Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn bi kịch. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bi kịch. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

QUO VADIS .


Quo Vadis .



Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Quo Vadis: Tiểu thuyết về thời Nero
Quo Vadis 1897 Edition.jpg
Trang bìa ấn bản đầu tiên tại Mỹ
Tác giả Henryk Sienkiewicz
Tựa gốc Quo vadis. Powieść z czasów Nerona
Quốc gia Ba Lan
Ngôn ngữ Tiếng Ba Lan
Thể loại Tiểu thuyết lịch sử
Nhà xuất bản Polish dailies (in serial) & Little, Brown (Eng. trans. book form)
Ngày phát hành 1895
Kiểu sách In (báo, Sách bìa cứng & Sách bìa mềm)
ISBN NA
Bản tiếng Việt
Người dịch Nguyễn Hữu Dũng
Tên đầy đủ của tác phẩm Quo VadisQuo Vadis: Tiểu thuyết về thời Nero; tuy nhiên tác phẩm này thường được biết dưới tên ngắn gọn là Quo Vadis. Đây là một tiểu thuyết lịch sử được sáng tác bởi văn hào Henryk Sienkiewicz, người Ba Lan. Quo Vadis trong tiếng Latin có nghĩa là "Ngài đi đâu?" Câu hỏi này liên hệ với câu Kinh Thánh (John 13:36) trong Thánh Kinh Tân Ước. Trong bản dịch King James, câu Kinh Thánh này được đọc như sau, "Si-môn Phi-e-rơ thưa cùng Ngài rằng: Lạy Chúa! Chúa đi đâu? Đức Chúa Giê-xu đáp rằng: Nơi ta đi, bây giờ ngươi chẳng có thể theo ta được; nhưng rồi sau ngươi sẽ theo ta." [1]

 

Bối cảnh sáng tác

Năm 1912, trong bức thư viết cho nhà khảo cổ và cũng là nhà phê bình văn học Pháp Boyer d'Agen, Henryk Sienkiewicz cho biết nguồn cảm hứng đề ông viết tác phẩm này bắt đầu vào năm 1893 khi ông có dịp thăm nhà thờ Quo Vadis (Chiesa del Domine Quo Vadis) tại Rome. [2] Ngôi nhà thờ này được dựng nên tại nơi Phi-e-rơ gặp Chúa Giê-xu khi ông chạy trốn. Theo truyền thuyết của Hội Thánh, khi cơn bách hại Cơ-đốc giáo tại Rome dâng cao, Sứ Đồ Phi-e-rơ định bỏ chạy khỏi thành phố. Khi ông vừa ra khỏi thành, ông gặp Chúa Giê-xu đi vào. Phi-e-rơ dùng câu hỏi, mà ông từng hỏi Chúa trong Phúc Âm Giăng 13:36, để hỏi: "Lạy Chúa! Ngài đi đâu?" Chúa Giê-xu trả lời: "Vì ngươi bỏ dân ta nên ta vào Rome để bị đóng đinh lần thứ hai." Nghe câu nói đó, Phi-e-rơ tỉnh ngộ, quay lại Rome và cùng chịu tử vì đạo với những tín hữu tại đó.

Nội dung

Quo Vadis thuật lại chuyện tình giữa một thiếu nữ Cơ-đốc, tên là Ligia (hoặc Lygia), và Marcus Vinicius, một quý tộc La mã. Chuyện xảy ra tại thành Rome dưới thời hoàng đế Nero khoảng năm AD 64.

Giá trị

Trước khi viết tiểu thuyết này, Sienkiewicz đã nghiên cứu rất kỹ về Đế quốc La mã với mục đích trích dẫn các dữ kiện lịch sử được chính xác. Do đó, có một số nhân vật lịch sử xuất hiện trong tác phẩm. Nhìn chung, tác phẩm truyền tải một thông điệp mạnh mẽ ủng hộ Cơ-đốc giáo. Ngoài ra, tác phẩm cũng gián tiếp giải thích về nguồn gốc sâu xa của Cơ-đốc giáo tại Ba Lan. Ligia, nhân vật nữ trong câu chuyện, là công chúa của bộ tộc Ligia, tiền thân của người Ba Lan hiện nay. [3]
Tác phẩm được viết vào mùa xuân năm 1895 tại Warsaw và hoàn tất ngày 18/02/1896 tại Nice. Vào năm 1895, tác phẩm được in từng phần trên ba nhật báo Ba Lan tại các thành phố Warsaw, PoznańKraków. Vài tháng sau khi tác phẩm hoàn thành, năm 1896 nhà xuất bản Genethner & Wolff in thành sách (3 tập). [4] Hiện nay, Quo Vadis đã được dịch ra hơn 50 ngôn ngữ. Cuốn tiểu thuyết này đã giúp Sienkiewicz đoạt giải Nobel Văn học vào năm 1905.
Nhiều phim đã được dựng dựa trên Quo Vadis. Phim nổi tiếng nhất là phim do Hollywood sản xuất Quo Vadis vào năm 1951. Đây cũng là phim ăn khách nhất tại Hoa Kỳ vào năm đó.

Những nhân vật trong Quo Vadis


  • Marcus Vinicius là một nhân vật lịch sử. Ông là một sĩ quan cao cấp và là một quý tộc La Mã, vừa trở lại Rome. Khi về đến nơi, Marcus gặp và yêu Ligia. Ông hỏi ý kiến của người cậu của mình là Petronius làm thế nào để sở hữu nàng.
  • Calina là một nhân vật hư cấu. Đây là tên thật của thiếu nữ này nhưng mọi người gọi nàng là Ligia (một số bản dịch gọi là Lygia). Ligia con gái của một vua Ligians đã băng hà. Ligians là một bộ tộc dã man, do đó thiếu nữ này được biết dưới tên cô gái Ligia. Ligia hiện đang bị giữ làm con tin bởi Quốc Hội và dân chúng Rome. Cô bị quên lãng nhiều năm bởi dân tộc mình. Là một người đẹp tuyệt vời, cô cũng là một Cơ-đốc nhân - một điều mà Marcus không biết.
  • C. Petronius là một nhân vật lịch sử. Ông được biết đến với danh hiệu là "người điều tiết lịch lãm", vốn là cựu thống đốc của Bythinia. Petronius là thành viên của triều đình Nero. Ông dùng sự khôn ngoan của mình vừa nịnh bợ vừa châm chọc Nero. Petronius được người La Mã thích vì những quan điểm phóng khoáng. Với một chút làm biếng và vô đạo đức, ông cố gắng giúp người cháu của mình, nhưng âm mưu xảo quyệt của ông đã bị những người bạn Cơ-đốc của Ligia ngăn trở.
  • Eunice là một nhân vật hư cấu. Eunice là một nô lệ trong nhà Petronius. Eunice là một phụ nữ Hy Lạp xinh đẹp, nàng yêu ông chủ mình, mà ông không hề biết.
  • Chilon Chilonides là một nhân vật hư cấu. Chilon là một kẻ bịp bợm và là một thám tử tư. Ông được Marcus mướn đi tìm Ligia. Trong nhiều bộ phim, nhân vật này bị loại bỏ, ngoại trừ loạt phim nhiều tập do Ba lan sản xuất vào năm 2001. Tuy nhiên trong tiểu thuyết, Chilon đóng một vai trò quan trọng. Một kẻ phản bội đôi và kết cuộc của hắn là nguồn cảm hứng từ Thánh Dismas.
  • Nero là một nhân vật lịch sử. Nero được minh họa như là một hoàng đế bất tài, nhỏ mọn và tàn ác, bị thao túng bởi quần thần. Ông thích nghe lời của những kẻ tâng bốc và dối gạt.                                   
  • Tigellinus là một nhân vật lịch sử. Tigellinus là thủ lãnh quyền uy của Đội Ngự Lâm Praetorian. Ông là đối thủ của Petronius trong việc giành ân huệ của Nero và là người xúi giục Nero làm nhiều điều gian ác.
  • Poppaea Sabina là một nhân vật lịch sử, là vợ của Nero. Bà vô cùng ghen ghét Ligia.
  • Claudia Acte là một nhân vật lịch sử. Bà là một nô lệ và từng là người tình của Nero. Nero đã chán và quên lãng Claudia, nhưng bà vẫn còn yêu ông. Bà nghiên cứu niềm tin Cơ-đốc, nhưng nghĩ mình không xứng đáng để theo đạo.
  • Aulus Plautius là một nhân vật lịch sử. Ông là một đại tướng La Mã đáng kính đã về hưu. Aulus đã lãnh đạo cuộc chinh phục Anh Quốc. Aulus dường như không biết - hay không muốn biết - rằng Pomponia, vợ của ông, và Ligia, con gái nuôi, là những người theo Cơ-đốc giáo.
  • Pomponia Graecina là một nhân vật lịch sử, đã theo Cơ-đốc giáo. Bà rất được kính trọng. Aulus và Pomponia là cha mẹ nuôi của Ligia nhưng họ không biết làm thế nào để hợp thức hóa việc này. Theo luật La Mã, Ligia vẫn là con tin của nước La Mã, tức thuộc về hoàng đế, nên cặp vợ chồng già này chỉ có trách nhiệm chăm nom mà thôi.
  • Ursus là nhân nhân vật hư cấu, là người bảo vệ Ligia. Là người cùng bộ tộc với Ligia, Ursus từng phục vụ người mẹ quá cố của Ligia. Ursus rất trung thành với công chúa của mình. Là một tín hữu Cơ-đốc, Ursus cố gắng vâng giữ những lời dạy dỗ trong niềm tin Cơ-đốc măc cho kích thước to lớn, sức mạnh và đầu óc thiếu văn minh của mình. Ông được minh họa như là một nhà quý tộc của những người thiếu văn minh.
  • Thánh Phi-e-rơ là một nhân vật lịch sử. Ông được mô tả là một cụ già mệt mỏi với trách nhiệm phải rao truyền sứ điệp về Đấng Cứu Thế.
  • Phi-e-rơ kinh ngạc về quyền lực của La Mã và sự tàn ác của hoàng đế Nero, người mà ông gọi là Con Thú. Đôi khi Phi-e-rơ hoang mang không biết mình có thể tiếp tục gieo và bảo vệ 'hạt giống tốt' của niềm tin Cơ-đốc hay không.
  • Thánh Phao-lô là một nhân vật lịch sử. Ông là người nhận trách nhiệm chính mình cải đạo Marcus.
  • Crispus là nhân vật hư cấu. Ông coi Cơ-đốc nhân là những người gần như cuồng tín.

Đọc tiếp ...

Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

Ernest Hemingway và tác phẩm Giã từ vũ khí .

 Ernest Hemingway và tác phẩm Giã từ vũ khí .



Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Giã từ vũ khí
Gia tu vu khi.jpg
Tác giả Ernest Hemingway
Quốc gia Cờ Hoa Kỳ Hoa Kỳ
Ngôn ngữ tiếng Anh
Thể loại Tiểu thuyết chiến tranh
Bán tự truyện
Nhà xuất bản Scribner's Magazine
Ngày phát hành tháng 5-tháng 10/1929
Kiểu sách In (nhiều tập)
Số trang 336
ISBN ISBN 978-0-684-80146-9

Paramedics cap from the possession of Hemingway
Giã từ vũ khí (tiếng Anh: A Farewell to Arms) là một tiểu thuyết bán tự truyện của nhà văn Ernest Hemingway viết 1929. Phần lớn cuốn tiểu thuyết này được viết tại nhà bố mẹ vợ Hemingway ở Piggott, Arkansas. Được nhiều nhà phê bình xem là một trong những tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại nhất mọi thời đại, câu chuyện được thuật lại thông qua lời kể của trung úy Frederic Henry, một người Mỹ nhưng lái xe cứu thương trong quân đội Ý vào thời Đệ nhất thế chiến.

Tóm tắt nội dung

Lưu ý: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.
Tiểu thuyết này được chia thành 5 phần: phần 1, Henry gặp Catherine Barkley và mối tình của họ chớm nở. Trong thời gian phục vụ trên mặt trận Italia, Henry bị thương vào đầu gối do đạn pháo nên anh được chuyển tới một bệnh viện ở Milano. Phần 2 kể lại sự phát triển mối tình của Henry và Catherine khi họ sống bên nhau tại Milano trong mùa Hè. Henry ngày càng yêu Catherine, rồi đến khi anh lành vết thương, Catherine đã có thai 3 tháng. Trong phần 3, Henry trở về đơn vị của mình, nhưng chẳng bao lâu sau thì quân Đức phá vỡ mặt trận Ý khiến quân Ý tháo chạy hỗn loạn. Sau khi bị tụt lại đằng sau, Henry cố bắt kịp đơn vị, nhưng anh lại bị hiến binh Ý bắt giữ và mang đi xử tử, vì bị buộc tội "phản bội", góp phần dẫn đến thất bại của quân Ý. May mắn là Henry trốn thoát được bằng cách nhảy xuống sông. Trong phần 4, Catherine và Henry đoàn tụ và bỏ trốn đến Thụy Sỹ bằng cách chèo thuyền qua biên giới. Trong phần cuối, Henry và Catherine sống cuộc đời bình lặng tại vùng núi, cho tới khi Catherine sinh con. Sau một cơn đau đẻ dài và khó nhọc, con trai của họ chết trong bụng mẹ, còn Catherine thì bị băng huyết mà chết, bỏ lại Henry một mình ngậm ngùi quay về nhà trọ trong cơn mưa tầm tã (Catherine vốn rất thích nhìn trời mưa).

Nhân vật chính


Đọc tiếp ...

Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

Jean-Baptiste Lully và phong cách Baroque cổ điển Pháp .

 Jean-Baptiste Lully và phong cách Baroque cổ điển Pháp  .

Theo Wikipedia, bách khoa toàn thư

Nguồn :  http://en.wikipedia.org/wiki/Jean_Baptiste_Lully 









Tiểu sử .


De Jean-Baptiste Lully ( tiếng Pháp phát âm: [ʒɑbatist lyli]  ; Ý: Giovanni Battista Lulli, sinh ngày 28 tháng 11 năm 1632 - mất ngày 22 tháng 3 , 1687) một người Pháp sinh tại Ý . Ông là nhà soạn nhạc đã dành phần lớn cuộc đời hoạt động trong triều đại vua Louis XIV nước Pháp. Ông được coi là người khởi xướng của phong cách Baroque Pháp. Lully từng chối bỏ bất kỳ về ảnh hưởng Ý trong âm nhạc Pháp của thời kỳ này. Tên tuổi của ông đã trở thành một chủ đề lớn ở Pháp vào năm 1661.

 Ông là con trai của một thợ cối xay thuộc tầng lớp lao động, được sinh ra tại Florence, Italy , thời niên thiếu Lully ít được học hành  , nhưng bù lại ông đã học được những kỹ thuật cơ bản về guitar, ban đầu được giảng dạy bởi một thầy dòng Phanxicô ở Florence. Sau đó , Lully đã học kỹ thuật biểu diễn violon, và khiêu vũ tại Pháp . Vào năm 1646, ông được phát hiện bởi Roger de Lorraine, Chevalier de Guise, con trai của Charles, Công tước xứ Guise, và được đưa tới Pháp, nơi ông phục vụ cho Mademoiselle de Montpensier (la Grande Mademoiselle) như là một cậu bé- phụ bếp kiêm giáo viên tiếng Ý. Với sự giúp đỡ của công chúa này, ông đã theo học nhạc lý với Nicolas Métru ,  từ đó tài năng của ông ngày càng phát triển . 

Ông phục vụ cho vua  Louis XIV vào cuối 1652, đầu 1653 với vai trò như một vũ công , đã từng viết một số bản nhạc khiêu vũ Ballet , khiến nhà vua hài lòng vô cùng. Lully được bổ nhiệm là nhà soạn nhạc với các nhạc cụ cung đình , và được đặt ở vị trí cao nhất trong Violons Petits, là một ban nhạc violon dành riêng cho nhà vua. Năm 1661, vua Louis XIV bổ nhiệm Lully làm Tổng quản âm nhạc Cung đình , với vai trò này ông đã sáng tác và chỉ huy biểu diễn cùng với 24 nghệ sĩ violons trong ban nhạc lớn của đức vua - Bande Grand Les Vingt-Quatre Violons du Roi .

Lully đã sáng tác nhiều khúc ballet cho nhà vua trong những năm từ 1650 và 1660, trong đó đích thân nhà Vua và Lully cùng khiêu vũ .  Ông cũng đã thành công to lớn trong việc sáng tác âm nhạc cho các vở hài kịch của Molière, bao gồm các vở Le Mariage  forcé ( Hôn nhân cưỡng bức-1664) , L'Amour médecin ( Tình yêu thầy thuốc -1665), và Lê gentilhomme Bourgeois (Trưởng giả học làm sang -1670). Đó là khi ông gặp Molière và họ cùng nhau tạo ra những vở hài kịch ballet  ( comédie-ballet ). Nhưng sự quan tâm đến múa ba lê và khả năng khiêu vũ của vua Louis XIV cũng suy yếu dần như tuổi tác của ông ,nên Lully bắt đầu chuyển hướng sang theo đuổi dòng nhạc opera. Ông mua tác quyền cho opera từ Pierre Perrin, với sự ủng hộ của Jean-Baptiste Colbert và nhà vua,  Lully tạo ra một đặc quyền mà về cơ bản đã cho ông kiểm soát hoàn toàn tất cả sáng tác âm nhạc được thực hiện tại Pháp mãi cho đến khi ông qua đời vào năm 1687.

 Ông được biết đến là một nhà tự do tư tưởng. Năm 1661, trong thư tịch và trong khế ước hôn nhân của ông với Madeleine Lambert, con gái của một người bạn Lully và nhạc sĩ Michel Lambert, Giovanni Battista Lulli  đã tự tuyên bố rằng ", Jean-Baptiste de Lully, gọi tắt là 'con trai của' Laurent de Lully,  bậc trưởng giả xứ Florentin " . Mặc dù cuộc sống của Lully là hoàn toàn ở đỉnh cao danh vọng , những nan đề tình cảm của ông với nhiều người đàn ông và phụ nữ cũng đã làm ông dính vào nhiều vụ bê bối , nhiều lần khiến vua Louis XIV không hài lòng . Mặc dù vậy ông vẫn  luôn có được những ân sủng của vua Louis, người đã tìm thấy Lully  như một sự cần thiết cho thú vui giải trí âm nhạc của mình và cũng  luôn suy nghĩ rằng Lully là một trong vài người bạn tốt thực sự của ông .

Portrait of several musicians and artists' by François Puget 1688 - Brunel 1980  . Theo truyền thống, hai nhân vật chính đã được xác định là Jean-Baptiste Lully nhà soạn nhạc viết lời nhạc kịch Philippe Quinault. (Musée du Louvre).


Âm nhạc .

Đọc tiếp ...


Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

Nhà hiệp sĩ quý tộc tài ba xứ Mancha DON QUIJOTE


Don Quijote


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Don Quixote
Cervantes' Don Quixote (1605), original title page
Tác giả Miguel de Cervantes Saavedra
Tựa gốc El Ingenioso Hidalgo Don Quixote de la Mancha
IPA: [don ki'xote ð̞e la 'manʧa]
Quốc gia Tây Ban Nha
Ngôn ngữ tiếng Tây Ban Nha
Thể loại Châm biếm, tiểu thuyết tâm lý, trào phúng
Nhà xuất bản Ecco
Ngày phát hành 1605, 1615
Kiểu sách Bản in (bìa cứng & bìa mềm)
ISBN không rõ
Đôn Ki-hô-tê, Don Quixote, Don Kijote, Don Quijote hay Đông-Ki-Sốt (tiếng Tây Ban Nha: Don Quixote de la Mancha) là tiểu thuyết của nhà văn Tây Ban Nha Miguel de Cervantes Saavedra (1547-1616). Tác phẩm còn có tên đầy đủ là El Ingenioso hidalgo Don Quixote de la Mancha (Đôn Kihôtê, nhà hiệp sĩ quý tộc tài ba xứ Mancha). Phần đầu tiên được xuất bản năm 1605 và phần thứ 2 xuất bản năm 1615. Đây là một trong những tiểu thuyết viết sớm nhất bằng ngôn ngữ châu Âu hiện đại và có thể cho rằng là tác phẩm gây ảnh hưởng và điển hình nhất trong danh sách các tác phẩm của văn học Tây Ban Nha. Đôn Kihôtê được coi là một trong số ít tác phẩm có nhiều người đọc nhất trong văn học phương Tây; một cuộc điều tra năm 2002 do Viện Nobel Na Uy tiến hành đã cho thấy đây là tiểu thuyết hay nhất trong mọi thời đại.

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++


Miguel de Cervantes



Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Miguel de Cervantes y Saavedra (29 tháng 9 năm 1547 – 23 tháng 4 năm 1616) là tiểu thuyết gia, nhà thơ và
nhà soạn kịch Tây Ban Nha. Ông được biết đến nhiều nhất với cuốn tiểu thuyết hai tập Don Quixote de la Mancha,
được coi như tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của châu Âu, một trong những tác phẩm vĩ đại nhất trong văn học
phương Tây, và là tác phẩm lớn nhất bằng tiếng Tây Ban Nha.

Tuổi thơ

Cervantes sinh ra tại một gia đình quý tộc sa sút ở Tây Ban Nha. Cha ông là một bác sĩ ngoại khoa bất đắc chí,
từng phải ra toà vì thiếu nợ. Do kinh tế gia đình vất vả, ông chỉ học đến Trung học, tuy nhiên, ông rất chăm chỉ
đọc sách.

Hơn 22 tuổi, ông đến Ý, đúng vào thời kỳ Phục Hưng và làm người hầu cho một Hồng y giáo chủ.
Đây là cơ hội lớn cho ông đọc sách của chủ và học tập.

Năm 1571, hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ xâm nhập vào khu vực Địa Trung Hải, Tây Ban Nha và Cộng hoà Venise tổ chức
hạm đội liên hợp chống lại. Hạm đội Liên minh thần thánh cuối cùng cũng đánh tan quân Thổ trong trận Lepanto,
Cervantes tham gia trận này, được mô tả như một "hiệp sĩ gầy gò và khờ dại".

Năm tháng tù đày

Bị bắt giam ở An-giê từ năm 1575 đến 1580 thì trở về Tây Ban Nha .

Cái chết

Ông mất tại Madrid ngày 23 tháng 4 năm 1616 trong lịch Gregory, cùng ngày Shakespeare mất trong lịch Julian.
Đáng kể là bách khoa toàn thư Encyclopedia Hispanica cho rằng ngày mất của Cervantes theo truyền thống –
23 tháng 4 – là ngày đề trên mộ. Theo truyền thống ở Tây Ban Nha trong hồi đó, ngày trên mộ là ngày chôn,
chứ không phải là ngày mất. Nếu Encyclopedia Hispanicađúng thì Cervantes chắc qua đời ngày 22 tháng 4
và được chôn ngày 23 tháng 4. Dù sao, Cervantes và Shakespeare thực sự không mất cùng ngày,
tại vì hai nước Anh và Tây Ban Nha đang sử dụng lịch khác trong thời kỳ đó.


Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Jane Eyre - Charlotte Brontë

** Jane Eyre -


Jane Eyre

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia



Tác giả Charlotte Brontë
Quốc gia Anh
Ngôn ngữ Tiếng Anh
Thể loại Tiểu thuyết
Nhà xuất bản Smith Elder and Co., Cornhill
Ngày phát hành 16 tháng 10, 1847
Kiểu sách Giấy in (Bìa cứng & Bìa mềm)
Jane Eyre (dʒeɪn ɛər) là cuốn tiểu thuyết của văn sĩ Charlotte Brontë, được xuất bản bởi Smith, Elder & Company of London vào năm 1847 dưới bút danh Currer Bell, là một trong những tiểu thuyết có ảnh hưởng sâu sắc và nổi tiếng nhất của nền văn học Anh.

Nội dung

Chuyện do nhân vật chính kể lại: Cô bé Jane Eyre mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được người cậu ruột mang về nuôi. Cậu chết, Jane phải ở với người mợ vốn tính cay nghiệt là bà Sarah Reed. Đây là một chuỗi ngày cực nhục đối với Jane: Cô bị chủ nhà và gia nhân ngược đãi, hắt hủi, là đối tượng trêu chọc của những đứa con hư của bà Sarah Reed. Trong gia đình ấy, Jane không được phép đọc sách, chơi đùa, lúc nào cũng có thể bị đánh đập, bị tống giam vào buồng tối, bỏ mặc cho đói và khát.
Năm Jane lên 10 tuổi, bà Reed gửi Jane vào trại mồ côi Lowood. Cũng như hàng ngàn trại trẻ khác trên khắp đất Anh, Lowood giáo dục trẻ em theo chủ nghĩa khổ hạnh “hành hạ thân xác để giữ gìn phần hồn”. Jane cùng bè bạn của cô phải sống trong những điều kiện ngặt nghèo: Ăn uống tồi tệ, chỉ rặt cháo khê, khoai thối, mỡ hôi, “đến người sắp chết đói ăn vào cũng phát ốm”, lại thêm quần áo không đủ ấm, dịch bệnh hoành hành, học sinh thường xuyên chịu đựng những hình phạt tàn nhẫn như bị đánh đập, sỉ nhục... Nhưng ngay từ nhỏ, tinh thần phản kháng và ý thức tự lập đã sớm nảy sinh trong tâm hồn thơ trẻ của Jane.
Sau 8 năm, rời Lowood, Jane đến xin việc ở lâu đài Thornfield. Ông Rochester, chủ lâu đài đem lòng yêu mến cô gia sư trẻ; Ông cũng được cô đáp lại bằng một mối tình nồng nàn say đắm. Hai người làm lễ cưới nhưng không thành: Người vợ mà Rochester buộc phải cưới theo tính toán của gia đình bị điên từ nhiều năm, hiện vẫn còn sống. Không muốn làm một người tình bất hợp pháp của ông chủ, Jane đau khổ trốn khỏi Thornfield. Sau 3 ngày lang bạt trên đường, cô đơn và đói rét, cô tới Marsh End, được anh em Mục sư St. John cứu giúp và tìm việc cho làm. Nhờ những may mắn của số phận, Jane bỗng trở nên giàu có và tìm được họ hàng thân thích. Song tình yêu cũ vẫn thôi thúc trong lòng, cô quyết định trở về Thornfield tìm tin tức người yêu. Lúc này, bà vợ điên của ông chủ đã chết, sợi dây ngăn cách hai người không còn. Và dù ông đã trở thành tàn phế, Jane vẫn đến với ông, xây dựng lại hạnh phúc đã mất.

Giá trị

Nội dung

Tác giả đã kể lại hết sức cảm động câu chuyện cuộc đời một người con gái nghèo tỉnh lẻ vật lộn với số mệnh phũ phàng để bảo vệ phẩm giá và tự khẳng định địa vị của mình bằng chính cuộc sống lao động lương thiện. Jane Eyre là hình tượng của những con người “bé nhỏ” bị xã hội ruồng rẫy nhưng dũng cảm đứng lên phản kháng lại bất công bằng tất cả ý chí, nghị lực và tâm hồn “nổi loạn” của mình. Bên cạnh đó, hình ảnh Rochester lại có ý nghĩa lên án mạnh mẽ triết lý sống tư bản mà tiền tài, địa vị và những luật pháp khắt khe, phi lý đã làm tan nát hạnh phúc của những con người ngay thẳng, trong sạch, khiến cuộc đời họ chỉ là những tấn thảm kịch. Cuốn tiểu thuyết của Bronte còn là bằng chứng hùng hồn tố cáo những trường học làm phúc mà thực chất là những trung tâm hủy hoại trẻ em mồ côi, từ đó tỏ thái độ công kích những tổ chức từ thiện giả hiệu trong tay Giáo hội.

Nghệ thuật

Đọc tiếp ...

Thứ Năm, 12 tháng 4, 2012

ĐỒI GIÓ HÚ - Wuthering Heights (2011)

ĐỒI GIÓ HÚ - Wuthering Heights (2011)  

Thông tin phim

 

Số tập :  9 
Tập 1 :  http://v1vn.com/xem-phim-online/doi-gio-hu-294665.html
Tập 2 :  http://v1vn.com/xem-phim-online/doi-gio-hu-294666.html
Tập 3 :  http://v1vn.com/xem-phim-online/doi-gio-hu-294667.html

Tập 4 :  http://v1vn.com/xem-phim-online/doi-gio-hu-294668.html
Tập 5 :  http://v1vn.com/xem-phim-online/doi-gio-hu-294669.html
Tập 6 :  http://v1vn.com/xem-phim-online/doi-gio-hu-294670.html
Tập 7 :  http://v1vn.com/xem-phim-online/doi-gio-hu-294671.html
Tập 8 :  http://v1vn.com/xem-phim-online/doi-gio-hu-294672.html
Tập 9 :  http://v1vn.com/xem-phim-online/doi-gio-hu-294673.html

-----------------------------------------------------------------------------------------------------

Về tác giả

 Emily Brontë

Sinh 30 tháng 7, 1818
Thornton, Yorkshire, Anh
Mất 19 tháng 12, 1848 (30 tuổi)
Haworth, Yorkshire, Anh
Công việc Nhà thơ, Tiểu thuyết gia
theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Emily Jane Brontë (IPA: [ˈbɹɒntɪ]; 30 tháng 7 năm 181819 tháng 12 năm 1848) là tiểu thuyết gia và là nhà thơ người Anh. Bà nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết duy nhất Đồi gió hú. Tác phẩm này được xem là một kiệt tác trong văn học Anh. Trong ba chị em nhà Brontë sống sót cho đến khi trưởng thành, Emily là người thứ hai, cô cả là Charlotte và em út là Anne. Emily Brontë xuất bản dưới bút danh Ellis Bell, một cái tên nam giới.

Tiểu sử

Emily sinh tại Thornton, gần Bradford. Bà là người thứ tư trong số 6 người con của Patrick Brontë và Maria Branwell. Mẹ bà, Maria Branwell Brontë, qua đời vào ngày 15 tháng 9 năm 1821 vì bệnh ung thư. Năm 1824, gia đình chuyển đến Haworth, nơi ông bố làm Mục Sư cho một nhà thờ Anh giáo. Tháng 5 năm 1826, hai người chị cả, Maria (sinh 1814) và Elizabeth (sinh 1815), chết vì bệnh lao . Trong hoàn cảnh đó, năng khiếu văn học của mấy chị em nảy nở một cách lạ thường. Suốt thời thơ ấu sau khi mẹ mất, ba chị em và người em trai Patrick Branwell Brontë sáng tạo ra những vùng đất tưởng tượng, các địa điểm này được dùng trong tác phẩm của họ về sau. Rất ít tác phẩm của Emily trong thời này còn được lưu lại, ngoại trừ những bài thơ được đọc bởi các nhân vật trong Thời thơ ấu nhà Brontës ( Fannie Ratchford) 1941.
Năm 1842, Emily nhận làm gia sư tại trường nữ thục Patchett ở đồi Law, gần Halifax. Tuy nhiên, bà bỏ việc sau 6 tháng vì nhớ nhà. Sau đó, Charlotte và Emily theo học tại một trường học tư ở Brussels sáng lập bởi Constantin Heger và vợ của ông là bà Claire Zoé Parent Heger. Về sau, hai chị em định mở trường tại nhà riêng mình nhưng không có học sinh. Năng khiếu thơ của Emily được Charlotte phát hiện. Sau đó ba chị em cùng in chung một tập thơ năm 1846, Tuyển tập thơ của Currer, Ellis và Acton Bell. Để tránh những thành kiến đối với các nhà văn nữ vào thời đó, chị em Brontë đã chọn tên khác để không thể xác định được giới tính: Charlotte Brontë trở thành Currer Bell, Anne Brontë trở thành Acton Bell, và Emily Brontë trở thành Ellis Bell. Những chữ đầu của tên của ba chị em cũng là những chữ đầu trong bút danh của họ.
Năm 1847, Emily xuất bản cuốn tiểu thuyết duy nhất của mình, Đồi gió hú, thành 2 tập trong một bộ 3 tập (tập cuối cùng là Agnes Grey do em gái Anne viết). Cấu trúc sáng tạo của tác phẩm làm các nhà phê bình bối rối. Mặc dù có nhiều ý kiến phê bình trái ngược khi mới xuất bản, nhưng sau đó Đồi gió hú trở thành một tác phẩm văn học kinh điển trong văn học Anh. Năm 1850, Charlotte biên tập và xuất bản Đồi gió hú riêng rẽ, dưới tên thật của Emily. Một trong những người viết tiểu sử Emily, bà Juliet Barker, cho rằng Charlotte đã hủy bản thảo của cuốn tiểu thuyết thứ hai sau khi Emily chết.
Giống như các chị em của mình, sức khỏe của Emily suy yếu rõ rệt do thời tiết khắc nghiệt lúc ở nhà và ở trường. Bà bị nhiễm lạnh trong lễ tang chôn cất em trai từ đó dẫn đến bệnh lao. Bà kiên quyết không dùng thuốc men và chết lúc 2 giờ chiều ngày 19 tháng 12, 1848. Emily được an táng tại Nhà thờ St. Michael và các thánh thần bên cạnh những người thân trong gia đình tại Haworth, Tây Yorkshire, Anh.

---------------------------------------------------------------------------------------------------------




Đồi gió hú

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đồi gió hú
(Wuthering Heights)
Wuthering.jpg
Trang đầu của lấn ấn hành thứ nhất
Tác giả Emily Brontë
Quốc gia Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Ngôn ngữ Tiếng Anh
Thể loại Tiểu thuyết
Nhà xuất bản Thomas Cautley Newby
Ngày phát hành 1847
Bản tiếng Việt
Người dịch Nhất Linh, Dương Tường[1]
Đồi gió hú[1] (tiếng Anh:Wuthering Heights, đôi khi được dịch là Đỉnh gió hú[2]) là tiểu thuyết duy nhất của nữ nhà văn Emily Brontë. Nó được nhà văn xuất bản lần đầu năm 1847 dưới bút danh Ellis Bell, lần xuất bản thứ hai của tác phẩm là sau khi Emily đã qua đời và lần xuất bản này được biên tập bởi chính chị gái của nhà văn là Charlotte Brontë. Tên của tiểu thuyết bắt nguồn từ một trang viên nằm trên vùng đồng cỏ hoang dã ở Yorkshire nơi những sự kiện có trong tiểu thuyết diễn ra, wuthering là một từ Yorkshire được dùng để chỉ thời tiết thất thường (turbulent weather). Tiểu thuyết kể về câu chuyện tình yêu không thành giữa HeathcliffCatherine Earnshaw, cũng như làm thế nào mà sự đam mê không thể hóa giải đó đã tiêu diệt chính họ và cả những người thân khác xung quanh.
Ngày nay, tác phẩm này được coi là một tiểu thuyết kinh điển của Văn học Anh với một cấu trúc rất sáng tạo, đó là cấu trúc truyện như một chuỗi búp bê Matryoshka[3], cũng vì sự sáng tạo này mà ý kiến của giới phê bình trong lần xuất bản đầu tiên của Đồi gió hú là rất khác nhau. Thời gian đầu, nhiều người đánh giá tác phẩm Jane Eyre của người chị Charlotte Brontë là sáng tác tốt nhất của Chị em nhà Brontë, tuy vậy sau này nhiều ý kiến phê bình đã cho rằng chính Đồi gió hú mới là tác phẩm xuất sắc hơn cả[4]. Đồi gió hú cũng đã được chuyển thể thành rất nhiều thể loại khác như phim truyện, phim truyền hình, nhạc kịch và cả trong các bài hát

Tóm tắt


Đọc tiếp ...

Thứ Hai, 9 tháng 4, 2012

Socrates và nghệ thuật đối thoại.

 Socrates và nghệ thuật đối thoại.

Đây là bài viết của tác giả Bùi Văn Nam Sơn trên Báo Saigon tiếp thị ngày 08/06/2010 , đã đăng trên http://boxmath.vn/4rum/content.php?r=309-Socrates-va-nghe-thuat-doi-thoai Published on 19-07-2010 10:54 PM
Xin phép tác giả được đăng tải lại trên Blog Toán - Cơ học ứng dụng  
Trân trọng cám ơn
.
(SGTT 8/6/2010)

++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++

Socrates
Full name Socrates (Σωκράτης)
Born c. 469 / 470 BC[1]
Deme Alopece, Athens
Died 399 BC (age approx. 71)
Athens

Ông là người thầy của phương pháp làm triết học và khoa học. Hơn thế, ông là tượng đài lẫm liệt của nhân cách: nhân cách của người trí thức đích thực. Vậy là, ngay từ buổi bình minh của triết học, phương Tây đã được thừa hưởng hai bảo vật vô giá: cách làm triết học và cách sống triết học.
*Ba trong một: trí thức, nhà nhân quyền, triết gia :Socrates (khoảng 470 - 399 trước Công nguyên) con nhà nghèo: cha làm đồ gốm, mẹ là bà mụ. Nghề của mẹ (và chắc cũng của cha nữa) thường được ví với phong cách sống của ông: làm người "đỡ đẻ" và hun đúc cho việc đi tìm chân lý. Học vấn uyên bác và đã từng là một chiến binh dũng cảm, nhưng rút cục ông thấy công việc "hộ sinh tinh thần" mới thực là sứ mệnh đáng cho ông dâng hiến trọn đời. Socrates không triết lý trong tháp ngà. Ông lang thang giữa chợ Athens (Hy Lạp) để bàn thảo, tranh luận với thanh niên, với những người "học thật" và "học... giả".
Tới 50 tuổi mới cưới vợ: bà Xanthippe, nổi danh (và đồng nghĩa) với hình ảnh một bà vợ hung dữ, khó tính. Không phải không có lỗi của ông: chẳng mang được đồng xu nào về nhà! Khác với những biện sĩ đương thời bán trí khôn kiếm tiền, ông dứt khoát dạy miễn phí. Không rõ bà hay cãi cọ có phải vì ông cương quyết không chịu... thương mại hoá giáo dục hay không, nhưng "chân lý" sáng giá được ông khám phá là: "Nên lấy vợ! Gặp vợ hiền, bạn được hạnh phúc; gặp vợ dữ, bạn thành... triết gia; đàng nào cũng có lợi!"

Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

Khái luận về mỹ học

Khái luận về mỹ học  

1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ MỸ HỌC .

 -Aristote thế kỉ 7 trước công nguyên, trong cuốn Poetic ( thi pháp), ông đề xuất xem triết học là cơ sở nghiên cứu qui luật sáng tạo nghệ thuật. Lúc ấy, mỹ học còn phôi thai, chưa tồn tại độc lập.
-Baumgacten giaó sư Đức 1735: cho rằng mỹ học nhận nhiệm vụ nghiên cứu con đường nhận thức thế giới bằng cảm xúc. Ông viết hai cuốn: Mỹ học tập I –1750, Mỹ học tập II –1758. Từ đây mỹ học ra đời chính thức, trở thành khoa học độc lập.
-Immanuel Kant cuối thế kỉ 18: Xác định đối tượng của mỹ học là “thị hiếu thẩm mỹ” – cái chủ quan, ông bác bỏ sự nghiên cứu đối tượng khách quan ( cái đẹp không phải ở trên đôi má hồng thiếu nữ mà ở trong con mắt kẻ si tình)
-Hegel: đầu thế kỉ 19. Mỹ học chỉ nghiên cứu cái đẹp nghệ thuật do Thượng Đế ban phát cho nghệ sĩ, “ nghệ thuật là vương quốc bao la của cái đẹp “. Cái đẹp chủ yếu tập trung ở nghệ thuật, còn những cái đẹp khác trong đời sống thì đơn giản, thiếu hụt và nhàm chán
-Tsernysevski ( Nga thế kỉ 19) trái ngược với Hegel, khẳng định “cái đẹp là cuộc sống
-Dostoievski: “Cái đẹp sẽ cứu cả thế giới “ - cái đẹp là lí tưởng đấu tranh của con người
-Bielinski mở rộng đối tượng mỹ học đến “lí tưởng thẩm mỹ
-Gogol nghiên cứu thi ca Puskin, từ đó đến với mỹ học.Ông viết:" con người có thể suy tư lặng đi trước mọi thứ nhỏ bé và vĩ đại, đó là lúc phát sinh mầm mống thi ca – cái đẹp. Nó vốn có trong toàn bộ thế giới (mọi công trình của Thượng Đế), kể cả và trước hết là trong Con Người " (vừa là chủ thể vừa là khách thể)

2. CẤU TRÚC MỸ HỌC THEO QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG .

(i) Đời sống thẩm mỹ gồm 3 phạm trù : 

-Khách thể thẩm mỹ .
-Chủ thể thẩm mỹ .
-Nghệ thuật thẩm mỹ . 

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran