cần thiết vì vào thời bấy giờ, kỹ nghệ điện lực còn trong
giai đoạn phôi thai. Cũng nhờ nghiên cứu đèn điện, Edison đã sáng chế ra
cầu chì, cái ngắt điện, đynamô, các lối mắc dây. . .
Căn cứ từ
đèn hồ quang của Wallace, Edison thấy rằng có thể có ánh sáng từ một vật
cháy sáng bằng cách đốt nóng. Edison đã dùng nhiều vòng dây kim loại
rất mảnh rồi cho dòng điện có cường độ lớn đi qua để những vòng dây đó
nóng đỏ lên, nhưng chỉ sau chốc lát, các vòng đó đều cháy thành than.
Vào tháng 4 năm 1879, Edison nẩy ra một sáng kiến. Ông tự hỏi cái gì sẽ
xẩy ra nếu sợi dây kim loại được đặt trong một bóng thủy tinh không chứa
không khí? Edison liền cho gọi Ludwig Boehm, một người thợ thổi thủy
tinh tại Philadelphia tới Menlo Park và phụ trách việc thổi bóng đèn.
Việc rút không khí trong bóng đèn cũng đòi hỏi một máy bơm mạnh mà vào
thời đó chỉ có tại trường đại học Princeton. Cuối cùng Edison cũng mang
được chiếc máy bơm đó về Menlo Park.
Edison thử cho một sợi kim
loại rất mảnh vào trong bóng thủy tinh rồi rút không khí ra hết, khi nối
dòng điện, ông có được thứ ánh sáng trắng hơn, thời gian cháy cũng lâu
hơn nhưng chưa đủ. Ngày 12/ 04/1879, để bảo vệ phát minh của mình,
Edison xin bằng sáng chế về bóng đèn cháy trong chân không mặc dù ông
biết rằng loại đèn này chưa hoàn hảo vì ông chưa tìm ra được một thứ gì
dùng làm tóc trong bóng đèn. Edison đã dùng sợi Platine nhưng thứ này
quá đắt tiền lại làm tốn nhiều điện lực hơn là cho ánh sáng hữu ích.
Edison đã thử với nhiều thứ kim loại hiếm, chẳng hạn như Rhodium,
Ruthenium, Titane, Zirconium và Baryum nhưng tất cả những chất đó chưa
cho kết quả khả quan.
Vào 3 giờ sáng ngày Chủ Nhật, 19/ 10/ 1879,
trong khi Edison và Batchelor, người cộng sự, đang cặm cụi thí nghiệm
thì nhà phát minh chợt nghĩ tại sao không dùng một sợi than rất mảnh.
Edison nghĩ ngay tới thứ thường dùng nhất trong nhà là sợi chỉ may. Ông
liền bảo Batchelor đốt cháy sợi chỉ để lấy các sợi than rồi cho vào bóng
đèn. Khi nối dòng điện, đèn cháy sáng, phát ra một thứ ánh sáng không
đổi và chói chan. Edison và các cộng sự viên thở ra nhẹ nhõm. Nhưng mọi
người đều không rõ đèn cháy sáng như vậy được bao lâu? 2 giờ trôi qua,
rồi 3, 4. . . rồi 12 giờ. . . đèn vẫn sáng. Edison đành nhờ các cộng sự
viên thay thế để đi ngủ. Chiếc đèn điện đầu tiên của Thomas Edison đã
cháy liền trong hơn 40 giờ đồng hồ khiến cho mọi người hân hoan, tin
tưởng vào kết quả. Lúc đó, Edison mới tăng điện thế lên khiến cho sợi
dây cháy sáng gấp bội rồi đứt hẳn.
Rất hãnh diện về phát minh của
mình, Edison viết thư mời viên chủ nhiệm tờ báo New York Herald gửi đặc
phái viên tới Menlo Park. Ký giả Marshall Fox đã tới phòng thí nghiệm
của Edison và cùng nhà phát minh làm việc trong hai tuần lễ. Sáng Chủ
Nhật 21/12/1879, tờ báo Herald tường thuật về sự phát minh ra chiếc đèn
điện nhưng bài tường trình này đã làm đại chúng nghi ngờ và có người còn
cho rằng “một thứ ánh sáng như vậy trái với định luật thiên nhiên”. Có
nhà báo lại khôi hài câu chuyện và bảo “đèn điện của Edison đã được ông
dùng bóng bay thả lên trời thành những ngôi sao lấp lánh ban chiều”.
Edison
rất buồn cười về những lời phủ nhận sự thật. Ông quyết định trình bày
trước đại chúng chiếc đèn điện để phá tan mọi mối hoài nghi. Ông cho
treo hàng trăm bóng đèn điện quanh phòng thí nghiệm, quanh nhà ở và dọc
theo các con đường tại Menlo Park. Ngày 31/12/1879, một chuyến xe lửa
đặc biệt đã xuôi ngược New York - Menlo Park, mang theo hơn 3,000 người
hiếu kỳ gồm cả các nhà khoa học, các giáo sư, các nhân viên chính quyền
cũng như các nhà kinh tài tới quan sát tận mắt chiếc đèn điện. Đêm hôm
đó cả vùng Menlo Park tràn ngập trong ánh sáng chan hòa của một thứ đèn
mới.My Webpage
7. Công Ty Đèn Điện Edison.
Thành
công của chiếc đèn điện làm cho công ty khí thắp xuống dốc trong khi
đó, Edison vẫn cho rằng đèn điện chỉ đắc dụng khi nào ông tìm ra được
một thứ sợi tóc rẻ và bền hơn. Ông cho thử hơn 6,000 thứ sợi thảo mộc,
cuối cùng đã chọn một thứ tre Nhật Bản và loại sợi này đã được dùng
trong suốt 10 năm trường trước khi bị chất Tungstène thay thế.
Edison
lại tính tới việc dùng điện lực thắp sáng một khu vực rộng lớn hơn. Ông
quyết định dùng một quận trong thành phố New York rộng 2,500 mét vuông
làm nơi thí nghiệm. Ông tìm ra nhiều phương pháp cách điện và chính ông
trông coi việc đặt đường dây. Vào năm 1881, số chuyên viên về điện lực
rất hiếm. Edison liền mở ra một trường dạy nghề và đặt những cộng sự
viên cũ của mình vào các chân giảng viên. Chính ông cũng viết ra một
cuốn sách kỹ thuật về điện học. Nhờ cách làm việc có phương pháp như
vậy, sang năm sau Edison đã có hơn 1,500 người chuyên đào đường, đặt
đường dây và bắt dây điện vào tư gia. Một nhu cầu mới cần thiết nữa lại
được đặt ra là việc thiết lập một nhà máy phát điện mạnh. Việc này đòi
hỏi nhiều triệu đô la. Một công ty vì thế được thành lập với tên là Công
Ty Đèn Điện Edison tại New York (the Edison Electric Lighting Company
of New York).
Edison lập ra một xưởng chế tạo các thành phần của
máy phát điện, một xưởng chuyên làm bóng đèn điện và một cơ xưởng đặc
biệt chuyên sản xuất các đồng hồ điện, các đui đèn, ngắt điện cùng các
phụ tùng cần thiết cho ngành kỹ nghệ mới này.
Từ trước, công ty
khí thắp độc quyền phụ trách việc đốt đèn các con đường và cung cấp khí
đốt cho dân chúng. Edison muốn thay thế những phương tiện thắp sáng cũ
đó bằng một cách khác, vừa tiện lợi hơn, vừa rẻ tiền hơn. Ông biết rằng
ông đã tham dự một cuộc mạo hiểm rất khó khăn, nếu thất bại, ông sẽ mất
hết danh tiếng, tiền bạc và tín nhiệm của dân chúng cũng như của bạn bè.
Nhưng Edison vẫn không sờn lòng. Ông tuyên bố rằng tiền phí tổn về điện
lực sẽ rẻ hơn tiền khí thắp và ông chỉ nhận tiền của thân chủ khi nào
họ thấy thỏa mãn về cách cung ứng điện lực. Cuộc thí nghiệm đại quy mô
này đã khiến Edison phải từ chối đi dự các bữa tiệc, các buổi diễn
thuyết. . . Người ta thường thấy nhiều đêm ông Edison, với chiếc khăn
quàng quấn quanh cổ, bước xuống những đường rãnh đặt dây điện hoặc trông
coi việc thiết lập nhà máy điện trên đường Pearl.
Tới ngày 4
tháng 9 năm 1882, tất cả các công tác thiết kế đã hoàn thành và sẵn sàng
chờ đợi sự thí nghiệm. Tại nhà máy phát điện đường Pearl, người thợ đổ
than vào lò, các động cơ bắt đầu chuyển vận, Edison hạ chiếc cần xuống
và trong khoảng khắc, dòng điện đi qua 24 cây số đường dây khiến cho
hàng trăm bóng đèn Edison cháy sáng trong các công sở, cơ xưởng và các
tư gia. Ông Thomas Edison đã thắng cuộc và lấy lại được niềm tin của
toàn thể dân chúng.
Mặc dù là một nhà kỹ thuật có tài, Edison rất
ghét sự trục lợi, đầu cơ. Khi đã đạt được các công trình nghiên cứu
rồi, Edison lấy làm thỏa mãn về sự thành công mà coi thường các lời lãi
do phát minh của mình mang tới. Edison đã bán xưởng chế tạo bóng đèn cho
một công ty điện và công ty này về sau trở nên rất phát đạt và nổi danh
trên thế giới : Công Ty General Electric.
Hai năm sau ngày thành
công về đèn điện, bà Mary mắc bệnh thương hàn và qua đời, để lại cho
chồng ba đứa con và lòng thương nhớ. Quá buồn phiền, Edison gửi các con
về ông bà ngoại tại New York còn mình thì tìm quên trong phòng thí
nghiệm. Edison nhận thấy cần phải có một cơ xưởng rộng lớn hơn cơ xưởng
Menlo Park. Ông đã chọn thành phố West Orange, thuộc tiểu bang New
Jersey. Công việc xây cất được bắt đầu. Cũng trong thời gian này, Edison
cho thiết lập thêm một phòng thí nghiệm để làm việc trong mùa đông, vì
thế một cơ xướng mới được lắp ráp tại Fort Myers, một nơi gần bờ biển
trong tiểu bang Florida.
Trong khoảng thời gian từ năm 1881 tới
năm 1887, Thomas Edison nghiên cứu nhiều thứ và phát minh ra các máy móc
thuộc nhiều loại. Ông đã tìm ra cách gửi điện tín từ một ga tới một xe
lửa đang chạy. Ông đã thử cách cất giữ trái cây trong chân không, phác
họa ra máy bay trực thăng, máy gặt bông gòn, máy may điện, thang máy
điện, xe lửa điện, xe gạt tuyết và ông khảo cứu cả về vô tuyền điện.
Ngày nay “hiện tượng Edison” còn được áp dụng vào các bóng đèn máy vô
tuyến truyền thanh.
Công việc quá bận rộn đã khiến Edison quên
bớt nỗi buồn phiền về người vợ đã khuất. Ông bắt đầu cảm thấy cần phải
ra khỏi tháp ngà. Người ta thường thấy ông đi dự các buổi trình diễn âm
nhạc hay có mặt tại các bữa yến tiệc. Vào một buổi chiều năm 1885, trong
một bữa ăn do một người bạn tổ chức, Edison đã gặp một thiếu nữ rất đẹp
và duyên dáng, hôm đó đang ngồi tại đàn dương cầm. Nàng tên là Mina
Miller, là con gái của ông Lewis Miller, một kỹ nghệ gia và cũng là
người phát minh ra chiếc máy gặt lúa. Hai người trở nên đôi bạn thân.
Lần
gặp gỡ cô Mina đã làm cho Edison hết cô đơn. Edison đã dạy cho Mina tín
hiệu Morse vì ông kém về thính giác. Trong một buổi đi coi hát, Edison
đã dùng tín hiệu Morse để hỏi cảm tình của Mina đối với ông. Cô Mina
cũng đáp lại bằng thứ tín hiệu đó. Hai người cưới nhau vào năm 1886, khi
đó chàng 39, nàng 21 tuổi, nhưng sự chênh lệch về tuổi tác không là
hàng rào ngăn cách hai người. Edison thường ăn mặc lôi thôi như một đứa
trẻ và Mina đã săn sóc chồng từng chút một. Mina thường dấu chiếc áo
ngoài của chồng nên khi muốn ra đường, Edison phải gọi tới nàng, đó là
lúc nàng kiểm soát cách ăn mặc, bắt chồng phải cạo râu, chải tóc.
Mina
còn săn sóc Edison cả về sự ăn uống. Chính nàng tự tay mang thức ăn tới
phòng thí nghiệm cho chồng và luôn luôn khuyến khích chồng bằng những
lời nói êm dịu. Nếu Mary Stitwell, người vợ thứ nhất của Edison, là
người đã góp phần quan trọng vào các thành công đầu tiên thì Mina Miller
lại là người bạn trung thành và cộng sự viên đắc lực của Edison. Nàng
luôn luôn theo chồng trong các chuyến du lịch hay tham dự những buổi yến
tiệc, nàng nhắc lại cho Edison những gì ông không nghe rõ. Trong các
buổi tiếp tân tại nhà, các bạn của Edison đã tặng Mina danh hiệu “Bà chủ
nhà duyên dáng nhất Mỹ Quốc”. Mina còn làm cho gia đình Edison gồm 4
trai, 2 gái, trong đó có 3 người con của Mary, tất cả đều cảm thấy hạnh
phúc.
8. Phát minh ra Máy Chiếu Bóng.
Vào
một buổi chiều năm 1887, Thomas Armat tới thăm Edison và đưa cho nhà
phát minh xem một máy chiếu hình, khi đó chưa hoàn hảo. Armat biết rằng
chỉ có Edison mới có đủ tài cải biến máy móc đó ra một thứ có ích lợi
thực tế. Khi nhìn thấy chiếc máy kinematoscope (do chữ Hy Lạp kinema là
chuyển động), Edison nhận ra ngay giá trị của nó. Ông đã bỏ ra 4 năm
công sức vào việc cải tiến máy chiếu bóng và chế tạo máy quay phim và
như vậy, đã mở đầu cho một ngành kỹ nghệ rộng lớn trên thế giới, chuyên
cung cấp món giải trí bình dân nhất.
Edison đã bỏ ra 100,000 đô
la để lập phim trường tại Bronx Park. Ông đã thuê võ sĩ vô địch quyền
Anh hạng năng tên là James J. Corbett tới Orange biểu diễn, để quay
thành phim. Edison đã sản xuất được nhiều cuốn phim và còn cho phối hợp
chiếc máy hát vào việc chiếu phim nói.
Khi kỹ nghệ chiếu bóng bắt
đầu phát triển, Edison lại quay sang các lãnh vực mới. Ông làm nhiều
thí nghiệm về quang tuyến X, thời đó vừa được Roentgen tìm ra. Công
trình nghiên cứu của ông khiến ông chế tạo được máy huỳnh quang nghiệm
(fluoroscope) và đèn huỳnh quang (lampe fluorescente). Edison còn lấy
bằng phát minh cho bình ắc quy, loại đèn điện an toàn dùng trong hầm mỏ,
cải tiến máy tính, tìm ra hợp chất sắt nickel. . . Ngoài ra còn rất
nhiều phát minh nhỏ mọn khác mà ngày nay đối với chúng ta coi là tầm
thường nhưng ở vào thời kỳ đó chưa có ai nghĩ tới cả.
Vào tuổi
60, Thomas Edison vẫn còn làm việc hăng hái như xưa. Ông đã “giải trí
bằng cách thay đổi công việc làm”. Người ta hỏi ông về nghệ thuật của
“Thành Công” và được ông trả lời : “Đó là khả năng kiên nhẫn”. Ông đã
định nghĩa : “Thiên tài gồm 2 phần trăm cảm hứng và 98 phần trăm cực
nhọc”. Edison cho rằng cách làm việc miệt mài bằng trí óc chính là bí
quyết của sức khỏe và sự sống lâu, và ông còn nói thêm “Tôi chỉ cần tới
thân xác để nuôi dưỡng bộ óc”.
Năm Thomas Edison 67 tuổi, một
trận hỏa hoạn đã đốt sạch 7 dãy nhà không bảo hiểm tại West Orange,
thiệt hại lên tới 5 triệu đô la. Edison đã mỉm cười với số phận. Ông
liền bắt tay vào việc thiết lập lại cơ xưởng cũ.
Vào năm 1915,
chính quyền Hoa Kỳ dự định tổ chức một cuộc triển lãm tại San Francisco,
lấy tên là Cuộc Triển Lãm Panama Thái Bình Dương (Panama Pacific
Exposition) để kỷ niệm ngày hoàn thành Kênh Đào Panama. Ban tổ chức Cuộc
Triển Lãm có nhã ý dành ngày 21/10 làm “Ngày Edison”. Vào sáng ngày
21/10/1915 đó, ngày sinh nhật thứ 36 của chiếc đèn điện, Thomas Edison
cùng Luther Burbank và Henry Ford tới thăm Phòng Triển Lãm. 50,000 người
đã đứng hai bên đường để đón chào ba nhân vật đã mở mang con đường dẫn
tới Văn Minh. Tại Phòng Đại Hội, Edison đã nhận lãnh huy chương đặc biệt
trước hàng ngàn dân chúng hâm mộ và huy chương này được trao tặng về
các công trình tốt đẹp mà ông đã thực hiện cho Nhân Loại.
Ngày
28/ 6/1914, Trận Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ và lan dần tới Mỹ Quốc khiến
cho quốc gia này cũng bị liên hệ. Các nhà Khoa Học và Phát Minh đều
theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Mặc dù gần 70 tuổi, Thomas Edison cũng tình
nguyện gia nhập Hải Quân và nhận làm Chủ Tịch Ủy Ban Cố Vấn Kỹ Thuật với
lòng mong ước mang lại Vinh Quang cho Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ông
Edison đã phát minh ra máy dò tầu ngầm và thủy lôi, đèn soi sáng dưới
nước và phương pháp ngụy trang tầu chiến. . . Hơn 40 phát minh có tính
cách chiến thuật của ông đã mang lại cho ông Quân Công Bội Tinh (the
Distinguished Service Medal), một trong những huy chương cao quý nhất
của Quân Lực Hoa Kỳ.
9. Danh vọng cuối cùng
Từ
năm 12 tuổi tới lúc già, Thomas Edison đã làm việc miệt mài mà không
biết mỏi. Ông đã tự học từ năm lên 7 tuổi, khi bà Nancy kéo con về nhà.
Ông Edison là một người đọc sách không biết mệt và thường hay thực hiện 6
dự án cùng một lượt. Lúc 70 tuổi, ông còn coi mình như một người đang
độ sung sức.
Năm 1918 khi Thế Chiến Thứ Nhất kết thúc, ông Edison
trở về phòng thí nghiệm và bắt tay vào việc nghiên cứu một chất cần
thiết cho cả thời chiến lẫn thời bình : chất cao su. Tới năm 75 tuổi,
ông Edison mới chịu giảm bớt thời giờ làm việc xuống 16 giờ một ngày.
Ông thực hiện thứ đĩa hát quay lâu (disque de longue durée) vào năm 80
tuổi.
Ngày 21/ 10/1929, ông Thomas Edison được mời làm khách danh
dự trong một bữa tiệc tổ chức tại Detroit. Tối hôm đó Tổng Thống Hoa Kỳ
Herbert Hoover đã đứng lên ca tụng nhà Đại Phát Minh. Edison đã đáp từ
bằng mấy câu cảm ơn ngắn. Bỗng bà Mina thấy mặt ông tái xanh đi rồi ông
ngã người xuống ghế. Bác sĩ riêng của Tổng Thống điều trị cho ông nhưng
sức mạnh không thể trở lại với ông. Edison yếu dần từ đó.
Sáng
ngày Chủ Nhật, 18/10/1931, Thomas Edison lìa trần và 3 ngày sau, đúng
ngày sinh nhật thứ 52 của chiếc đèn điện đầu tiên, đám tang nhà Đại Phát
Minh được cử hành rất trọng thể tại thành phố West Orange, New Jersey.
Buổi tối hôm đó, tất cả đèn điện trên toàn thể lãnh thổ Hoa Kỳ đều tắt
trong một phút để tưởng nhớ một Vĩ Nhân, một “Người Bạn của Nhân Loại”
mà 52 năm về trước, đã cho Nhân Loại một thứ đèn quý giá.
Vào 2
năm trước, 1929, nhân ngày kỷ niệm chiếc đèn điện được 50 tuổi, ông
Henry Ford cho thiết lập tại Greenfield Park, thuộc tiểu bang Michigan,
một ngôi làng lịch sử nhắc nhở lại cuộc đời và công trình của Thomas
Edison. Phòng thí nghiệm tại Menlo Park cũng được dựng lại với tất cả
chi tiết cũ cùng các máy móc xưa. Henry Ford cũng cho tìm kiếm và mua
lại được 2 tờ báo The Weekly Herald, tờ báo mà hơn 70 năm về trước,
Thomas Edison đã in trên xe lửa. Không những chỉ có Henry Ford là người
kính trọng Thomas Edison mà hầu hết các người cộng sự của nhà Đại Phát
Minh đều kính mến ông cho tới khi ông qua đời.
Trong suốt cuộc
đời tận tụy, Thomas Edison đã lãnh tất cả 1,097 bằng phát minh. Thomas
Edison là gương sáng của người tự học. Ngoài nền giáo dục do mẹ ban cho,
Edison tìm học tại các thư viện công cộng. Tính ra ông đã đọc hơn
10,000 cuốn sách nhờ cách “ăn bớt thời giờ làm việc để ngốn hết 3 cuốn
sách mỗi ngày”. Trí nhớ và óc thông minh siêu việt của ông đã giúp ông
thấu hiểu và lưu trữ được tất cả kiến thức thu thập cho tới khi chết.
Ngoài học vấn về Khoa Học và Sử Học, Thomas Edison còn là một học giả
chuyên khảo cứu nền Văn Minh Hy Lạp và La Mã.
Lòng
tận tụy đối với Nhân Loại của Thomas Alva Edison đã được ông thực hiện
đúng như câu nói mà ông thường nhắc nhở : “Tổ Quốc của tôi là Thế Giới
và Tôn Giáo của tôi là làm Việc Thiện”.
Khoa học gia người Nhật, Canada đoạt giải Nobel vật lý
Khoa học gia Takaaki Kajita, người Nhật, và Arthur MacDonald, người Canada đoạt giải Nobel Vật lý năm 2015.
Hai nhà khoa học Takaaki Kajita, người Nhật, và Arthur MacDonald,
người Canada, đã đoạt giải Nobel Vật lý năm nay cho khám phá của họ về
khối lượng của hạt sơ cấp neutrino – trong đó cho thấy những hạt
neutrino – là loại hạt nhiều thứ nhì trong vũ trụ chỉ sau hạt photon –
có khối lượng.
Ủy ban Nobel cho biết trong một thông cáo rằng công trình nghiên cứu
của ông Kajita thuộc trường Đại học Tokyo và ông MacDonald thuộc trường
Đại Học Queen đã làm thay đổi sự hiểu biết của thế giới về những vận
hành tận cùng của vật chất.
Ủy Ban Nobel hôm thứ 2 cũng đã công bố tên những người đoạt giải về y
học – đó là các nhà khoa học của Ireland, Nhật và Trung Quốc.
Nhà khoa học người Ireland, William Campbell, và nhà khoa học người
Nhật, Satoshi Omura, cùng chung giải thưởng cho phát hiện của họ về một
liệu pháp mới chữa trị những viêm nhiễm do dòng ký sinh trùng giun sán
gây ra.
Nhà khoa học người Trung Quốc, bà Đỗ U U, đã khám phá ra một loại
thuốc có khả năng làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong của bệnh nhân bị sốt
rét và bà cũng đã cùng giành giải thưởng này.
Các giải Nobel được trao năm nay về các lĩnh vực y học, vật lý, hóa
học, văn học, hòa bình và khoa học kinh tế. Tiền thưởng là do nhà sáng
chế người Thụy Điển Alfred Bobel để lại và các giải thưởng, có từ năm
1901, đã trở thành giải thưởng thành tựu cao nhất trong mỗi lĩnh vực.
Những người giành giải được trao một giải thưởng bằng tiền có giá trị
hơi khác nhau trong từng năm – trong năm 2015, giải Vật Lý là 963.000
đô la, và được chia đều cho những người thắng giải. Họ cũng nhận được
một huy chương và một “bằng” Nobel.
Những người giành giải thưởng được công bố vào tháng 10, và các giải
thưởng được trao tại những lễ trao giải được tổ chức đầu tháng 12 tại
Stockholm, thủ đô của Thụy Điển, và Oslo, thủ đô của Na Uy.
Điểm qua những thành tựu đã giành giải Nobel năm 2015
Chứng minh khối lượng neutrino, phát hiện cơ chế ADN chữa ung
thư,… là những thành tựu nổi bật được vinh danh tại giải Nobel năm nay.
Giải Nobel
là tập hợp các giải thưởng quốc tế được trao hàng năm kể từ năm 1901
cho những cá nhân đạt thành tựu trong lĩnh vực vật lý, hóa học, y học,
văn học, kinh tế và hòa bình. Riêng trong lĩnh vực hòa bình còn có thể
được trao cho tổ chức hoặc cá nhân.
Người sáng lập nên giải Nobel
là nhà bác học nổi tiếng cùng tên Alfred Nobel (1833 - 1896). Theo di
chúc, số tài sản khổng lồ của ông được gửi vào ngân hàng và lấy tiền lãi
hàng năm để trao tặng cho những ai đã đem đến những lợi ích tốt nhất
cho con người.
Với 115 năm lịch sử của mình, giải Nobel đã vinh
danh rất nhiều những thành tựu vĩ đại của nhân loại. Và trong năm 2015
này, chúng ta hãy xem những ai và đóng góp gì của họ đã nhận được giải
thưởng cao quý này.
Nobel Y học: Phương pháp điều trị sốt rét và ký sinh trùng
Giải
thưởng được chia hai, 1/2 trao cho ông William C Campbell (Mỹ) và ông
Satoshi Omura (Nhật Bản) vì tìm ra liệu pháp mới chống nhiễm trùng do
giun tròn kí sinh, và 1/2 còn lại trao cho bà Youyou Tu - Trung Quốc vì
nghiên cứu phương thuốc mới chống lại sốt rét.
Ký sinh trùng vẫn luôn là một trong những vấn đề nhức nhối trong y học
Campell
và Omura đã phát triển loại thuốc mới có tên gọi Avermectin, giúp gần
như xóa bỏ tỷ lệ mắc bệnh mù sông (Onchocerciasis) và bệnh giun bạch
huyết (Lymphatic filariasis).
Những chứng bệnh này
đều do các loại giun tròn kí sinh trong cơ thể gây nên. Ngoài ra theo
hội đồng Nobel, Avermectin có tác dụng với nhiều loại ký sinh trùng khác
nữa.
Những nhà khoa học kiệt xuất đã giành giải Nobel Y học 2015
Còn
giáo sư Đồ của Học viện Đông Y Trung Quốc đã phát hiện ra chất
Artemisinin - một chất chiết suất từ cây ngải tây ngọt - một loại thảo
dược cổ truyền của người Trung Quốc.
Chất này
giúp làm giảm đáng kể tỉ lệ tử vong cho những người mắc sốt rét xuống
hơn 20% và hơn 30% ở trẻ em. Hiện nay, thuốc của bà được sử dụng trên
phạm vi toàn thế giới và chỉ tính riêng tại Châu Phi đã cứu sống hơn
100.000 người mỗi năm.
Nobel Vật lý: Giải mã "hạt ma" neutrino - siêu hạt cấu tạo nên vũ trụ
Giải
thưởng này được cùng trao cho hai nhà khoa học Takaaki Kajita, Arthur
B. McDonald trong việc khám phá ra khối lượng của neutrino - siêu hạt
cấu tạo nên vũ trụ và tính chất biến đổi của nó.
Arthur McDonald và Takaaki Kajita - những người đã thay đổi rất nhiều khái niệm cơ bản trong vật lý hạt
Trước
đây, các nhà khoa học cho rằng neutrino là một loại hạt hạ nguyên tử,
không mang điện tích, có khối lượng nghỉ bằng 0. Đặc biệt, hạt ma
neutrino tồn tại ở ba dạng khác nhau.
Nhưng
bằng việc sử dụng hai máy dò được đặt sâu trong lòng đất tại hai tỉnh
Hofu thuộc Nhật Bản và Ontario thuộc Canada, hai nhà khoa học Kajita và
McDonald đã phát hiện sự dao động của neutrino.
Theo đó, "hạt ma"
neutrino có thể dao động, biến đổi luân phiên giữa ba hình thái khi
truyền qua không gian - điều cho thấy chúng có khối lượng.
Phát
hiện trên được xem là bước đột phá trong ngành vật lý học. Bởi nếu
neutrino có khối lượng dù chỉ rất nhỏ cũng đã mâu thuẫn với các lý
thuyết trong vật lý hạt, khiến chúng ta phải thay đổi lại rất nhiều khái
niệm cơ bản trong lĩnh vực này.
Nobel Hóa học: nghiên cứu ADN chữa ung thư
Giải
thưởng Nobel hóa học được trao cho Tomas Lindahl, Paul Modrich và Aziz
Sancar vì công trình nghiên cứu về cơ chế sửa chữa ADN trong tế bào -
vật chất di truyền cơ bản của mọi sinh vật sống.
Về
cơ bản, ba nhà khoa học đã phát hiện ra các phân tử ADN không hề ổn
định như chúng ta nghĩ, mà ngược lại - chúng thay đổi và đột biến theo
thời gian.
Ba nhà khoa học đã giành được giải Nobel Hóa học 2015
Từ
đó, ba nhà khoa học nghiên cứu xem điều gì đã giữ cho ADN không bị phân
rã và họ khám phá ra cơ chế tế bào sử dụng để sửa chữa ADN nhằm ngăn
chặn các lỗi di truyền qua nhiều thế hệ.
Các cơ chế sửa chữa ADN
giúp giới sinh vật học có cái nhìn sâu sắc hơn về các tế bào trong cơ
thể chúng ta, đồng thời mở ra tiềm năng to lớn, một bước đột phá để phát
triển các phương pháp trị ung thư.
Nobel Văn học: khắc họa chân thực hình ảnh của Liên Bang Xô Viết trong lịch sử nhân loại
Giải thưởng thuộc về nữ nhà văn Svetlana Alexievich người Ukraine cho công trình "Bách khoa toàn thư về thời kỳ Xô Viết".
“Những
dòng văn đầy phúc điệu của bà, một tượng đài tri ân đau khổ và lòng
dũng cảm trong thời đại chúng ta. Những dòng văn phi thường giúp nhân
loại hiểu biết sâu sắc hơn về cả một thời đại của thế giới - thời đại
Liên bang Xô Viết" - Trích lời Viện Hàn lâm Thụy Điển
Svetlana Alexievich
Alexievich
có cha là người Belarus còn mẹ là người Ukraine. Bà sinh ra và lớn lên ở
Belarus, học nghề báo chí tại Đại học Minsk từ năm 1967 -1972.
Trong
suốt sự nghiệp làm báo của mình, Alexievich đã phỏng vấn hàng ngàn nhân
chứng trải qua các sự kiện chấn động nhất khối Liên Xô bao gồm Thế
chiến II, thảm họa hạt nhân Chernobyl, sự sụp đổ của Liên Xô…
Nobel Hòa bình: đóng góp mang tính quyết định để xây dựng nền dân chủ đa nguyên tại Tunisia
Giải
thưởng được trao cho Bộ tứ đối thoại quốc gia Tunisia, là một nhóm gồm
bốn tổ chức khác nhau đóng vai trò trung tâm trong việc nỗ lực xây dựng
nền dân chủ đa nguyên tại Tusinia.
Bộ tứ này gồm 4 tổ chức quan
trọng trong xã hội dân sự Tunisia: Tổng liên đoàn lao động Tunisia
(UGTT), Liên đoàn công nghiệp Tunisia (UTICA), Liên đoàn nhân quyền
Tunisia (LTDH) và Hiệp hội luật sư Tunisia. Với vai trò của mình, 4 tổ
chức nói trên đã đóng vai trò là lực lượng trung gian hòa giải và thúc
đẩy tiến trình dân chủ hòa bình ở quốc gia này.
Trong bối cảnh
nhiều nước đang lâm vào cảnh hỗn loạn, như Syria, Yemen... cùng với tác
động của cuộc khủng hoảng di cư ở châu Âu, Ủy ban Nobel Na Uy đã chọn
tôn vinh một đất nước chấp nhận đi con đường khác, từ đó hy vọng đây sẽ
là tấm gương để những nước khác noi theo.
Nobel Kinh tế: mối quan hệ giữa tiêu dùng và đói nghèo
Người được trao tặng giải thưởng này là Angus Deaton, nhà kinh tế học gốc Scotland, đồng thời là giáo sư Đại học Princeton, Mỹ.
Giáo sư kinh tế Angus Deaton thuộc ĐH Princeton (Mỹ)
Nghiên cứu đoạt giải của ông phân tích về mối quan hệ giữa tiêu thụ, nghèo đói, và sung túc trong xã hội của chúng ta.
Theo
Viện Hàn Lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển, nghiên cứu này có 3 đóng góp
rất lớn: Tìm ra cách người tiêu dùng phân bổ chi tiêu vào các loại hàng
hóa khác nhau; Thu nhập của xã hội được phân chia thế nào giữa tiêu
dùng và tiết kiệm; Cuối cùng là tìm ra phương pháp tối ưu để đo lường và
phân tích sự giàu có – nghèo khổ.
Nguồn: Nobelprize
Mặt trời xuất hiện lỗ hổng lớn gấp 50 lần Trái đất
Một "lỗ nhật hoa" khổng lồ gây nên những cơn gió Mặt trời cực mạnh mới được các nhà thiên văn phát hiện ra.
Các nhà thiên văn học tại NASA mới đây vừa nhận thấy một khu vực trông như một vực thẳm khổng lồ trên bề mặt của Mặt trời.
Lỗ
thủng này được chụp bởi Đài quan sát Solar Dynamics Observatory của
NASA, với kích thước lớn gấp 50 lần Trái đất của chúng ta.
Lỗ nhật hoa khổng lồ có kích cỡ bằng 50 lần Trái đất
Theo
các khoa học gia, hiện tượng này có tên gọi khá hoa mỹ: "Lỗ nhật hoa"
(coronal hole), xảy ra khi từ trường không thể quay ngược trở lại bề
mặt của Mặt trời, mà thay vào đó gửi đi những dòng phân tử qua những cơn
gió Mặt trời với tốc độ cao.
Đây không phải là lần đầu "Lỗ nhật hoa" xuất hiện. Hiện tượng này lần đầu tiên được phát hiện trong khoảng năm 1973-1974. Lỗ
nhật hoa tạo ra dòng chảy phân tử qua những cơn gió Mặt trời với tốc độ lên tới 800km/s.
Lỗ nhật hoa trên Mặt trời vào 1/1/2015
Theo NASA: "Các lỗ nhật hoa là những khu vực phát ra từ trường, và là nguồn gốc của những cơn bão Mặt trời với tốc độ cao".
Dù
trông "có vẻ" đáng báo động, nhưng theo các chuyên gia, hiện tượng này
không khiến Trái đất gặp nguy hiểm. Cụ thể, "lỗ nhật hoa" là một hiện
tượng thường gặp ở Mặt trời, thường xuất hiện ở hai vùng cực.
Tần
suất xuất hiện "lỗ nhật hoa" phụ thuộc vào chu kỳ hoạt động của Mặt
trời, trong đó hiện tượng nãy sẽ xuất hiện nhiều hơn vào thời điểm Mặt
trời hoạt động yếu trong chu kỳ 11 năm.
Lỗ nhật hoa góp phần tọa nên hiện tượng cực quang tuyệt đẹp tại các vùng cực của Trái đất
NASA
cho biết từ trường phát ra từ lỗ nhật hoa thường không gây ra ảnh hưởng
nhiều, ngoại trừ đôi lúc tín hiệu vệ tinh và truyền dẫn vô tuyến bị
gián đoạn.
Những cơn bão Mặt trời đến từ lỗ nhật hoa có thể gây
ra những cơn bão địa từ gần Trái đất, tạo nên hiện tượng cực quang tuyệt
đẹp tại các vùng cực của Trái đất.
Nguồn: Daily Mail
NASA: Có bằng chứng vững chắc về nước trên Sao Hỏa
Những vết chảy xuống dốc trên sao Hỏa được cho là là đã được hình thành bởi nước chảy.
Các nhà khoa học của Cơ quan Không gian Hoa Kỳ NASA đã phát hiện
bằng chứng vững chắc là có những suối nước mặn trên Sao Hoả, ít nhất là
trong mùa hè trên hành tinh đỏ, theo loan báo của NASA hôm 28/9.
Dấu vết của những dòng nước khoáng chất muối được tìm thấy cần có
nước mới có thể được tạo ra, và nơi nào có nước có nghĩa là nơi đó có
thể có sự sống, ngay cả dưới hình thức những vi khuẩn.
Phát biểu trong cuộc họp báo để công bố những khám phá mới, ông Jim
Green, Giám đốc đặc trách khoa học vũ trụ tại trụ sở chính của NASA, nói
“ngày hôm nay, chúng ta đang có một cuộc cách mạng về cách hiểu hành
tinh này”.
Giữa lúc đang có nhiều suy đoán trước khi NASA công bố loan báo của
cơ quan này, cựu Giám đốc Chương trình nghiên cứu Hoả Tinh của NASA Doug
McCuistion nói với tờ Boston Herald rằng “Nếu họ loan báo là đã tìm
thấy nước chảy, dễ được tiếp cận trên mặt Sao Hoả, là một trong các giả
thuyết mà chúng ta đã được nghe từ biết bao nhiêu năm nay, thì điều đó
sẽ có những hệ quả lớn cho triển vọng có sự sống trên hành tinh đó, và
triển vọng sự sống của con người có thể được duy trì trên hành tinh
này”.
NASA đã tìm thấy bằng chứng về sự hiện diện của nước trên Hoả Tinh
trong quá khứ. Hồi tháng Ba, NASA nói rằng đã có thời, có nhiều nước
trên Sao Hoả hơn là so với Bắc Băng Dương trên quả địa cầu.
Thuốc có thể chữa ung thư được vô tình tìm ra từ vaccine sốt rét
Các nhà khoa học mới tạo ra một loại protein từ virus sốt rét có
khả năng tìm và tiêu diệt tới 90% tế bào của tất các loại ung thư.
Các khoa học gia từ ĐH British Columbia (Canada) và ĐH Copenhagen (Đan Mạch) có thể đã tìm ra một phương thuốc chữa trị ung thư - và nó đến từ một loại bệnh chết người khác: sốt rét.
Trong
quá trình nghiên cứu phương pháp bảo vệ sản phụ khỏi virus gây bệnh sốt
rét, các nhà nghiên cứu người Đan Mạch đã nhận thấy rằng các protein có
trong virus sốt rét có khả năng tấn công tế bào ung thư.
Bằng
việc kết hợp giữa protein có trong virus sốt rét cùng độc tố của chúng,
các khoa học gia đã tạo ra một loại protein mới với khả năng tìm kiếm
các tế bào ung thư và tiêu diệt chúng.
Virus sốt rét nguy hiểm thường được lây lan bởi muỗi anopheles - nay đem lại tiềm năng chữa ung thư
Theo
các chuyên gia nghiên cứu, protein trong virus sốt rét sẽ tìm kiếm các
phân tử carbohydrate có trong nhau thai - thứ có đảm bảo sự phát triển
của bào thai.
Tuy nhiên, trong tế bào ung thư cũng có các phân
tử carbohydrate với chức năng tương tự - giúp tế bào ung thư phát triển.
Điều này có nghĩa, nếu tiêu diệt được carbohydrate, các tế bào ung thư
cũng sẽ bị tiêu diệt.
Để có thể đưa ra kết luận, các
chuyên gia đã tiến hành thí nghiệm trên hai nhóm chuột. Theo đó, với
bệnh ung thư hạch không Hodgkin (ung thư bắt nguồn từ hệ thống bạch
huyết) - khối u trong cơ thể chuột được điều trị với vaccine bằng khoảng
1/4 kích thước khối u ở nhóm chuột không tiêm thuốc.
Với
bệnh ung thư tuyến tiền liệt, sau khi được điều trị một tháng, kết quả
ghi nhận đầu tiên cho thấy - các khối u đã biến mất ở hai trong số sáu
cá thể chuột.
Với ung thư xương di căn, năm
trong số sáu cá thể chuột được điều trị vẫn còn sống sau gần tám tuần.
Trong khi đó, ở nhóm chuột không được tiêm thuốc - không có cá thể chuột
nào sống sót.
Giáo sư Ali Salanti thuộc ĐH Copenhagen cho biết: "Trong
hàng thập kỷ, các nhà khoa học đã cố gắng chứng minh sự giống nhau giữa
sự phát triển của nhau thai và sự di căn của ung thư. Nhau thai phát
triển rất nhanh chỉ trong vài tháng, cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho
bào thai. Tế bào ung thư cũng vậy, di căn và lấy đi dưỡng chất của
chúng ta". Trong các thử nghiệm mới nhất trên chuột và trên
hàng ngàn tế bào ung thư, kết quả cho thấy thực sự đáng kinh ngạc: virus
sốt rét có thể tiêu diệt tới 90% tế bào của TẤT CẢ các loại ung thư.
Tuy nhiên, Salanti cho biết: "Câu
hỏi lớn nhất hiện vẫn chưa được trả
lời, đó là liệu phương pháp này có thể ứng dụng trên cơ thể người mà
không để lại tác dụng phụ hay không? Nhưng chúng tôi tin rằng điều này
là hoàn toàn có thể, do các phân tử carbohydrate virus tấn công chỉ có
trong bào thai và tế bào ung thư - tức là không xuất hiện ở bộ phận nào
khác".
Sốt rét là một chứng bệnh gây ra bởi ký sinh trùng tên
Plasmodium, lây truyền từ người này sang người khác khi những người này
bị muỗi đốt.
Sốt rét là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ
biến nhất và là vấn đề rất nghiêm trọng đối với sức khoẻ cộng đồng. Mỗi
năm có khoảng 515 triệu người mắc bệnh, từ 1 đến 3 triệu người tử vong -
đa số là trẻ em ở khu vực phía Nam sa mạc Sahara, châu Phi.
Sốt rét thường đi kèm với đói nghèo, lạc hậu và là một cản trở lớn đối với phát triển kinh tế.
Tốc độ ánh sáng nhanh đến nỗi nó có thể đưa bạn đi lại giữa London và New York đến 50 lần chỉ trong vòng một giây.
Với tốc độ như vậy, có lẽ bạn sẽ tự hỏi vì sao con người lại muốn phát minh ra cách thức liên lạc nhanh hơn tốc độ ánh sáng?
Do
khoảng cách to lớn giữa các vật thể trong vũ trụ, các thông điệp, dù
được chuyển đi ở tốc độ ánh sáng, cũng sẽ tốn nhiều thời gian.
Hiện nay, vẫn không có cách nào để liên lạc nhanh hơn như vậy mà không phá vỡ các quy luật về vật lý.
Cho
đến nay, việc liên lạc ở tốc độ siêu ánh sáng là không cần thiết. Nơi
xa nhất mà con người đã đặt chân đến là Mặt trăng - cách chúng ta chỉ
384.400 km.
Khoảng cách này chỉ tốn 1,3 giây để vượt qua ở tốc độ ánh sáng.
Khoảng thời gian này cũng chỉ giống như lúc tín hiệu bị trì hoãn khi bạn gọi cho ai đó ở đầu phía bên kia thế giới.
Khó khăn do khoảng cách
Thế nhưng nếu đi xa hơn - như Sao Hỏa chẳng hạn - chúng ta sẽ bắt đầu gặp khó khăn.
Sao
Hỏa cách Trái Đất khoảng 225 triệu km, tức 12,5 phút ánh sáng, khiến
các cuộc nói chuyện giữa Sao Hỏa và Trái Đất sẽ rất khó khăn.
Tàu vũ trụ Voyager đã vượt ra khỏi hệ mặt trời, cách Trái Đất 19,5 tỷ km.
Bất
chấp khoảng cách này, chúng ta vẫn có thể nhận thông tin liên lạc từ
họ, nhưng các thông điệp này thường đến trễ đến 18 tiếng.
Theo thuyết tương đối của Einstein, mọi thứ sẽ luôn như vậy, không gì có thể đi nhanh hơn ánh sáng.
Nếu
con người tìm ra cách để vượt qua giới hạn này, chúng ta sẽ cần phải
'nhìn lại rất nhiều quy luật về vật lý', theo nhà nghiên cứu Les
Deutsch, từ phòng thí nghiệm Jet Propulsion tại Học viện khoa học
Califronia.
Les Deutsch đã dành nhiều năm thiết kế các thiết bị thông tin liên lạc xuyên vũ trụ cho Nasa.
Hầu
hết các hình thức liên lạc trong vũ trụ được thực hiện qua sóng radio,
vốn di chuyển ở vận tốc ánh sáng. Công nghệ liên lạc bằng laser cũng
đang được nghiên cứu.
Lỗ sâu
Có lẽ chúng ta không thể tăng tốc độ liên lạc, nhưng vẫn có cách để tăng khối lượng thông tin được gửi đi từng giây.
"Một trong những điều chúng ta có thể làm là nâng tần số lên cao hơn, từ 8GHz lên 30GHz," ông Deutsch nói.
Tần số càng cao thì lượng thông tin được truyền đi mỗi giây cũng cao hơn.
Bên cạnh đó, lượng thông tin gửi đi cũng có thể tăng lên bằng các phương pháp nén thông tin.
Có lẽ trong tương lai chúng ta có thể làm cho tốc độ của thông điệp có vẻ nhanh hơn.
"Theo thuyết tương đối thì có lẽ chúng ta có thể sử dụng những lỗ sâu trên vũ trụ như đường tắt", Deustch nói.
Có
thể nghĩ theo cách này - nếu bạn vẽ hai chấm bất kì trên một tờ giấy
thì một đường thẳng sẽ là đường ngắn nhất từ chấm này đến chấm kia.
Tuy nhiên nếu bạn gấp tờ giấy đó lại, chúng sẽ ở gần nhau hơn và một cây kim có thể đâm thủng cả hai chấm đen.
Tất
nhiên là trong không gian, các lỗ sâu khó có khả năng được đặt một cách
tiện lợi như vậy. Chúng có thể đẩy nhanh tốc độ một số thông điệp,
nhưng không có nghĩa là thông điệp sẽ được nhận ngay tức khắc.
Liên đới
Một
trong những cách khác đang được xem xét, đó là hạt liên đới - nghĩ là
các phân tử luôn có chung tính chất, dù chúng có cách nhau bao xa đi
nữa.
"Nếu bạn thay đổi phân tử này, có nghĩa là bạn cũng sẽ thay đổi phân tử kia", Ed Trollope, một kỹ sư tàu vũ trụ nói.
"Có thể nói liên lạc giữa chúng ta có thể diễn ra ngay tức khắc trong tương lai bằng hạt liên đới".
Tuy nhiên điều này không hề đơn giản.
Nếu
bạn có một đôi hạt liên đới, một hạt trên tàu vũ trụ và hạt kia trên
Trái Đất, điều này có nghĩa là bất kỳ sự thay đổi nào đối với hạt trên
tàu vũ trụ sẽ được nhìn thấy đối với hạt trên Trái Đất.
Tuy nhiên,
người giám sát trên Trái Đất sẽ khó hiểu được sự thay đổi này nghĩa là
gì nếu không có giải thích từ chính phi thuyền, và thông điệp này sẽ
không thể đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng.
Nếu liên lạc siêu ánh sáng là điều có thể, điều này có thể tác động to lớn đến các nhiệm vụ thám hiểm vũ trụ.
"Nếu bạn có một vệ tinh trong quỹ đạo Trái Đất, mọi liên lạc sẽ diễn ra gần như ngay tức khắc", Trollope nói.
"Nhưng
nếu tín hiệu bị chậm 30 phút, điều này có nghĩa là nếu bạn thấy một
trục trặc nào đó hiển thị trên màn hình, nó đã xảy ra từ 30 phút trước".
"Bất cứ mệnh lệnh nào bạn gửi đi cũng sẽ tốn thêm 30 phút nữa".
Ngày
nay, tất cả những phương án như hạt cơ bản, liên đới lượng tử, vẫn
không phải là cách tốt nhất để tiến đến liên lạc với tốc độ siêu ánh
sáng.
Các lỗ sâu, nếu tồn tại, và nếu tín hiệu có thể đi xuyên qua
chúng, có thể cho chúng ta cảm giác liên lạc ở tốc độ siêu ánh sáng.
Thế nhưng thực tế là liên lạc siêu ánh sáng vẫn là một thách thức đối với những quy luật trong khoa học ngày nay.
Bản gốc bài viết đã được đăng trên
BBC Future
Internet là thứ không thể phá hủy. Ít ra là chúng ta nghĩ như vậy.
Đó
là lý do vì sao mỗi khi một điều gì đó có sức lan toản rộng, ví dụ như
hình của Kim Kardashian, chúng ta thường đùa cợt rằng nó đang ‘huỷ diệt
Internet’.
Điều này dĩ nhiên là không bao giờ có thể xảy ra. Chúng
ta chỉ đơn thuần đang tìm cách để phóng đại tác động của một sự kiện
nào đó.
Thế nhưng liệu Internet có thể nào bị tiêu diệt hoàn toàn? Và nếu có, liệu điều gì sẽ xảy ra tiếp đó?
Một
phần của câu trả lời nằm tại trung tâm giao dịch Internet London (Linx)
- nơi giao dịch lưu lượng trên internet lớn nhất thế giới.
Matthew Prince, CEO của dịch vụ CloudFlare, ước tính chỉ có khoảng 30 cơ sở như Linx trên toàn thế giới.
Những
toà nhà rải khắp thế giới như thế này là nơi các máy chủ từ những nhà
mạng như Virgin hay Comcast kết nối để trao đổi lưu lượng.
Nếu bất kì trụ sở nào trong số này ngưng hoạt động - ví dụ như vì mất điện hay động đất, hậu quả sẽ hiển thị rõ ngay tức khác.
“Internet trong khu vực sẽ ngưng hoạt động”, ông Prince nói.
“Và nếu bạn phá huỷ cả 30 toà nhà này thì Internet sẽ ngưng hoạt động trên toàn cầu”.
Tất
nhiên là viễn cảnh đó khó xảy ra. Những trụ sở Internet quan trọng như
vậy thường được bảo vệ chặt chẽ, Jack Waters, giám đốc công nghệ của
Level 3, nói.
“Chúng tôi có camera quan sát ở khắp nơi và áp đặt các biện pháp an ninh cần thiết. Đây là những cơ sở rất kiên cố,” ông nói.
Có lẽ việc cắt đường dây kết nối giữa những nơi này sẽ dễ dàng hơn là phá huỷ Internet?
Khó để liệt kê số lượng dây nối Internet trên toàn cầu, và những đường dây lớn nhất thường được đặt dưới lòng biển.
Trong quá khứ, đã từng xảy ra nhiều trường hợp các đường dây này bị cắt đứt do động đất hoặc do bị neo tàu chạm phải.
Trung tâm giao dịch lưu lượng ở London
Bền bỉ
Mặc dù vậy, hậu quả của những thiệt hại đối với cơ sở hạ tầng không lớn như bạn tưởng.
Hệ thống Internet được thiết kế để đạt được sự bền bỉ cao.
Paul
Baran, một kỹ sư người Mỹ gốc Ba Lan, là một trong những người ngay từ
những năm 60 đã tin rằng mạng lưới liên lạc cần được thiết kế để chịu
đựng được cả một cuộc tấn công nguyên tử.
Ngoài Baran ra, Donald Davies, một nhà khoa học máy tính, cũng có ý tưởng tương tự.
Giải
pháp của họ bao gồm việc chia nhỏ các dữ liệu và thông tin. Các mảnh
nhỏ này sau đó sẽ được chuyền qua mạng lưới thông qua đường truyền nhanh
nhất có thể và được ráp lại thành một khi đã đến đích.
Điều này đồng nghĩa với việc dù một đường dẫn có bị cắt, thông tin vẫn có thể tự tìm đến những đường dẫn khác.
“Đây là một strong những ý tưởng cực kỳ thông minh”, Waters nhận định.
“Chúng ta có một sự liên lạc giữa đầu này với đầu kia mà không cần quan tâm về điều gì xảy ra ở phần trung gian”.
Tất
nhiên là khả năng tìm đường dẫn mới của Internet cũng có thị bị sử dụng
để chống lại nó, tiêu biểu là các cuộc tấn công từ chối dịch vụ (Denial
of service - DDoS).
DDoS là khi một lưu lượng lớn được gửi tràn ngập đến các máy chủ, khiến chúng không thể đáp ứng nổi.
DDoS đang ngày càng trở nên phổ biến hơn và đây là mối đe doạ mà những công ty như CloudFlare phải ngăn chặn, ông Prince nói.
Hệ thống máy chủ có dung lượng cao của CloudFlare có thể “hấp thụ” khối lưu lượng xấu để giúp các trang web tiếp tục hoạt động.
Tuy nhiên, các cuộc tấn công ngày càng trở nên khó đối phó hơn.
“Chúng tôi đang chứng kiến các vụ tấn công ngày càng gia tăng về cả số lượng và quy mô,” Prince nói.
“Nó dễ thực hiện đến nỗi nhiều khi các công ty cạnh tranh cũng làm”.
Một
trong những mối lo ngại lớn khác là đột nhập vào BGP. BGP là giao thức
tìm đường nòng cốt trên Internet (Border Gateway Protocol).
Đây là hệ thống chọn đường cho lưu lượng Internet.
Từ
lâu, BGP được cho là luôn gửi lưu lượng đến đúng hướng. Tuy nhiên những
năm gần đây, lưu lượng có thể bị chuyển đi sai hướng, đồng nghĩa với
việc một khối lượng lớn dữ liệu Internet có thể bị đánh cắp và sử dụng
bởi một bên thứ ba.
Trường hợp xấu nhất
"Tôi
nghĩ một vụ tấn công lớn nhằm phá hủy hoàn toàn hệ thống Internet là có
thể", Vincent Chan, giáo sư tại Học viện Công nghệ Massachusetts, nói.
Ông cho rằng các đợt tấn công vào cơ sở hạ tầng sẽ khó để lại những hậu quả lâu dài.
Tuy nhiên nếu tin tặc có thể tìm được một điểm yếu về phần mềm, đó sẽ là vấn đề lớn.
Chan cũng chỉ ra các phương thức gây nghẽn Internet rất khó để phát hiện.
Trong phòng thí nghiệm của mình, ông chỉ ra rằng các tín hiệu có thể bị gây nhiễu.
"Nếu
bạn gây nhiễu tín hiệu ở một mức độ vừa phải, không đủ để không gây tác
động lớn đến toàn hệ thống, nhưng lại vừa đủ để gây ảnh hưởng làm các
tệp tin không thể đọc được", ông giải thích.
"Máy chủ sau đó sẽ liên tục yêu cầu gửi lại tín hiệu và nó có thể bị chậm lại, khoảng 1% chẳng hạn".
"Những người vận hành máy chủ sẽ không biết điều gì đang xảy ra. Họ chỉ cho rằng hệ thống đang bận hơn so với thường ngày".
Chan
nghĩ rằng có một số người có thể muốn tấn công Internet theo cách này.
Tuy nhiên hậu quả của các đợt tấn công này có vẻ như vẫn chưa được lường
trước.
"Tôi nghĩ cần thảo luận về các vụ tấn công và việc bảo vệ mạng Internet như là một thực thể".
"Tôi nghĩ điều này chưa bao giờ được thảo luận một cách thích đáng", ông nói.
Bản gốc bài viết đã được đăng trên
BBC Future
Phản ứng tổng hợp hạt nhân ngược lại với
phản ứng bên trong các nhà máy năng lượng nguyên tử, nó có thể tạo ra
nguồn năng lượng vô tận.
Phản ứng tổng hợp hạt nhân chính là thứ cấp năng lượng cho Mặt trời
và các vì sao – giải phóng ra một nguồn năng lượng cực lớn thông qua
việc gắn các nguyên tố nhẹ lại với nhau, như hydrogen và helium. Nếu
năng lượng tổng hợp này được khai thác trực tiếp trên Trái đất, nó có
thể cung cấp một nguồn năng lượng sạch vô tận, dùng nước biển như là
nguồn dầu chính mà không tạo ra khí nhà kính, không có nguy cơ gia tăng
nhanh, và không có nguy phải đối mặt với các tai nạn thảm khốc.
Lượng chất thải phóng xạ sinh ra là rất thấp và gián tiếp, chủ yếu từ
sự kích hoạt neutron của hạt nhân. Với các công nghệ hiện tại, một nhà
máy năng lượng hạt nhân có thể được tái sử dụng trong vòng 100 năm trước khi bị đóng cửa.
Các nhà máy năng lượng hạt nhân ngày nay khai thác năng lượng từ hiện
tượng phân hạt hạt nhân – sự phân chia hạt nhân của các nguyên tử nặng
như uranium, thorium và plutonium để trở thành các hạt nhân con nhỏ hơn.
Quá trình này tự phát sinh trong các nguyên tố bất ổn định, và nó có
thể được khai thác để tạo ra điện năng, nhưng nó cũng tạo ra nguồn chất
thải phóng xạ rất lâu bị tiêu trừ.
Vậy tại sao chúng ta vẫn chưa sử dụng nguồn năng lượng sạch và an
toàn từ phản ứng tổng hợp hạt nhân? Dù những nghiên cứu trên mảng này đã
đạt được những đột phá lớn, tại sao những nhà vật lý học vẫn đặt nặng
những hoài nghi về một công trình được coi là “bước đột phá của nhân
loại” này?
Không như phân hạt hạt nhân, hạt nhân không tự động trải qua quá
trình tổng hợp: các hạt nhân được tích điện dương và phải vượt qua được
lực tĩnh điện khổng lồ của mình trước khi chúng đến được đủ gần để lực
hạt nhân có vai trò gắn các hạt nhân lại với nhau phát huy tác dụng.
Trong tự nhiên, lực hấp dẫn khổng lồ của các ngôi sao là đủ lớn để
nhiệt độ, độ đặc và thể tích của hạt nhân của chúng duy trì được sự tổng
hợp thông qua các “kênh lượng tử” của các hàng rào tĩnh điện. Trong
phòng thí nghiệm, sự xuất hiện của các kênh lượng tử là quá thấp, và do
đó, hàng rào tĩnh điện chỉ có thể được vượt qua bằng cách tăng nhiệt độ
các hạt nhân năng lượng – khiến chúng nóng gấp 6-7 lần nhân mặt trời.
Thậm chí cả phản ứng tổng hợp hạt nhân dễ khởi phát nhất – phản ứng
kết hợp giữa các đồng phân của hydrogen như deuterium và tritium để hình
thành nên helium và một neutron mang năng lượng – cũng cần đến nhiệt độ
khoảng 120 triệu độ C. Ở một nhiệt độ cực cao như thế, các nguyên tử
năng lượng vỡ vụn để cho ra các thành phần electron và hạt nhân của nó,
tạo nên 1 thể plasma siêu nhiệt.
Việc cố định được thể plasma này đủ lâu để các hạt nhân có thể hòa
trộn cùng nhau là một chiến tích không tầm thường chút nào. Trong phòng
thí nghiệm, thể plasma được giam giữ nhờ vào một từ trường mạnh, được
hình thành bởi các cuộc dây siêu dẫn tích điện, từ đó tạo ra một “chai
từ trường” hình bánh rán nhốt thể plasma vào đó.
Các thực nghiệm về plasma hiện nay, như thực nghiệm Joint European
Torus có thể giữ được plasma ở nhiệt độ dành cho mạng khuếch đại công
suất, nhưng độ đậm đặc và thời gian giam giữ năng lượng (thời gian hạ
nhiệt thể plasma) là quá thấp để nó có thể tự cấp nhiệt.
Nhưng quá trình này đã có một số bước tiến nhất định – những thực
nghiệm hiện nay đã cho ra mắt những phản ứng có hiệu suất tốt hơn gấp
1000 lần, về nhiệt độ, độ đậm đặc của plasma và thời gian giam giữ nó,
so với các thực nghiệm 40 năm trước. Và giờ chúng ta đã có những ý tưởng
không tồi cho việc đẩy nhanh quy trình. Những thay đổi hệ thống
Lò phản ứng ITER, hiện đang được xây dựng tại Cadarache miền Nam nước
Pháp, sẽ khám phá về “hệ thống đốt plasma”, hệ thống mà tại đó, nhiệt
năng plasma sinh ra nhờ các sản phẩm bị giam giữ sinh ra từ phản ứng hạt
nhân sẽ vượt quá năng lượng nhiệt ngoại lai. Năng lượng thu được từ
ITER sẽ gấp hơn 5 lần nhiệt năng ngoại lai trong các dự án kế cận, và sẽ
xuất hiện trong thời gian ngắn hơn gấp 10-30 lần.
Với chi phí vượt quá 20 tỷ đô la Mỹ và được tài trợ bởi một liên minh
7 quốc gia cùng các đồng minh khác, ITER là dự án khoa học lớn nhất
hành tinh. Mục đích của nó là nhằm thể hiện tính khả thi về khoa học và
công nghệ trong việc sử dụng năng lượng hạt nhân cho các mục đích hòa
bình như tạo ra điện năng.
Thách thức cho các kỹ sư và các nhà vật lý học là vô cùng lớn. ITER
sẽ sở hữu một cường độ từ trường khoảng 5 Tesla (gấp 100.000 lần từ
trường Trái đấ”, và bán kính bộ phận khoảng 6m, chứa khoảng 840 thể
plasma hình khối cạnh 6m (1/3 chiều dài một bể bơi chuẩn Olympic). Nó
nặng ước tính khoản 23 tấn và chứa khoảng 100.000 km sợi siêu dẫn làm từ
thiếc niobi. Toàn bộ cỗ máy này sẽ được nhúng chìm vào một thiết bị làm
mát nhờ vào helium lỏng để giữ cho các dây siêu dấn ở nhiệt độ chỉ hơn
độ 0 tuyệt đối một vài độ.
ITER dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất ra những thể plasma đầu tiên vào năm
2020. Nhưng các thực nghiệm đốt plasma vẫn chưa sẵn sàng khởi động cho
đến năm 2027. Một trong những thử thách cực lớn cần vượt qua đó là việc
quan sát xem những thể plasma tự lực này có thể được tạo ra và giữ ổn
định mà không làm tổn thương các tường bề mặt, (hay các mục tiêu “đánh
lạc hướng” dòng nhiệt cực lớn) hay không.
Những gì thu được từ việc xây dựng và vận hành ITER sẽ giúp ích cho
việc thiết kế các nhà máy tổng hợp hạt nhân tương lai, với mục đích tối
cao là sử dụng công nghệ cho việc tạo ra năng lượng. Tại thời điểm này,
có vẻ nhưng các nguyên mẫu của nó sẽ bắt đầu được triển khai xây dựng
vào những năm 2030, và sẽ có khả năng tạo ra khoảng 1 gigawatt điện.
Thế hệ các nhà máy tổng hợp hạt nhân đầu tiên sẽ có quy mô lớn hơn
nhiều so với ITER, người ta trông chờ rằng việc cải tiến trong giam giữ
và kiểm soát từ trường sẽ dẫn tới hiệu quả cao hơn. Như thế, chúng sẽ có
chi phí thấp hơn ITER, cũng như triển vọng về tuổi thọ lâu hơn và tác
động đến môi trường thấp hơn.
Những thách thức vẫn còn đó, và chi phí giờ luôn ở trên trời. Tất cả
những gì chúng ta cần làm là bắt tay vào làm việc để nhanh chóng chấm
dứt cơn ác mộng khủng hoảng năng lượng và ô nhiễm môi trường.
Năm 1915, Albert Einstein công bố
Thuyết tương đối tổng quát, trong đó mô tả lực hấp dẫn là một thuộc
tính cơ bản của không-thời gian. Ông đã đưa ra một tập hợp các phương
trình mô tả sự biến dạng của không-thời gian liên quan đến năng lượng và
động lượng. Tuy nhiên cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa thể tiến
hành những thử nghiệm thực tế của Thuyết tương đối, mà vẫn chỉ nghiên
cứu trên lý thuyết.
Một cách nhìn khác về trọng lực
Theo Einstein thì trọng lực không phải chỉ là một lực thông thường,
như những gì nhà vật lý Isaac Newton khám phá ra nó. Trọng lực có thể
được coi như là một độ cong của không-thời gian do khối lượng của các
đối tượng gây ra.
Bạn có thể tưởng tượng đơn giản như Trái đất quay quanh Mặt Trời,
thực chất không phải là do lực hấp dẫn của Mặt Trời khiến Trái đất quay
quanh nó. Mà là lực hấp dẫn của Mặt Trời quá lớn khiến cho không gian
xung quanh nó bị bẻ cong, và trong khi Trái đất quay quanh Mặt Trời thì
thực chất nó đang đi thẳng trong một không gian bị uốn cong.
Cách miêu tả không gian trong vũ trụ của Newton và Einstein hoàn toàn khácnhau.
Lý thuyết của Einstein cũng giải thích tính chất của các hố đen vũ
trụ, nơi mà có lực hấp dẫn lớn đến mức ánh sáng không thể thoát ra khỏi
nó. Cũng theo thuyết tương đối thì lực hấp dẫn cùng làm biến dạng thời
gian, nơi có lực hấp dẫn càng lớn thì thời gian trôi qua càng chậm.
Thuyết tương đối của Einstein đã từng được quan sát thấy nhiều lần
trong thực tế, Einstein cũng nổi tiếng với việc sử dụng lý thuyết của
mình để dự đoán quỹ đạo của một số hành tinh. Ông cũng dự đoán trước
hiện tượng một đối tượng mà có khối lượng đủ lớn có thể bẻ cong ánh sáng
của chính nó và gây ra một hiệu ứng gọi là thấu kính hấp dẫn.
Ánh sáng có thể bị uốn cong bởi
đối tượng có lực hấp dẫn rất lớn, tuy nhiên bản chất là do không gian
bị uốn cong chứ không phải lực hấp dẫn làm biến dạng ánh sáng.
Hiện tượng này đã từng được quan sát thấy trong vũ trụ, các nhà thiên
văn học cũng dựa trên hiện tượng này để tìm kiếm những hành tinh bên
ngoài dải Ngân hà, dựa trên độ lệch của ánh sáng từ một hành tinh nào
đó. Độ lệch ánh sáng này chính là do có một hành tinh với khối lượng rất
lớn gây ra, nó bẻ cong ánh sáng phát ra từ những hành tinh xung quanh.
Tuy nhiên chúng ta mới chỉ quan sát được các hiện tượng mà có thể
giải thích bằng Thuyết tương đối. Trên thực tế các nhà khoa học vẫn chưa
thể tiến hành các thử nghiệm thực tế của Thuyết tương đối này. Thử nghiệm lý thuyết của Einstein
Các nhà khoa học cần một thử nghiệm thực tế mà có thể chứng minh lý
thuyết của Einstein là đúng. Họ đã tìm đến một hiện tượng có tiềm năng
nhất để tiến hành thử nghiệm, đó là một dạng sóng trong không-thời gian
gọi là sóng hấp dẫn. Sóng hấp dẫn được sản sinh ra từ những sự kiện rất
lớn trong vũ trụ, như một vụ va chạm của hai đối tượng có khối lượng vô
cùng lớn, như hai lỗ đen hoặc hai ngôi sao neutron (những ngôi sao có
kích thước không lớn nhưng dày đặc vật chất bên trong khiến cho khối
lượng của chúng rất lớn).
Sóng hấp dẫn này có thể làm biến dạng không thời gian tại điểm mà nó
đi qua. Giống như hiện tượng sóng biển, bạn có thể tưởng tượng mặt nước
biển là không gian trong vũ trụ và sóng hấp dẫn là các đợt sóng biển.
Hai điểm trên mặt nước biển có khoảng cách cố định, nhưng khi sóng biển
đi qua, nó làm dâng mặt nước biển lên và khiến cho khoảng cách giữa hai
điểm đó thay đổi.
Ví dụ nếu như hai hố đen va chạm với nhau trong phạm vi dải Ngân Hà,
nó sẽ tạo ra sóng hấp dẫn mà nếu truyền đến Trái đất, có thể khiến
khoảng cách 1 m giữa hai đối tượng bị nén lại một khoảng rất nhỏ, chỉ
1/1000 đường kính hạt nhân nguyên tử.
Do đó, các nhà khoa học đã phải chế tạo ra một chiếc máy dò bằng
laser để phát hiện sóng hấp dẫn truyền đến Trái đất. Chiếc máy này có
tên là LIGO và bắt đầu hoạt động từ năm 2002. Chiếc máy này sử dụng tia
laser để phát hiện sự biến dạng không gian dù rất nhỏ, nếu sóng hấp dẫn
đi qua Trái đất. Tuy nhiên cho đến nay LIGO vẫn chưa phát hiện được dấu
vết nào của sóng hấp dẫn.
Năm 2010, chiếc máy LIGO đã bị ngừng hoạt động để nâng cấp, và một
phiên bản hoàn toàn mới sẽ được ra mắt và đưa vào sử dụng trong năm
2015. Chiếc máy mới hứa hẹn sẽ phát hiện được sóng hấp dẫn trong vũ trụ,
bằng cách mở rộng tầm rà soát rộng hơn.
Việc chứng minh được Thuyết tương đối có ý nghĩa rất lớn trong ngành
vật lý thiên văn và vật lý nói chung, vì đây sẽ là nền móng vững chắc
cho vật lý lượng tử sau này. Bên cạnh đó, với những thử nghiệm thực tế,
các nhà khoa học có thể sửa đổi và bổ sung những thiếu sót trong lý
thuyết của Einstein.
------------------------------------------------------------------------------------------- Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị. Geothe
wxMaxima 0.8.5
-
I have released wxMaxima version 0.8.5. There are no major changes in this
release. One of the cool things added are two new translations (Greek an
Japanes...
The Day in Photos – November 5, 2019
-
[image: Hindu women worship the Sun god in the polluted waters of the river
Yamuna during the Hindu religious festival of Chatth Puja in New Delhi,
India, ...
Bài tập B24.Tích phân học toán 12.docx
-
Để có thêm nguồn tư liệu cho HS học tập thi HK 2023 MÔN TOÁN, ÔN TẬP TRONG
LÚC HỌC TOÁN TRONG LỚP, EBOOKTOAN SƯU TẬP CÁC FILE TOÁN DOCX ĐỂ PHỤC VỤ CÁC
TH...
Maintenance And Power Consumption
-
Hello everyone,
In an air cooler, What's the relationship between motor power and
maintenance suitability. Example, an ACHE with 22 kw motors and one with ...
The Orbit of Kepler 16b
-
[image: The Orbit of Kepler 16b]NASA's Kepler space telescope recently made
the news by finding a planet that orbits a double-star system, a situation
that...
Union and indexed sets
-
∪i∈NXi=
or other sample
∪i∈N[0,i] ×[1,i]=
Or some other type of calculation in indexed set. I tried the maple android
app with no luck. How is done i...
Danh sách 6 học sinh Việt Nam dự thi IMO 2024
-
Ngày 05/4/2024, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố danh sách 6 học sinh Việt
Nam dự thi Olympic Toán học quốc tế năm 2024. Đây là 6 học sinh đạt điểm
cao nh...
Find All Wolfram News in One Place—The Wolfram Blog
-
This is the final post here at the Wolfram|Alpha Blog. Approximately six
and a half years ago our launch team started the Wolfram|Alpha blog just
prior to ...