Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2015

CÂU CHUYỆN VẬT LÝ - Phần 3 .


 CÂU CHUYỆN VẬT LÝ - Phần 2 .

Khoa học gia người Nhật, Canada đoạt giải Nobel vật lý

Khoa học gia Takaaki Kajita, người Nhật, và Arthur MacDonald, người Canada đoạt giải Nobel Vật lý năm 2015.
Khoa học gia Takaaki Kajita, người Nhật, và Arthur MacDonald, người Canada đoạt giải Nobel Vật lý năm 2015.



Hai nhà khoa học Takaaki Kajita, người Nhật, và Arthur MacDonald, người Canada, đã đoạt giải Nobel Vật lý năm nay cho khám phá của họ về khối lượng của hạt sơ cấp neutrino – trong đó cho thấy những hạt neutrino – là loại hạt nhiều thứ nhì trong vũ trụ chỉ sau hạt photon – có khối lượng.
Ủy ban Nobel cho biết trong một thông cáo rằng công trình nghiên cứu của ông Kajita thuộc trường Đại học Tokyo và ông MacDonald thuộc trường Đại Học Queen đã làm thay đổi sự hiểu biết của thế giới về những vận hành tận cùng của vật chất.
Ủy Ban Nobel hôm thứ 2 cũng đã công bố tên những người đoạt giải về y học – đó là các nhà khoa học của Ireland, Nhật và Trung Quốc.
Nhà khoa học người Ireland, William Campbell, và nhà khoa học người Nhật, Satoshi Omura, cùng chung giải thưởng cho phát hiện của họ về một liệu pháp mới chữa trị những viêm nhiễm do dòng ký sinh trùng giun sán gây ra.
Nhà khoa học người Trung Quốc, bà Đỗ U U, đã khám phá ra một loại thuốc có khả năng làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong của bệnh nhân bị sốt rét và bà cũng đã cùng giành giải thưởng này.
Các giải Nobel được trao năm nay về các lĩnh vực y học, vật lý, hóa học, văn học, hòa bình và khoa học kinh tế. Tiền thưởng là do nhà sáng chế người Thụy Điển Alfred Bobel để lại và các giải thưởng, có từ năm 1901, đã trở thành giải thưởng thành tựu cao nhất trong mỗi lĩnh vực.
Những người giành giải được trao một giải thưởng bằng tiền có giá trị hơi khác nhau trong từng năm – trong năm 2015, giải Vật Lý là 963.000 đô la, và được chia đều cho những người thắng giải. Họ cũng nhận được một huy chương và một “bằng” Nobel.
Những người giành giải thưởng được công bố vào tháng 10, và các giải thưởng được trao tại những lễ trao giải được tổ chức đầu tháng 12 tại Stockholm, thủ đô của Thụy Điển, và Oslo, thủ đô của Na Uy.


Điểm qua những thành tựu đã giành giải Nobel năm 2015

Chứng minh khối lượng neutrino, phát hiện cơ chế ADN chữa ung thư,… là những thành tựu nổi bật được vinh danh tại giải Nobel năm nay.

Giải Nobel là tập hợp các giải thưởng quốc tế được trao hàng năm kể từ năm 1901 cho những cá nhân đạt thành tựu trong lĩnh vực vật lý, hóa học, y học, văn học, kinh tế và hòa bình. Riêng trong lĩnh vực hòa bình còn có thể được trao cho tổ chức hoặc cá nhân.

Người sáng lập nên giải Nobel là nhà bác học nổi tiếng cùng tên Alfred Nobel (1833 - 1896). Theo di chúc, số tài sản khổng lồ của ông được gửi vào ngân hàng và lấy tiền lãi hàng năm để trao tặng cho những ai đã đem đến những lợi ích tốt nhất cho con người.

Với 115 năm lịch sử của mình, giải Nobel đã vinh danh rất nhiều những thành tựu vĩ đại của nhân loại. Và trong năm 2015 này, chúng ta hãy xem những ai và đóng góp gì của họ đã nhận được giải thưởng cao quý này.

Nobel Y học: Phương pháp điều trị sốt rét và ký sinh trùng

Giải thưởng được chia hai, 1/2 trao cho ông William C Campbell (Mỹ) và ông Satoshi Omura (Nhật Bản) vì tìm ra liệu pháp mới chống nhiễm trùng do giun tròn kí sinh, và 1/2 còn lại trao cho bà Youyou Tu - Trung Quốc vì nghiên cứu phương thuốc mới chống lại sốt rét.

151015nobel01-6541a
Ký sinh trùng vẫn luôn là một trong những vấn đề nhức nhối trong y học
Campell và Omura đã phát triển loại thuốc mới có tên gọi Avermectin, giúp gần như xóa bỏ tỷ lệ mắc bệnh mù sông (Onchocerciasis) và bệnh giun bạch huyết (Lymphatic filariasis). 

Những chứng bệnh này đều do các loại giun tròn kí sinh trong cơ thể gây nên. Ngoài ra theo hội đồng Nobel, Avermectin có tác dụng với nhiều loại ký sinh trùng khác nữa.

151015nobel11-aeca0
Những nhà khoa học kiệt xuất đã giành giải Nobel Y học 2015

Còn giáo sư Đồ của Học viện Đông Y Trung Quốc đã phát hiện ra chất Artemisinin - một chất chiết suất từ cây ngải tây ngọt - một loại thảo dược cổ truyền của người Trung Quốc. 

Chất này giúp làm giảm đáng kể tỉ lệ tử vong cho những người mắc sốt rét xuống hơn 20% và hơn 30% ở trẻ em. Hiện nay, thuốc của bà được sử dụng trên phạm vi toàn thế giới và chỉ tính riêng tại Châu Phi đã cứu sống hơn 100.000 người mỗi năm.


Nobel Vật lý: Giải mã "hạt ma" neutrino - siêu hạt cấu tạo nên vũ trụ

Giải thưởng này được cùng trao cho hai nhà khoa học Takaaki Kajita, Arthur B. McDonald trong việc khám phá ra khối lượng của neutrino - siêu hạt cấu tạo nên vũ trụ và tính chất biến đổi của nó.

151015nobel10-b88c6
Arthur McDonald và Takaaki Kajita - những người đã thay đổi rất nhiều khái niệm cơ bản trong vật lý hạt

Trước đây, các nhà khoa học cho rằng neutrino là một loại hạt hạ nguyên tử, không mang điện tích, có khối lượng nghỉ bằng 0. Đặc biệt, hạt ma neutrino tồn tại ở ba dạng khác nhau.

151015nobel06-652e0

Nhưng bằng việc sử dụng hai máy dò được đặt sâu trong lòng đất tại hai tỉnh Hofu thuộc Nhật Bản và Ontario thuộc Canada, hai nhà khoa học Kajita và McDonald đã phát hiện sự dao động của neutrino.

Theo đó, "hạt ma" neutrino có thể dao động, biến đổi luân phiên giữa ba hình thái khi truyền qua không gian - điều cho thấy chúng có khối lượng.

Phát hiện trên được xem là bước đột phá trong ngành vật lý học. Bởi nếu neutrino có khối lượng dù chỉ rất nhỏ cũng đã mâu thuẫn với các lý thuyết trong vật lý hạt, khiến chúng ta phải thay đổi lại rất nhiều khái niệm cơ bản trong lĩnh vực này.


Nobel Hóa học: nghiên cứu ADN chữa ung thư

Giải thưởng Nobel hóa học được trao cho Tomas Lindahl, Paul Modrich và Aziz Sancar vì công trình nghiên cứu về cơ chế sửa chữa ADN trong tế bào - vật chất di truyền cơ bản của mọi sinh vật sống.

151015nobel07-666d9

Về cơ bản, ba nhà khoa học đã phát hiện ra các phân tử ADN không hề ổn định như chúng ta nghĩ, mà ngược lại - chúng thay đổi và đột biến theo thời gian.

151015nobel09-cd099
Ba nhà khoa học đã giành được giải Nobel Hóa học 2015

Từ đó, ba nhà khoa học nghiên cứu xem điều gì đã giữ cho ADN không bị phân rã và họ khám phá ra cơ chế tế bào sử dụng để sửa chữa ADN nhằm ngăn chặn các lỗi di truyền qua nhiều thế hệ.

Các cơ chế sửa chữa ADN giúp giới sinh vật học có cái nhìn sâu sắc hơn về các tế bào trong cơ thể chúng ta, đồng thời mở ra tiềm năng to lớn, một bước đột phá để phát triển các phương pháp trị ung thư.


Nobel Văn học: khắc họa chân thực hình ảnh của Liên Bang Xô Viết trong lịch sử nhân loại

Giải thưởng thuộc về nữ nhà văn Svetlana Alexievich người Ukraine cho công trình "Bách khoa toàn thư về thời kỳ Xô Viết".

151015nobel03-f74f4
 “Những dòng văn đầy phúc điệu của bà, một tượng đài tri ân đau khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta. Những dòng văn phi thường giúp nhân loại hiểu biết sâu sắc hơn về cả một thời đại của thế giới - thời đại Liên bang Xô Viết" - Trích lời Viện Hàn lâm Thụy Điển

151015nobel08-679f5
Svetlana Alexievich

Alexievich có cha là người Belarus còn mẹ là người Ukraine. Bà sinh ra và lớn lên ở Belarus, học nghề báo chí tại Đại học Minsk từ năm 1967 -1972. 

Trong suốt sự nghiệp làm báo của mình, Alexievich đã phỏng vấn hàng ngàn nhân chứng trải qua các sự kiện chấn động nhất khối Liên Xô bao gồm Thế chiến II, thảm họa hạt nhân Chernobyl, sự sụp đổ của Liên Xô…


Nobel Hòa bình: đóng góp mang tính quyết định để xây dựng nền dân chủ đa nguyên tại Tunisia

151015nobel04-f74f4

Giải thưởng được trao cho Bộ tứ đối thoại quốc gia Tunisia, là một nhóm gồm bốn tổ chức khác nhau đóng vai trò trung tâm trong việc nỗ lực xây dựng nền dân chủ đa nguyên tại Tusinia.

Bộ tứ này gồm 4 tổ chức quan trọng trong xã hội dân sự Tunisia: Tổng liên đoàn lao động Tunisia (UGTT), Liên đoàn công nghiệp Tunisia (UTICA), Liên đoàn nhân quyền Tunisia (LTDH) và Hiệp hội luật sư Tunisia. Với vai trò của mình, 4 tổ chức nói trên đã đóng vai trò là lực lượng trung gian hòa giải và thúc đẩy tiến trình dân chủ hòa bình ở quốc gia này.

Trong bối cảnh nhiều nước đang lâm vào cảnh hỗn loạn, như Syria, Yemen... cùng với tác động của cuộc khủng hoảng di cư ở châu Âu, Ủy ban Nobel Na Uy đã chọn tôn vinh một đất nước chấp nhận đi con đường khác, từ đó hy vọng đây sẽ là tấm gương để những nước khác noi theo.


Nobel Kinh tế: mối quan hệ giữa tiêu dùng và đói nghèo

Người được trao tặng giải thưởng này là Angus Deaton, nhà kinh tế học gốc Scotland, đồng thời là giáo sư Đại học Princeton, Mỹ.

151015nobel07-aa73f
Giáo sư kinh tế Angus Deaton thuộc ĐH Princeton (Mỹ)

Nghiên cứu đoạt giải của ông phân tích về mối quan hệ giữa tiêu thụ, nghèo đói, và sung túc trong xã hội của chúng ta.

Theo Viện Hàn Lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển, nghiên cứu này có 3 đóng góp rất lớn: Tìm ra cách người tiêu dùng phân bổ chi tiêu vào các loại hàng hóa khác nhau; Thu nhập của xã hội được phân chia thế nào giữa tiêu dùng và tiết kiệm; Cuối cùng là tìm ra phương pháp tối ưu để đo lường và phân tích sự giàu có – nghèo khổ.

Nguồn: Nobelprize

Mặt trời xuất hiện lỗ hổng lớn gấp 50 lần Trái đất



Một "lỗ nhật hoa" khổng lồ gây nên những cơn gió Mặt trời cực mạnh mới được các nhà thiên văn phát hiện ra.

Các nhà thiên văn học tại NASA mới đây vừa nhận thấy một khu vực trông như một vực thẳm khổng lồ trên bề mặt của Mặt trời.

Lỗ thủng này được chụp bởi Đài quan sát Solar Dynamics Observatory của NASA, với kích thước lớn gấp 50 lần Trái đất của chúng ta.

151018sunhole01-766bc
Lỗ nhật hoa khổng lồ có kích cỡ bằng 50 lần Trái đất
Theo các khoa học gia, hiện tượng này có tên gọi khá hoa mỹ: "Lỗ nhật hoa" (coronal hole), xảy ra khi từ  trường không thể quay ngược trở lại bề mặt của Mặt trời, mà thay vào đó gửi đi những dòng phân tử qua những cơn gió Mặt trời với tốc độ cao.

Đây không phải là lần đầu "Lỗ nhật hoa" xuất hiện. Hiện tượng này lần đầu tiên được phát hiện trong khoảng năm 1973-1974. Lỗ nhật hoa tạo ra dòng chảy phân tử qua những cơn gió Mặt trời với tốc độ lên tới 800km/s.

151018sunhole02-766bc
Lỗ nhật hoa trên Mặt trời vào 1/1/2015

Theo NASA: "Các lỗ nhật hoa là những khu vực phát ra từ trường, và là nguồn gốc của những cơn bão Mặt trời với tốc độ cao".

Dù trông "có vẻ" đáng báo động, nhưng theo các chuyên gia, hiện tượng này không khiến Trái đất gặp nguy hiểm. Cụ thể, "lỗ nhật hoa" là một hiện tượng thường gặp ở Mặt trời, thường xuất hiện ở hai vùng cực.

Tần suất xuất hiện "lỗ nhật hoa" phụ thuộc vào chu kỳ hoạt động của Mặt trời, trong đó hiện tượng nãy sẽ xuất hiện nhiều hơn vào thời điểm Mặt trời hoạt động yếu trong chu kỳ 11 năm.

151018sunhole03-766bc
Lỗ nhật hoa góp phần tọa nên hiện tượng cực quang tuyệt đẹp tại các vùng cực của Trái đất
NASA cho biết từ trường phát ra từ lỗ nhật hoa thường không gây ra ảnh hưởng nhiều, ngoại trừ đôi lúc tín hiệu vệ tinh và truyền dẫn vô tuyến bị gián đoạn.

Những cơn bão Mặt trời đến từ lỗ nhật hoa có thể gây ra những cơn bão địa từ gần Trái đất, tạo nên hiện tượng cực quang tuyệt đẹp tại các vùng cực của Trái đất.

Nguồn: Daily Mail

NASA: Có bằng chứng vững chắc về nước trên Sao Hỏa

Những vết chảy xuống dốc trên sao Hỏa được cho là là đã được hình thành bởi nước chảy.
Những vết chảy xuống dốc trên sao Hỏa được cho là là đã được hình thành bởi nước chảy.
Các nhà khoa học của Cơ quan Không gian Hoa Kỳ NASA đã phát hiện bằng chứng vững chắc là có những suối nước mặn trên Sao Hoả, ít nhất là trong mùa hè trên hành tinh đỏ, theo loan báo của NASA hôm 28/9.
Dấu vết của những dòng nước khoáng chất muối được tìm thấy cần có nước mới có thể được tạo ra, và nơi nào có nước có nghĩa là nơi đó có thể có sự sống, ngay cả dưới hình thức những vi khuẩn.
Phát biểu trong cuộc họp báo để công bố những  khám phá mới, ông Jim Green, Giám đốc đặc trách khoa học vũ trụ tại trụ sở chính của NASA, nói “ngày hôm nay, chúng ta đang có một cuộc cách mạng về cách hiểu hành tinh này”.
Giữa lúc đang có nhiều suy đoán trước khi NASA công bố loan báo của cơ quan này, cựu Giám đốc Chương trình nghiên cứu Hoả Tinh của NASA Doug McCuistion nói với tờ Boston Herald rằng “Nếu họ loan báo là đã tìm thấy nước chảy, dễ được tiếp cận trên mặt Sao Hoả, là một trong các giả thuyết mà chúng ta đã được nghe từ biết bao nhiêu năm nay, thì điều đó sẽ có những hệ quả lớn cho triển vọng có sự sống trên hành tinh đó, và triển vọng sự sống của con người có thể được duy trì trên hành tinh này”.
NASA đã tìm thấy bằng chứng về sự hiện diện của nước trên Hoả Tinh trong quá khứ. Hồi tháng Ba, NASA nói rằng đã có thời, có nhiều nước trên Sao Hoả hơn là so với Bắc Băng Dương trên quả địa cầu.


Thuốc có thể chữa ung thư được vô tình tìm ra từ vaccine sốt rét



Các nhà khoa học mới tạo ra một loại protein từ virus sốt rét có khả năng tìm và tiêu diệt tới 90% tế bào của tất các loại ung thư.

Các khoa học gia từ ĐH British Columbia (Canada) và ĐH Copenhagen (Đan Mạch) có thể đã tìm ra một phương thuốc chữa trị ung thư - và nó đến từ một loại bệnh chết người khác: sốt rét.

Trong quá trình nghiên cứu phương pháp bảo vệ sản phụ khỏi virus gây bệnh sốt rét, các nhà nghiên cứu người Đan Mạch đã nhận thấy rằng các protein có trong virus sốt rét có khả năng tấn công tế bào ung thư.

151015cancer01-dbd9b

Bằng việc kết hợp giữa protein có trong virus sốt rét cùng độc tố của chúng, các khoa học gia đã tạo ra một loại protein mới với khả năng tìm kiếm các tế bào ung thư và tiêu diệt chúng.

151015cancer02-dbd9b
Virus sốt rét nguy hiểm thường được lây lan bởi muỗi anopheles - nay đem lại tiềm năng chữa ung thư

Theo các chuyên gia nghiên cứu, protein trong virus sốt rét sẽ tìm kiếm các phân tử carbohydrate có trong nhau thai - thứ có đảm bảo sự phát triển của bào thai.

Tuy nhiên, trong tế bào ung thư cũng có các phân tử carbohydrate với chức năng tương tự - giúp tế bào ung thư phát triển. Điều này có nghĩa, nếu tiêu diệt được carbohydrate, các tế bào ung thư cũng sẽ bị tiêu diệt.

Để có thể đưa ra kết luận, các chuyên gia đã tiến hành thí nghiệm trên hai nhóm chuột. Theo đó, với bệnh ung thư hạch không Hodgkin (ung thư bắt nguồn từ hệ thống bạch huyết) - khối u trong cơ thể chuột được điều trị với vaccine bằng khoảng 1/4 kích thước khối u ở nhóm chuột không tiêm thuốc. 

Với bệnh ung thư tuyến tiền liệt, sau khi được điều trị một tháng, kết quả ghi nhận đầu tiên cho thấy - các khối u đã biến mất ở hai trong số sáu cá thể chuột.

Với ung thư xương di căn, năm trong số sáu cá thể chuột được điều trị vẫn còn sống sau gần tám tuần. Trong khi đó, ở nhóm chuột không được tiêm thuốc - không có cá thể chuột nào sống sót.

151015cancer03-dbd9b

Giáo sư Ali Salanti thuộc ĐH Copenhagen cho biết: "Trong hàng thập kỷ, các nhà khoa học đã cố gắng chứng minh sự giống nhau giữa sự phát triển của nhau thai và sự di căn của ung thư. Nhau thai phát triển rất nhanh chỉ trong vài tháng, cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho bào thai. Tế bào ung thư cũng vậy, di căn và lấy đi dưỡng chất của chúng ta".
Trong các thử nghiệm mới nhất trên chuột và trên hàng ngàn tế bào ung thư, kết quả cho thấy thực sự đáng kinh ngạc: virus sốt rét có thể tiêu diệt tới 90% tế bào của TẤT CẢ các loại ung thư.

Tuy nhiên, Salanti cho biết: "Câu hỏi lớn nhất hiện vẫn chưa được trả lời, đó là liệu phương pháp này có thể ứng dụng trên cơ thể người mà không để lại tác dụng phụ hay không? Nhưng chúng tôi tin rằng điều này là hoàn toàn có thể, do các phân tử carbohydrate virus tấn công chỉ có trong bào thai và tế bào ung thư - tức là không xuất hiện ở bộ phận nào khác".
Sốt rét là một chứng bệnh gây ra bởi ký sinh trùng tên Plasmodium, lây truyền từ người này sang người khác khi những người này bị muỗi đốt.

Sốt rét là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất và là vấn đề rất nghiêm trọng đối với sức khoẻ cộng đồng. Mỗi năm có khoảng 515 triệu người mắc bệnh, từ 1 đến 3 triệu người tử vong - đa số là trẻ em ở khu vực phía Nam sa mạc Sahara, châu Phi.

Sốt rét thường đi kèm với đói nghèo, lạc hậu và là một cản trở lớn đối với phát triển kinh tế.

Nguồn: Independent, University of Copenhagen News










-------------------------------------------------------------------------------------------

Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

Geothe

Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

DANH NHÂN VIỆT .


DANH NHÂN VIỆT .


Hai anh em - hai nhà khoa học Việt kiều nổi tiếng

Vietsciences-   Bình Minh                 16/08/2009


Trong cộng đồng người Việt tại Pháp có hai nhà khoa học nổi tiếng cùng sinh ra trong một gia đình. Đó là ông Nguyễn Quang Riệu, nhà thiên văn học, và ông Nguyễn Quý Đạo, nhà hóa học. Cả hai đều là tiến sĩ, Giám đốc nghiên cứu danh dự của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), đã từng có những công trình khoa học được giới chuyên môn đánh giá cao và có nhiều đóng góp cho cả Pháp và Việt Nam.



Ông Nguyễn Quang Riệu và  Nguyễn Quý Đạo

Trong cộng đồng người Việt tại Pháp có hai nhà khoa học nổi tiếng cùng sinh ra trong một gia đình. Đó là ông Nguyễn Quang Riệu, nhà thiên văn học, và ông Nguyễn Quý Đạo, nhà hóa học. Cả hai đều là tiến sĩ, Giám đốc nghiên cứu danh dự của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), đã từng có những công trình khoa học được giới chuyên môn đánh giá cao và có nhiều đóng góp cho cả Pháp và Việt Nam.

Ông Nguyễn Quang Riệu và ông Nguyễn Quý Đạo quê ở Hải Phòng. Hai ông được gia đình gửi sang Pháp du học từ khi còn trẻ. Theo lời ông Nguyễn Quang Riệu, quãng thời gian học đại học là thời kỳ khó khăn nhất đối với hai anh em ông vì lúc đó tại quê nhà đang có chiến tranh, hai ông mất liên lạc với gia đình. Để có tiền giúp hai anh em sinh sống và tiếp tục học tập ông Riệu phải vừa học vừa làm nhiều nghề, trong đó có nghề dạy kèm và trợ giảng. Bằng ý chí quyết tâm và nghị lực của mình, hai anh em ông đã vượt qua giai đoạn khó khăn đó và đã tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, sau đó đoạt bằng tiến sĩ và trở thành các nhà nghiên cứu khoa học nổi tiếng. Ông Nguyễn Quang Riệu làm ở Đài Thiên văn Paris, đã từng công bố hàng trăm công trình khoa học nghiên cứu về các vấn đề của vũ trụ như các tia bức xạ vũ trụ hoặc các nguyên tố hóa học có khả năng dẫn đến sự sống trong dải Ngân Hà. Năm 1972 ông Riệu xác định được vụ nổ trên chòm sao Thiên Nga và đó được coi là một trong những phát hiện quan trọng trong ngành Thiên văn. Viện Hàn lâm khoa học Pháp đánh giá cao các công trình nghiên cứu của ông Nguyễn Quang Riêu. Với đóng góp đó năm 1973 ông được Đài Thiên văn Paris trao giải thưởng. Ông Nguyễn Quý Đạo cũng rất thành công trong nghề nghiệp của mình. Ông là tác giả của hơn 300 tài liệu nghiên cứu khoa học và là chủ nhân của ba bằng sáng chế, được nhiều trường đại học trên thế giới mời thuyết trình.
Có một điều đặc biệt là cả hai anh em ông Nguyễn Quang Riệu và ông Nguyễn Quý Đạo tuy sống nhiều năm ở nước ngoài nhưng vẫn nặng lòng với quê hương, đất nước. Trong các dịp trò chuyện với hai ông, tôi, người viết bài này, đã từng được nghe các ông hào hứng kể về cảm giác vui sướng của mình khi nghe tin Việt Nam chiến thắng ngoại xâm, tái lập hòa bình. Với các ông, hòa bình không chỉ mang lại hạnh phúc cho người dân trong nước mà còn tạo điều kiện để hai anh em ông về quê góp phần cống hiến cho quê hương. Sau ngày đất nước thống nhất, hai ông đều về nước rất sớm. Kể từ đó đến nay hai anh em ông Nguyễn Quang Riệu và Nguyễn Quý Đạo đã về Việt Nam nhiều lần. Ông Nguyễn Quang Riệu thì tham gia các khóa giảng dạy về vật thiên văn tại các trường đại học, nói chuyện về khoa học vũ trụ, làm việc với các cơ quan hữu quan Pháp để xin các xuất học bổng cho sinh viên Việt Nam. Ông còn viết sách về thiên văn bằng tiếng Việt và xuất bản ở trong nước để phổ biến kiến thức về vũ trụ học cho mọi người. Tôi đã từng dự một buổi nói chuyện của ông, thấy ông hào hứng, say sưa nói về vụ nổ bigbang, về vũ trụ thuở sơ khai, về các hành tinh và các thiên hà với các cử tọa mà đa số đều là những người chưa biết gì nhiều về thiên văn học. Điều đó cho thấy ông Riệu say mê công việc của mình như thế nào. Dường như với ông, quan sát các vì sao, nghiên cứu đời sống bí ẩn của chúng là một niềm hạnh phúc và ông muốn chia sẻ niềm hạnh phúc đó cho tất cả mọi người.

Để phổ biến các hiểu biết về khoa học thiên văn và khoa học môi trường tới nhiều người, ông viết một loạt sách khoa học thuộc loại dễ đọc bằng tiếng Việt, trong đó các cuốn như “Phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại”, “Lang thang trên dải Ngân Hà”, “Sông Ngân khi tỏ khi mờ”, “Bầu trời tuổi thơ” và “Con đương đến với những vì sao” để in và xuất bản tại Việt Nam.

Giống như anh mình, ông Nguyễn Quý Đạo cũng luôn quan tâm tới đất nước và tìm cách đóng góp công sức tài năng cho quê hương. Trong những lần về nước ông Đạo đã cùng các nhà khoa học Việt Nam thực hiện nhiều công trình khoa học có giá trị. Ông rất quan tâm đến việc đào tạo các nhân tài cho Việt Nam và đã từng kiến nghị Nhà nước mạnh dạn đầu tư xây dựng cơ sở trang thiết bị nghiên cứu hiện đại nhằm tạo điều kiện làm việc cho các nhà khoa học trong nước, đồng thời góp phần thu hút chất xám của kiều bào cũng như chất xám của các nhà khoa học trên thế giới, mở ra các cơ hội hợp tác quốc tế, đưa đến việc thực hiện các công trình nghiên cứu mang tầm vóc quốc tế ngay tại Việt Nam. Ông Đạo đã được trao danh hiệu “Vinh danh nước Việt 2005”, do có nhiều đóng góp cho đất nước.

http://baodaidoanket.net/ddk/mdNews.ddk?masterId=90&categoryId=218&id=19504



            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org



GS Tạ Quang Bửu, tấm gương và những lời căn dặn

Vietsciences-Nguyễn Lân Dũng              31/03/2010

           Trong những ngày này, khi nói đến những giải pháp giải quyết những bất cập, lạc hậu, bệnh hình thức, giả dối kéo dài trong nền giáo dục nước nhà, nhiều trí thức thường nhắc đến tấm gương và những di huấn của GS Tạ Quang Bửu (1910-1986), Bộ trưởng bộ Quốc phòng thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp và Bộ trưởng bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp đầu tiên, nhà bác học lớn của đất nước, một “Lê Quý Đôn thời đại Hồ Chí Minh". Đó là một nhà trí thức từ hơn 40 năm trước đã kiên tâm phấn đấu cho một nền giáo dục “thực dạy, thực học", "học đi đôi với hành" và đã sớm chỉ ra rằng đất nước không thể tiến lên được nếu không thanh toán được một nền sản xuất không có kỹ thuật và một nền kỹ thuật thiếu cơ sở khoa học, tức là nếu không sớm vươn lên một nền kinh tế tri thức như cách gọi hôm nay. 

            Giáo sư Bửu có sự uyên bác rất kỳ lạ. Tôi chỉ nói một khía cạnh nhỏ, đó là lĩnh vực Sinh học- một lĩnh vực khác hẳn với chuyên ngành Toán học, chuyên ngành mà ông đã lấy bằng Tú tài Toán từ năm 1929, và sau đó là những năm được đào tạo chính quy ở các Đại học Paris, Bordeaux (Pháp) và Oxford (Anh)... 
         Trong kháng chiến chống Pháp, khi bố tôi làm Giám đốc Giáo dục Liên khu X, có lần Cụ đã mang về nhà cuốn sách “Sống” và cuốn “Vui sống” do GS Tạ Quang Bửu viết, được in trên giấy dó. Tôi còn nhỏ quá nên đọc không hiểu. Sau này học đại học chuyên ngành Sinh học tôi mới có điều kiện đọc lại. 
          Phải nói là kỳ lạ vì GS Bửu viết ra những điều rất uyên bác ấy vào năm 1948, nghĩa là 5 năm trước khi J.D. Watson và F.H.C. Crick khám phá ra cấu trúc ADN, mở màn cho thời đại Sinh học phân tử. Thời ấy mà GS Bửu đã viết được: Ngoài chromosome (nay gọi là nhiễm sắc thể- NLD) thì tế bào chỉ chứa những hóa chất không có gì đặc sắc... Nhưng số đặc tính trong một con người lớn hơn số chromosome nhiều, nên các đặc tính ấy chỉ có thể chiếm những phần tử rất bé của chromosome: mỗi đặc tính sẽ chiếm một căn cứ gọi là gen...Một chromosome là một chuỗi gồm 2000 gen và như thế chiều dài của mỗi gen không quá 3/10000mm hay ba trăm Angstrom. Theo đó một gen dài bằng một trăm lần khoảng cách giữa hai nguyên tử trong một khí. Còn bao nhiêu khái niệm hiện đại khác mà GS Bửu ghi bằng tiếng Anh. Bất kỳ nhà Sinh học nào đọc lại cuốn sách mỏng này và nhớ rằng GS Bửu viết ra vào năm 1948 thì chỉ có thể từ ngạc nhiên đến khâm phục.
           Ngày nay, khi các nhà Sinh học trên thế giới bắt đầu chuyển sang nghiên cứu Sinh học lượng tử (Quantum Biology) thì ngay trong cuốn sách rất mỏng kia GS Bửu đã khẳng định được rằng: Gen, phân tử khổng lồ, theo thuyết Delbruck, cũng là một hệ thống phải cắt nghĩa bằng những định luật của Lượng tử học. Tiếc rằng tác phẩm này GS Bửu viết bằng tiếng Việt chứ nếu không chắc hẳn phải được coi là một trong những trước tác kinh điển của giới Sinh học quốc tế, vì trong đó đã có những tiên đoán rất khoa học. 
         Về những uyên bác trong Toán học và Vật lý học của GS Bửu chắc chúng ta đều đã biết rõ. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi biết GS Bửu là người cùng KS. Phạm Quang Lễ (tức GS Trần Đại Nghĩa sau này) đã lên Thái Nguyên thử đạn bazôca của Mỹ ngay sau khi KS Lễ vừa theo Bác Hồ từ Pháp về Hà Nội. Ông không chỉ uyên bác về kiến thức mà rất tài hoa trong việc viết tài liệu phổ biến khoa học. Cái khó mà tôi cố học ở ông là: viết thế nào để ai đọc cũng thấy những cái mới nhưng ai đọc cũng hiểu được, hay ít nhiều hiểu được nội dung chủ yếu.

         Sự uyên bác của GS Bửu gắn liền với tinh thần tự học suốt đời của ông. Ông chỉ có bằng Cử nhân trong tay, cho nên khi có người hỏi bằng cấp nào cao nhất mà ông có thì người ta đồn rằng ông đã trả lời là Bằng bơi lội do Hoàng gia Anh cấp. 
         Ông miệt mài đọc sách và chọn toàn những quyển cốt lõi nhất để đọc. Thí dụ như về Sinh học ông chọn cuốn Was ist leben? của Erwin Schrödinger qua bản dịch tiếng Đức (vì không có nguyên bản tiếng Anh). Ông thông thạo tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga và cả chữ Hán nữa. Khi đã ở cương vị lãnh đạo cao, GS Bửu vẫn đều đặn đến thư viện khoa học để tự chọn sách mượn về đọc. 
       Là người lãnh đạo ngành đại học và trung học chuyên nghiệp trong 11 năm trời, GS Bửu đã đặt nền móng cho sự nghiệp đào tạo không chỉ cho hai ngành này mà cả cho ngành giáo dục phổ thông nữa. 
         Xin nhắc lại một số ý kiến mà GS Bửu đã từng phát biểu: Mục đích phấn đấu của chúng ta là làm cho học sinh tốt nghiệp lớp 10 phải biết làm một số việc như biến đổi đại số, giải một số phương trình đại số, tính được một số đạo hàm, vẽ một số đồ thị; còn về mặt hình học cũng phải biết làm một số động tác cần cho các chứng minh và cho việc dựng hình. Biết làm là chủ yếu còn biết nhiều về toán hoc chỉ là yêu cầu phụ và chúng ta phải làm sao cho học sinh thông qua biết làm mà biết nhiều và biết sâu...Thầy cần tránh nói sai để sau phải cải chính lại, vì cải chính chỉ xóa bỏ cái sai của thầy chứ không xóa được cái sai mà trò đã tiếp thu...Ở bậc phổ thông, bài tập nên theo sát từng đợt các bài giảng để học sinh nắm vững định nghĩa và quy tắc. Rõ ràng không cần nhiều bài tập mà cần một số ít nhưng thật tiêu biểu, nhất định phải làm được... Thần đồng toán học là một quá trình xây dựng chứ không phải là một hiện tượng bẩm sinh... Chúng ta nên kiên quyết tập cho học sinh từ bé cân nhắc trước khi viết, biết quý sự viết ít mà đúng...Hình như chúng ta chưa làm được bao nhiêu so với các lời căn dặn của GS Bửu. 
         Trong gần một thập kỷ phụ trách việc xây dựng và quản lý nền khoa học và công nghệ nước ta, GS Bửu cũng đã có biết bao chính kiến cơ bản và thỏa đáng. Chúng ta không thể quên những lời chỉ bảo của ông, chẳng hạn như: Kỹ thuật là nhập cảng, là bắt chước, rồi cải tiến, sáng tạo trong cái bắt chước... Tất nhiên chúng ta càng phải sáng tạo.Nhưng sáng tạo ở đâu? Sáng tạo thế nào? Sáng tạo để làm gì? Chưa thật rõ ràng lắm. Phải chăng chúng ta phải sáng tạo để nâng cao hiệu suất và chất lượng? Ý thức về chất lượng, kỷ luật và chất lượng của chúng ta còn thấp. Cứ như vậy mãi, sẽ khó mà có tiến bộ kỹ thuật, đừng nói gì đến cách mạng kỹ thuật… Chúng ta phải thanh toán càng nhanh càng tốt hiện tượng sản xuất không có kỹ thuật. Hơn nữa, chúng ta phải tiến đến thanh toán kỹ thuật không có cơ sở khoa học... Trường chúng ta phải là trường vừa học vừa làm để đào tạo ra những người vừa làm vừa học...
         GS Tạ Quang Bửu có một nhân cách hết sức quý giá. Chưa bao giờ ông lo nghĩ cho riêng bản thân mình. Nghe nói ông dùng chiếc TV đen trắng cho mãi đến khi người con rể tặng ông một chiếc TV màu. Ông rất gần gũi với mọi người và biết chọn trong mỗi ngành những người giỏi để trực tiếp giao nhiệm vụ. Ông giao cho những việc rất cụ thể và tận tình hướng dẫn để có thể làm bằng được. Đi công tác địa phương ông kéo những cán bộ này đi theo và chỉ định những nhiệm vụ khoa học cần giải quyết. Càng giỏi càng khiêm tốn và càng biết tin dùng lớp trẻ. Đó là bài học không phải ai cũng có thể học được.


       Giáo sư Tạ Quang Bửu đã chia tay với chúng ta 24 năm rồi, nhưng tấm gương và những lời căn dặn của ông luôn còn mãi trong những người được có dịp làm việc với ông, những học trò của ông và tất cả những ai được biết đến về tài năng và nhân cách của ông.


            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org    Nguyễn Lân Dũng

Tin tức / Việt Nam

Chàng lao công gốc Việt trở thành khoa học gia không gian vũ trụ của Mỹ


Tiến sĩ Phạm Đăng Khánh.

Trà Mi-VOA
27.06.2015

Một thanh niên làm lao công cho các cửa hàng trong những khu mua sắm khi sang Mỹ tỵ nạn trở thành một nhà khoa học không gian vũ trụ của Trung tâm Thí nghiệm Nghiên cứu Không quân Hoa Kỳ sau 25 năm miệt mài vượt khó vươn lên.

Đó là câu chuyện thành công của Tiến sĩ Phạm Đăng Khánh, cháu nội đích tôn của sử gia nổi tiếng Phạm Văn Sơn và là cháu ngoại của nhà thơ lừng danh một thời Bàng Bá Lân.

Đến Mỹ năm 1991 theo diện HO vì bố mẹ là cựu tù nhân chính trị từng làm việc cho chính phủ Mỹ trước năm 1975, chàng thanh niên 19 tuổi quyết tâm theo đuổi ‘giấc mơ Mỹ’, phấn đấu tiến thân bằng con đường học vấn.

Ý chí kiên trì và những nỗ lực không ngừng đã mang về cho anh những thành quả đáng nể. Trong số này phải kể tới hàng trăm bài viết nghiên cứu khoa học cùng hàng chục giải thưởng của Không quân Hoa Kỳ như Huy chương Không quân về Thành tựu dân sự, Giải Kỹ sư Không quân Xuất sắc, Bài nghiên cứu Xuất sắc nhất năm. Anh cũng là thành viên phê bình trong các ủy ban luận án Tiến sĩ và Thạc sĩ tại các trường đại học Mỹ, cố vấn nghiên cứu cho các cơ quan khoa học danh tiếng của Mỹ như Cơ quan Phòng thủ Tên lửa, Cơ quan Dự án Nghiên cứu Quốc phòng cao cấp, Hội Kỹ thuật Khoa học Quốc phòng Hoa Kỳ..v..v..

Tạp chí Thanh niên VOA hôm nay mời các bạn cùng gặp gỡ tấm gương thành công Phạm Đăng Khánh, niềm tự hào của người Việt hải ngoại.

Bấm vào đây để nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn
******************************************************************************


******************************************************************************
TS. Khánh: Khi tôi đến Mỹ, mọi sự đều bỡ ngỡ về văn hóa, lịch sử, phong tục-tập quán. Khó khăn lớn nhất đối với tôi và cả gia đình là không có đủ khả năng đọc hiểu và nói tiếng Anh. Bản thân tôi phải bắt đầu lại con đường học vấn từ lớp 10. Các khó khăn về kinh tế người tỵ nạn nào cũng phải đương đầu, nhưng mình cũng phải cố gắng. Tôi cùng với em trai mỗi sáng sớm phải đi làm thêm. Sáng sớm, chúng tôi đi dọn dẹp, lau chùi các cửa hàng to trong các khu thương mại lớn. Mình làm 2-3 tiếng/ngày, và đi học cho tới 10 giờ đêm. Lên thạc sĩ, mình được học bổng. Mình biết tiết kiệm nên tiền học bổng cũng đủ trang trải các chi phí như đi lại, xe cộ, bảo hiểm.

Trà Mi: Với những cái giá đã trả để có được vị trí hôm nay, nhìn lại, anh nghiệm ra cho mình điều gì?

TS. Khánh: Tôi nghĩ mình lúc nào cũng nên luôn làm việc chăm chỉ, không được hài lòng với những gì đạt được, và con đường đó lúc nào cũng đòi hỏi những hy sinh. Chẳng hạn như vì công việc, thời gian của tôi dành cho gia đình đã bị ít đi.

Trà Mi: Tư chất ham học, nỗ lực, và sự may mắn chiếm tỷ lệ thế nào trong sự thành công của anh?

TS. Khánh: Tinh thần học hỏi và sự nỗ lực, hai tố chất này cộng lại chiếm 90%. Còn lại là do sự may mắn hay do cơ hội chính mình tự tạo nên. Những người tỵ nạn như tôi khi gặp khó khăn mà không biết cách giải quyết vấn đề và đương đầu với khó khăn một cách tích cực thì rất khó khăn. Làm sao để vượt qua và tìm phương hướng tùy thuộc vào bản thân mỗi người kèm theo các yếu tố tác động xung quanh từ gia đình.

Trà Mi: Nếu đặt tất cả những bí quyết thành công anh vừa kể vào môi trường ở Việt Nam, anh nghĩ đích đến của mình có giống ngày hôm nay không?

TS. Khánh: Chị hỏi một câu rất sát thực tế. Những tố chất về nỗ lực, ham học, sự giúp đỡ của những người xung quanh thì ở trong hay ngoài nước mình đều có được, nhưng môi trường nuôi nấng nghiên cứu và các chính sách hay những khuyến khích từ các cơ quan, hội đồng khoa học rất quan trọng. Có thể trong nước đang dần dần có môi trường này nhiều hơn so với những năm trước, nhưng những điều kiện đó không thể nào bằng được bên Mỹ này.

Trà Mi: Có nhiều con đường để thành công, vì sao anh chọn theo đuổi con đường khoa học đầy cam go đòi hỏi rất nhiều kỳ công và chất xám để tiến thân?

TS. Khánh: Lĩnh vực khoa học luôn năng động, thay đổi, biến động nên tôi muốn đóng góp một phần nào đó cho hướng đi này.

Trà Mi: Thành tựu hôm nay đạt được trên đất Mỹ có ý nghĩa thế nào đối với anh, một người tỵ nạn gốc Việt?

TS. Khánh: Tôi vẫn luôn tự hào mình là người Việt Nam và đề ra mục tiêu dài hạn là hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu sáng tạo do người Việt đứng đầu hoặc các chuyên gia người Việt ở đây.

Trà Mi: Vì sao mục tiêu đó chỉ mới giới hạn ở cộng đồng người Việt ở Mỹ? Anh có bao giờ nghĩ tới mình có thể làm gì để đóng góp, giúp đỡ nơi chôn nhau cắt rốn của mình chăng?

TS. Khánh: Câu hỏi này tương đối rất khó. Bất kỳ thể chế nào muốn thu hút nhân tài về giúp nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu đất nước trân trọng sự phát triển về khoa học, thúc đẩy và động viên tinh thần nghiên cứu khoa học thì ai cũng muốn về giúp đỡ cả. Hiện nay, tôi biết vài nhân tài người Việt bên này đang hợp tác với các cơ quan hữu trách ở Việt Nam để nâng cấp giáo dục đại học. Nhân tài người Việt ở nước ngoài đang dần dần trở về hợp tác và giúp đỡ phát triển kinh tế trong nước. Tôi nghĩ nếu môi trường và các điều kiện trong nước thích hợp với các nhân tài bên này và tạo điều kiện cho họ phát triển tài năng và lương bổng gần gần với bên này thì dần dần họ sẽ trở về thôi.

Trà Mi: Theo ý kiến của Tiến sĩ, học vấn cao và vị trí lãnh đạo có phải là thước đo chính xác về sự thành công của người trẻ hay không?

TS. Khánh: Tôi nghĩ học vấn vẫn là một công cụ nhiều tiềm năng. Về tinh thần lãnh đạo, đối với giới trẻ, nếu mình có vị trí cao trong một cơ quan hay tổ chức nào đó, mình nên truyền đạt tinh thần đóng góp tích cực và tinh thần tự nguyện. Tinh thần lãnh đạo và học vấn, hai điều này phải luôn đi đôi với nhau.

Trà Mi: Một lời khuyên cho các bạn trẻ ngưỡng mộ thành quả anh đạt được, anh sẽ nói gì?

TS. Khánh: Tôi muốn gửi đến các bạn trẻ một lời khuyên đơn giản thôi, đó là phải luôn luôn làm việc tích cực, ham học và hướng tới. Đây là những bí quyết đã giúp tôi thành công. Và mình cũng không nên quên nguồn gốc gia đình của mình và bản thân mình là ai.

Trà Mi: Xin cảm ơn Tiến sĩ Khánh rất nhiều về thời gian dành cho cuộc trao đổi hôm nay.


Chùm ảnh GS Bùi Trọng Liễu trong cuốn sách «Học gần Học xa»

Vietsciences        10/03/2010




 

Ảnh 1: Bùi Trọng Liễu (đứng giữa) và hai con, cùng trong lễ phục giáo sư đại học Pháp, 2003.
Ảnh 2 : Vợ chồng thuở chưa cưới, ảnh chụp trước lâu đài Chantilly, 1961.
Ảnh 3 : Với ông bà Tạ Quang Bửu vào dịp tác giả được mời về nước (1970), thí điểm cho việc Việt kiều về nước làm việc ngắn hạn. Lúc đó ông Bửu là bộ trưởng bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (ảnh chụp tại nhà ông bà Bửu phố Hoàng Diệu, Hà Nội).
Ảnh 4: Với GS anh hùng lao động Lương Định Của, khi Bùi Trọng Liễu thăm viện « Nghiên cứu cây lương thực » ở Hải Hưng, trong chuyến về nước làm việc năm 1970.
Ảnh 5 : Với bộ trưởng Nguyễn Văn Hiếu (trưởng đoàn) và bà Nguyễn thị Chơn (đoàn viên), phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tại Hội nghị hiệp thương hai bên miền Nam ở La-Celle-Saint-Cloud, sau Hiệp định Paris, 1973.
Ảnh 6 : Thăm bảo tàng họa sĩ Fernand Léger, với các ông Phạm Ngạc (bên trái trong ảnh) và Đoàn Hựu (bên phải trong ảnh), thuộc phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris. Bảo tàng Fernand Léger là một trong những địa điểm đàm phán bí mật Lê ĐứcThọ-Kissinger. Ảnh chụp 1973.
Ảnh 7 : Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Ban Chấp hành Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam tại Pháp, tại Sứ quán Việt Nam ở Paris, trong chuyến thăm chính thức nước Pháp của Thủ tướng, 1977. Bùi Trọng Liễu, chủ tịch Hiệp hội, là người đứng ngoài cùng (thứ tư phía bên trái Thủ tướng).
Ảnh 8 : Vợ chồng Bùi Trọng Liễu (hàng ghế thứ nhì, phía bên phải tấm ảnh) tại Hội nghị « liên Mỹ » về giảng dạy Toán học, Caracas 1975.
Ảnh 9 : Tại Hội nghị Toán học toàn quốc, Hà Nội 1977. Từ phải sang trái : Phan Đình Diệu (người thứ 4), Lê Văn Thiêm (người thứ 6), bộ truởng Trần Quang Huy, trưởng Ban Việt kiểu Trung ương (người thứ 11), Bùi Trọng Liễu (người thứ 16).
Ảnh 10 : Năm 1981, một Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp về nước theo lời mời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng và Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bùi Trọng Liễu, trưởng Đoàn, tại nhà khách Chính phủ, Hà Nội 1981.
Ảnh 11 : Với Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Thủ tướng, tên gọi thời đó) Phạm Văn Đồng, tại phủ Chủ tịch, Hà Nội 1981.
Ảnh 12 : Ông Hoàng Quốc Việt, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc (người thứ nhất bên trái ảnh), Bộ truởng Xuân thủy (người thứ nhì) và Bùi Trọng Liễu, tại trụ sở của Mặt trận, Hà Nội 1981.
Ảnh 13 : Trong buổi làm việc của Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp với Bộ trưởng Nguyễn Đình Tứ (bên phải tấm ảnh), Bộ Đại học, Hà Nội 1981.
Ảnh 14 : Trưởng Ban Khoa giáo Bùi Thanh Khiết (bên trái tấm ảnh) tiếp Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp. Từ trái sang phải : Phạm Thị Anh Thư (đoàn viên), Bùi Trọng Liễu (trưởng đoàn), thứ trưởng Nguyễn Ngọc Trân và Nguyễn Quang Tiến (thư ký đoàn), Hà Nội 1981.
Ảnh 15 : Trong buổi Bộ trưởng Đặng Thí, trưởng Ban Việt kiều Trung ương (người đứng) tiếp Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp, Hà Nội 1981.
Ảnh 16 : Khai mạc Đại hội 4 Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam tại Pháp, Paris 1982.
Ảnh 17 : Bia chữ Nôm khắc bài ký về việc thành lập Trung tâm Đại học « dân lập » Thăng Long năm 1988. Bia gắn tại 34 Hàn Thuyên, Hà Nội, trụ sở văn phòng lúc mới thành lập. Bia chữ quốc ngữ cũng gắn tại địa chỉ này.
Ảnh 18 : Bia khắc bài thơ của Bùi Trọng Liễu tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Toàn quốc kháng chiến, 1946-1996.
Ảnh 19 : Từ trái sang phải : Hoàng Tụy, Lê Văn Thiêm, Colette (vợ Bùi Trọng Liễu), Nguyễn Văn Đạo, Henri Van Regemorter (chủ tịch Ủy ban Hợp tác Khoa học và Kỹ thuật vói Việt Nam, Comité pour la Coopération Scientifique et Technique avec le Vietnam). Ảnh chụp tại nhà Bùi Trọng Liễu cuối năm 1981, khi Đoàn các GS Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy, Nguyễn Văn Đạo ghé qua Pháp trong chuyến đi thăm Mỹ.
Ảnh 20 : Bia thứ nhất trong Văn Miếu, trên đó có khắc tên Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ, cụ tổ bên ngoại của Bùi Trọng Liễu. Tên cụ Nguyễn Như Đổ là tên thứ nhì trên bia này.
Ảnh 21 : Tiếp GS Nguyễn Đình Trí (Đại học Bách Khoa Hà Nội) và GS Phan Đình Diệu (lúc đó còn công tác ở Viện Khoa học Việt Nam, sau này mới chuyển sang Đại học Quốc gia Hà Nội) ghé qua Pháp trong chuyến đi thăm Mỹ. Từ phải sang trái : Phan Đình Diệu và Nguyễn Đình Trí. Ảnh chụp tại nhà Bùi Trọng Liễu ở Pháp năm 1980.
Ảnh 22 : Tiếp VS anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa. Ảnh chụp tại nhà Bùi Trọng Liễu ở Pháp năm 1983.
Ảnh 23 : Lễ « Sinh phong » ông bà nội của Bùi Trọng Liễu ở quê Nhuận Ốc, năm 1938 .
Ảnh 24 : Nhà thủy tạ trên hồ bán nguyệt, ở « sinh phần » ông bà nội của Bùi Trọng Liễu ở làng Nhuận Ốc. Các công trình xây dựng này đã bị hủy trong chiến tranh Việt-Pháp và trong thời cải cách ruộng đất.



           http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org 

Bùi Trọng Liễu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bùi Trọng Liễu (sinh 28 tháng 9 năm 1934Ninh BìnhViệt Nam - mất 5 tháng 3 năm 2010 tại Bệnh viện Antony, ngoại ô phía Nam ParisPháp) là Tiến sĩ nhà nước về khoa học, ngành Toán (Docteur d’Etat ès sciences mathématiques), là nghiên cứu viên tại Direction des Etudes et Recherches de l'EDF (1959-1963) và là giáo sư đại học (Lille 1963-1969, Paris 1969-2003).[1]
Ông sinh ra trong một gia đình trí thức ở làng Nhuận Ốc, xã Khánh Cường, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh BìnhViệt Nam. Bố ông là Bùi Văn Thiệp, một nhà tân học, từng học Trường Bưởi và Trường Cao đẳng Pháp chính Hà Nội, ra làm quan đến chức Tuần phủ Thái Nguyên, rồi Tuần phủ Phúc Yên lúc trước Cách mạng Tháng Tám.
Ông sang Pháp học và lập nghiệp tại đây. Vợ ông là Colette, một người Pháp, là tiến sĩ quốc gia về toán học, phó giáo sưĐại học Paris 4. Con trai đầu là Bùi Khảo Mạc, giáo sư Đại học Compiègne. Con trai thứ hai là Bùi A Lanh, phó giáo sư Đại học Picardie (Amiens).[2]
Thuở nhỏ, bên cạnh việc học tiếng Pháp, ông còn học chữ Hán đến mức đọc hiểu bộ tiểu thuyết cổ điển Tam Quốc chí diễn nghĩa. Theo gia đình sang Pháp từ năm 1950, khi mới 15 tuổi, gần cả cuộc đời sống nơi đất khách quê người, ông vẫn sành tiếng Việt, không chỉ trong lời ăn tiếng nói ngày thường, mà cả trong văn chương nghị luận, tranh biện hay trần thuật, hồi ký, tùy bút, tiểu phẩm.[2]
Ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ quốc gia về khoa học toán học năm 28 tuổi. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm giáo sư Đại học Lille (1963-1969), rồi giáo sư Đại học René Descartes (Paris 5) từ năm 1969 cho đến khi về hưu. Ông là một trong số rất ít người Việt sớm được công nhận chức danh giáo sư đại học ngành toán ở Pháp nói riêng, cũng như ở phương Tây nói chung.[2]
Năm 1970 ông đã trở về thăm quê hương, làm việc với Ủy ban Khoa học Nhà nước, đến năm 1981, ông làm trưởng đoàn của đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp về nước theo lời mời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.[1]
Ngay từ năm 1988, khi công cuộc Đổi Mới vừa bắt đầu, ông đã đứng ra sáng lập Trường Đại học Thăng Long[3] tại Hà Nội, trường đại học dân lập đầu tiên trong chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không xin tài trợ của Nhà nước, về giảng dạy và quản lý theo quan niệm mới, phù hợp với yêu cầu của xã hội và tình hình quốc tế. Trong những ngày đầu, vợ chồng ông phải dành một phần tiền lương của mình ở Pháp để gửi về nước. Ông bà đã thành lập tại Pháp một Hội Tương trợ Đại học Pháp - Việt (Amitié Universitaire France-Vietnam) để quyên góp tiền bạc, vật dụng từ các cá nhân, đoàn thể bên Pháp gửi về, giúp trường trang trải các chi phí và hỗ trợ các học bổng miễn phí...[4][5].

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Ông là tác giả của 4 cuốn sách đã xuất bản tại Việt Nam[1] gồm:
  • Tự sự của người xa quê hương (tên cũ là Chuyện gia đình và ngoài đời), nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội 2004
  • Chung quanh việc học, nhà xuất bản Thanh niên 2004
  • Học gần, Học xa, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội 2005
  • Học một sàng khôn, nhà xuất bản Tri thức Hà Nội 2007.
Cuốn sách thứ 5 là một tạp ký còn bỏ ngỏ, đó là Hướng về quê cũ lúc chiều tà gồm các bài báo của ông đăng trên báo.[6]
Ông viết hàng trăm bài báo, tiểu luận, góp ý về cải cách giáo dục ở Việt Nam. Bài nào của ông cũng thể hiện tấm lòng dành cho quê hương. Ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục Đại học ở Việt Nam.[7]




 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị. 

 Geothe



Thứ Ba, 23 tháng 6, 2015

CÂU CHUYỆN VẬT LÝ - Phần 2 .


 CÂU CHUYỆN VẬT LÝ - Phần 2 .

Có thể liên lạc ở tốc độ siêu ánh sáng?

  • 20 tháng 3 2015







Tốc độ ánh sáng nhanh đến nỗi nó có thể đưa bạn đi lại giữa London và New York đến 50 lần chỉ trong vòng một giây.
Với tốc độ như vậy, có lẽ bạn sẽ tự hỏi vì sao con người lại muốn phát minh ra cách thức liên lạc nhanh hơn tốc độ ánh sáng?
Do khoảng cách to lớn giữa các vật thể trong vũ trụ, các thông điệp, dù được chuyển đi ở tốc độ ánh sáng, cũng sẽ tốn nhiều thời gian.
Hiện nay, vẫn không có cách nào để liên lạc nhanh hơn như vậy mà không phá vỡ các quy luật về vật lý.
Cho đến nay, việc liên lạc ở tốc độ siêu ánh sáng là không cần thiết. Nơi xa nhất mà con người đã đặt chân đến là Mặt trăng - cách chúng ta chỉ 384.400 km.
Khoảng cách này chỉ tốn 1,3 giây để vượt qua ở tốc độ ánh sáng.
Khoảng thời gian này cũng chỉ giống như lúc tín hiệu bị trì hoãn khi bạn gọi cho ai đó ở đầu phía bên kia thế giới.

Khó khăn do khoảng cách

Thế nhưng nếu đi xa hơn - như Sao Hỏa chẳng hạn - chúng ta sẽ bắt đầu gặp khó khăn.
Sao Hỏa cách Trái Đất khoảng 225 triệu km, tức 12,5 phút ánh sáng, khiến các cuộc nói chuyện giữa Sao Hỏa và Trái Đất sẽ rất khó khăn.
Tàu vũ trụ Voyager đã vượt ra khỏi hệ mặt trời, cách Trái Đất 19,5 tỷ km.
Bất chấp khoảng cách này, chúng ta vẫn có thể nhận thông tin liên lạc từ họ, nhưng các thông điệp này thường đến trễ đến 18 tiếng.
Theo thuyết tương đối của Einstein, mọi thứ sẽ luôn như vậy, không gì có thể đi nhanh hơn ánh sáng.
Nếu con người tìm ra cách để vượt qua giới hạn này, chúng ta sẽ cần phải 'nhìn lại rất nhiều quy luật về vật lý', theo nhà nghiên cứu Les Deutsch, từ phòng thí nghiệm Jet Propulsion tại Học viện khoa học Califronia.
Les Deutsch đã dành nhiều năm thiết kế các thiết bị thông tin liên lạc xuyên vũ trụ cho Nasa.
Hầu hết các hình thức liên lạc trong vũ trụ được thực hiện qua sóng radio, vốn di chuyển ở vận tốc ánh sáng. Công nghệ liên lạc bằng laser cũng đang được nghiên cứu.





Lỗ sâu

Có lẽ chúng ta không thể tăng tốc độ liên lạc, nhưng vẫn có cách để tăng khối lượng thông tin được gửi đi từng giây.
"Một trong những điều chúng ta có thể làm là nâng tần số lên cao hơn, từ 8GHz lên 30GHz," ông Deutsch nói.
Tần số càng cao thì lượng thông tin được truyền đi mỗi giây cũng cao hơn.
Bên cạnh đó, lượng thông tin gửi đi cũng có thể tăng lên bằng các phương pháp nén thông tin.
Có lẽ trong tương lai chúng ta có thể làm cho tốc độ của thông điệp có vẻ nhanh hơn.
"Theo thuyết tương đối thì có lẽ chúng ta có thể sử dụng những lỗ sâu trên vũ trụ như đường tắt", Deustch nói.
Có thể nghĩ theo cách này - nếu bạn vẽ hai chấm bất kì trên một tờ giấy thì một đường thẳng sẽ là đường ngắn nhất từ chấm này đến chấm kia.
Tuy nhiên nếu bạn gấp tờ giấy đó lại, chúng sẽ ở gần nhau hơn và một cây kim có thể đâm thủng cả hai chấm đen.
Tất nhiên là trong không gian, các lỗ sâu khó có khả năng được đặt một cách tiện lợi như vậy. Chúng có thể đẩy nhanh tốc độ một số thông điệp, nhưng không có nghĩa là thông điệp sẽ được nhận ngay tức khắc.





Liên đới

Một trong những cách khác đang được xem xét, đó là hạt liên đới - nghĩ là các phân tử luôn có chung tính chất, dù chúng có cách nhau bao xa đi nữa.
"Nếu bạn thay đổi phân tử này, có nghĩa là bạn cũng sẽ thay đổi phân tử kia", Ed Trollope, một kỹ sư tàu vũ trụ nói.
"Có thể nói liên lạc giữa chúng ta có thể diễn ra ngay tức khắc trong tương lai bằng hạt liên đới".
Tuy nhiên điều này không hề đơn giản.
Nếu bạn có một đôi hạt liên đới, một hạt trên tàu vũ trụ và hạt kia trên Trái Đất, điều này có nghĩa là bất kỳ sự thay đổi nào đối với hạt trên tàu vũ trụ sẽ được nhìn thấy đối với hạt trên Trái Đất.
Tuy nhiên, người giám sát trên Trái Đất sẽ khó hiểu được sự thay đổi này nghĩa là gì nếu không có giải thích từ chính phi thuyền, và thông điệp này sẽ không thể đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng.
Nếu liên lạc siêu ánh sáng là điều có thể, điều này có thể tác động to lớn đến các nhiệm vụ thám hiểm vũ trụ.
"Nếu bạn có một vệ tinh trong quỹ đạo Trái Đất, mọi liên lạc sẽ diễn ra gần như ngay tức khắc", Trollope nói.
"Nhưng nếu tín hiệu bị chậm 30 phút, điều này có nghĩa là nếu bạn thấy một trục trặc nào đó hiển thị trên màn hình, nó đã xảy ra từ 30 phút trước".
"Bất cứ mệnh lệnh nào bạn gửi đi cũng sẽ tốn thêm 30 phút nữa".
Ngày nay, tất cả những phương án như hạt cơ bản, liên đới lượng tử, vẫn không phải là cách tốt nhất để tiến đến liên lạc với tốc độ siêu ánh sáng.
Các lỗ sâu, nếu tồn tại, và nếu tín hiệu có thể đi xuyên qua chúng, có thể cho chúng ta cảm giác liên lạc ở tốc độ siêu ánh sáng.
Thế nhưng thực tế là liên lạc siêu ánh sáng vẫn là một thách thức đối với những quy luật trong khoa học ngày nay.
Bản gốc bài viết đã được đăng trên BBC Future

 Nguồn :   http://www.bbc.com/vietnamese/culture_social/2015/03/150320_will-we-ever-speak-across-galaxies_vert_fut




Internet có thể bị tiêu diệt hoàn toàn?

  • 21 tháng 3 2015




 AFP


Internet là thứ không thể phá hủy. Ít ra là chúng ta nghĩ như vậy.
Đó là lý do vì sao mỗi khi một điều gì đó có sức lan toản rộng, ví dụ như hình của Kim Kardashian, chúng ta thường đùa cợt rằng nó đang ‘huỷ diệt Internet’.
Điều này dĩ nhiên là không bao giờ có thể xảy ra. Chúng ta chỉ đơn thuần đang tìm cách để phóng đại tác động của một sự kiện nào đó.
Thế nhưng liệu Internet có thể nào bị tiêu diệt hoàn toàn? Và nếu có, liệu điều gì sẽ xảy ra tiếp đó?
Một phần của câu trả lời nằm tại trung tâm giao dịch Internet London (Linx) - nơi giao dịch lưu lượng trên internet lớn nhất thế giới.
Matthew Prince, CEO của dịch vụ CloudFlare, ước tính chỉ có khoảng 30 cơ sở như Linx trên toàn thế giới.
Những toà nhà rải khắp thế giới như thế này là nơi các máy chủ từ những nhà mạng như Virgin hay Comcast kết nối để trao đổi lưu lượng.
Nếu bất kì trụ sở nào trong số này ngưng hoạt động - ví dụ như vì mất điện hay động đất, hậu quả sẽ hiển thị rõ ngay tức khác.
“Internet trong khu vực sẽ ngưng hoạt động”, ông Prince nói.
“Và nếu bạn phá huỷ cả 30 toà nhà này thì Internet sẽ ngưng hoạt động trên toàn cầu”.
Tất nhiên là viễn cảnh đó khó xảy ra. Những trụ sở Internet quan trọng như vậy thường được bảo vệ chặt chẽ, Jack Waters, giám đốc công nghệ của Level 3, nói.
“Chúng tôi có camera quan sát ở khắp nơi và áp đặt các biện pháp an ninh cần thiết. Đây là những cơ sở rất kiên cố,” ông nói.
Có lẽ việc cắt đường dây kết nối giữa những nơi này sẽ dễ dàng hơn là phá huỷ Internet?
Khó để liệt kê số lượng dây nối Internet trên toàn cầu, và những đường dây lớn nhất thường được đặt dưới lòng biển.
Trong quá khứ, đã từng xảy ra nhiều trường hợp các đường dây này bị cắt đứt do động đất hoặc do bị neo tàu chạm phải.




  Trung tâm giao dịch lưu lượng ở London

Bền bỉ

Mặc dù vậy, hậu quả của những thiệt hại đối với cơ sở hạ tầng không lớn như bạn tưởng.
Hệ thống Internet được thiết kế để đạt được sự bền bỉ cao.
Paul Baran, một kỹ sư người Mỹ gốc Ba Lan, là một trong những người ngay từ những năm 60 đã tin rằng mạng lưới liên lạc cần được thiết kế để chịu đựng được cả một cuộc tấn công nguyên tử.
Ngoài Baran ra, Donald Davies, một nhà khoa học máy tính, cũng có ý tưởng tương tự.
Giải pháp của họ bao gồm việc chia nhỏ các dữ liệu và thông tin. Các mảnh nhỏ này sau đó sẽ được chuyền qua mạng lưới thông qua đường truyền nhanh nhất có thể và được ráp lại thành một khi đã đến đích.
Điều này đồng nghĩa với việc dù một đường dẫn có bị cắt, thông tin vẫn có thể tự tìm đến những đường dẫn khác.
“Đây là một strong những ý tưởng cực kỳ thông minh”, Waters nhận định.
“Chúng ta có một sự liên lạc giữa đầu này với đầu kia mà không cần quan tâm về điều gì xảy ra ở phần trung gian”.
Tất nhiên là khả năng tìm đường dẫn mới của Internet cũng có thị bị sử dụng để chống lại nó, tiêu biểu là các cuộc tấn công từ chối dịch vụ (Denial of service - DDoS).
DDoS là khi một lưu lượng lớn được gửi tràn ngập đến các máy chủ, khiến chúng không thể đáp ứng nổi.
DDoS đang ngày càng trở nên phổ biến hơn và đây là mối đe doạ mà những công ty như CloudFlare phải ngăn chặn, ông Prince nói.
Hệ thống máy chủ có dung lượng cao của CloudFlare có thể “hấp thụ” khối lưu lượng xấu để giúp các trang web tiếp tục hoạt động.
Tuy nhiên, các cuộc tấn công ngày càng trở nên khó đối phó hơn.
“Chúng tôi đang chứng kiến các vụ tấn công ngày càng gia tăng về cả số lượng và quy mô,” Prince nói.
“Nó dễ thực hiện đến nỗi nhiều khi các công ty cạnh tranh cũng làm”.
Một trong những mối lo ngại lớn khác là đột nhập vào BGP. BGP là giao thức tìm đường nòng cốt trên Internet (Border Gateway Protocol).
Đây là hệ thống chọn đường cho lưu lượng Internet.
Từ lâu, BGP được cho là luôn gửi lưu lượng đến đúng hướng. Tuy nhiên những năm gần đây, lưu lượng có thể bị chuyển đi sai hướng, đồng nghĩa với việc một khối lượng lớn dữ liệu Internet có thể bị đánh cắp và sử dụng bởi một bên thứ ba.



Trường hợp xấu nhất

"Tôi nghĩ một vụ tấn công lớn nhằm phá hủy hoàn toàn hệ thống Internet là có thể", Vincent Chan, giáo sư tại Học viện Công nghệ Massachusetts, nói.
Ông cho rằng các đợt tấn công vào cơ sở hạ tầng sẽ khó để lại những hậu quả lâu dài.
Tuy nhiên nếu tin tặc có thể tìm được một điểm yếu về phần mềm, đó sẽ là vấn đề lớn.
Chan cũng chỉ ra các phương thức gây nghẽn Internet rất khó để phát hiện.
Trong phòng thí nghiệm của mình, ông chỉ ra rằng các tín hiệu có thể bị gây nhiễu.
"Nếu bạn gây nhiễu tín hiệu ở một mức độ vừa phải, không đủ để không gây tác động lớn đến toàn hệ thống, nhưng lại vừa đủ để gây ảnh hưởng làm các tệp tin không thể đọc được", ông giải thích.
"Máy chủ sau đó sẽ liên tục yêu cầu gửi lại tín hiệu và nó có thể bị chậm lại, khoảng 1% chẳng hạn".
"Những người vận hành máy chủ sẽ không biết điều gì đang xảy ra. Họ chỉ cho rằng hệ thống đang bận hơn so với thường ngày".
Chan nghĩ rằng có một số người có thể muốn tấn công Internet theo cách này. Tuy nhiên hậu quả của các đợt tấn công này có vẻ như vẫn chưa được lường trước.
"Tôi nghĩ cần thảo luận về các vụ tấn công và việc bảo vệ mạng Internet như là một thực thể".
"Tôi nghĩ điều này chưa bao giờ được thảo luận một cách thích đáng", ông nói.
Bản gốc bài viết đã được đăng trên BBC Future

 Nguồn :  http://www.bbc.com/vietnamese/culture_social/2015/03/150321_how-to-break-the-internet_vert_fut




Chúng ta có năng lượng vô tận, nhưng vì sao vẫn chưa sử dụng?

Phản ứng tổng hợp hạt nhân ngược lại với phản ứng bên trong các nhà máy năng lượng nguyên tử, nó có thể tạo ra nguồn năng lượng vô tận.

Phản ứng tổng hợp hạt nhân chính là thứ cấp năng lượng cho Mặt trời và các vì sao – giải phóng ra một nguồn năng lượng cực lớn thông qua việc gắn các nguyên tố nhẹ lại với nhau, như hydrogen và helium. Nếu năng lượng tổng hợp này được khai thác trực tiếp trên Trái đất, nó có thể cung cấp một nguồn năng lượng sạch vô tận, dùng nước biển như là nguồn dầu chính mà không tạo ra khí nhà kính, không có nguy cơ gia tăng nhanh, và không có nguy phải đối mặt với các tai nạn thảm khốc.
Lượng chất thải phóng xạ sinh ra là rất thấp và gián tiếp, chủ yếu từ sự kích hoạt neutron của hạt nhân. Với các công nghệ hiện tại, một nhà máy năng lượng hạt nhân có thể được tái sử dụng trong vòng 100 năm trước khi bị đóng cửa.
Các nhà máy năng lượng hạt nhân ngày nay khai thác năng lượng từ hiện tượng phân hạt hạt nhân – sự phân chia hạt nhân của các nguyên tử nặng như uranium, thorium và plutonium để trở thành các hạt nhân con nhỏ hơn.



Quá trình này tự phát sinh trong các nguyên tố bất ổn định, và nó có thể được khai thác để tạo ra điện năng, nhưng nó cũng tạo ra nguồn chất thải phóng xạ rất lâu bị tiêu trừ.
Vậy tại sao chúng ta vẫn chưa sử dụng nguồn năng lượng sạch và an toàn từ phản ứng tổng hợp hạt nhân? Dù những nghiên cứu trên mảng này đã đạt được những đột phá lớn, tại sao những nhà vật lý học vẫn đặt nặng những hoài nghi về một công trình được coi là “bước đột phá của nhân loại” này?







Không như phân hạt hạt nhân, hạt nhân không tự động trải qua quá trình tổng hợp: các hạt nhân được tích điện dương và phải vượt qua được lực tĩnh điện khổng lồ của mình trước khi chúng đến được đủ gần để lực hạt nhân có vai trò gắn các hạt nhân lại với nhau phát huy tác dụng.
Trong tự nhiên, lực hấp dẫn khổng lồ của các ngôi sao là đủ lớn để nhiệt độ, độ đặc và thể tích của hạt nhân của chúng duy trì được sự tổng hợp thông qua các “kênh lượng tử” của các hàng rào tĩnh điện. Trong phòng thí nghiệm, sự xuất hiện của các kênh lượng tử là quá thấp, và do đó, hàng rào tĩnh điện chỉ có thể được vượt qua bằng cách tăng nhiệt độ các hạt nhân năng lượng – khiến chúng nóng gấp 6-7 lần nhân mặt trời.
Thậm chí cả phản ứng tổng hợp hạt nhân dễ khởi phát nhất – phản ứng kết hợp giữa các đồng phân của hydrogen như deuterium và tritium để hình thành nên helium và một neutron mang năng lượng – cũng cần đến nhiệt độ khoảng 120 triệu độ C. Ở một nhiệt độ cực cao như thế, các nguyên tử năng lượng vỡ vụn để cho ra các thành phần electron và hạt nhân của nó, tạo nên 1 thể plasma siêu nhiệt.








Việc cố định được thể plasma này đủ lâu để các hạt nhân có thể hòa trộn cùng nhau là một chiến tích không tầm thường chút nào. Trong phòng thí nghiệm, thể plasma được giam giữ nhờ vào một từ trường mạnh, được hình thành bởi các cuộc dây siêu dẫn tích điện, từ đó tạo ra một “chai từ trường” hình bánh rán nhốt thể plasma vào đó.
Các thực nghiệm về plasma hiện nay, như thực nghiệm Joint European Torus có thể giữ được plasma ở nhiệt độ dành cho mạng khuếch đại công suất, nhưng độ đậm đặc và thời gian giam giữ năng lượng (thời gian hạ nhiệt thể plasma) là quá thấp để nó có thể tự cấp nhiệt.
Nhưng quá trình này đã có một số bước tiến nhất định – những thực nghiệm hiện nay đã cho ra mắt những phản ứng có hiệu suất tốt hơn gấp 1000 lần, về nhiệt độ, độ đậm đặc của plasma và thời gian giam giữ nó, so với các thực nghiệm 40 năm trước. Và giờ chúng ta đã có những ý tưởng không tồi cho việc đẩy nhanh quy trình.
Những thay đổi hệ thống
Lò phản ứng ITER, hiện đang được xây dựng tại Cadarache miền Nam nước Pháp, sẽ khám phá về “hệ thống đốt plasma”, hệ thống mà tại đó, nhiệt năng plasma sinh ra nhờ các sản phẩm bị giam giữ sinh ra từ phản ứng hạt nhân sẽ vượt quá năng lượng nhiệt ngoại lai. Năng lượng thu được từ ITER sẽ gấp hơn 5 lần nhiệt năng ngoại lai trong các dự án kế cận, và sẽ xuất hiện trong thời gian ngắn hơn gấp 10-30 lần.
Với chi phí vượt quá 20 tỷ đô la Mỹ và được tài trợ bởi một liên minh 7 quốc gia cùng các đồng minh khác, ITER là dự án khoa học lớn nhất hành tinh. Mục đích của nó là nhằm thể hiện tính khả thi về khoa học và công nghệ trong việc sử dụng năng lượng hạt nhân cho các mục đích hòa bình như tạo ra điện năng.


Thách thức cho các kỹ sư và các nhà vật lý học là vô cùng lớn. ITER sẽ sở hữu một cường độ từ trường khoảng 5 Tesla (gấp 100.000 lần từ trường Trái đấ”, và bán kính bộ phận khoảng 6m, chứa khoảng 840 thể plasma hình khối cạnh 6m (1/3 chiều dài một bể bơi chuẩn Olympic). Nó nặng ước tính khoản 23 tấn và chứa khoảng 100.000 km sợi siêu dẫn làm từ thiếc niobi. Toàn bộ cỗ máy này sẽ được nhúng chìm vào một thiết bị làm mát nhờ vào helium lỏng để giữ cho các dây siêu dấn ở nhiệt độ chỉ hơn độ 0 tuyệt đối một vài độ.
ITER dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất ra những thể plasma đầu tiên vào năm 2020. Nhưng các thực nghiệm đốt plasma vẫn chưa sẵn sàng khởi động cho đến năm 2027. Một trong những thử thách cực lớn cần vượt qua đó là việc quan sát xem những thể plasma tự lực này có thể được tạo ra và giữ ổn định mà không làm tổn thương các tường bề mặt, (hay các mục tiêu “đánh lạc hướng” dòng nhiệt cực lớn) hay không.
Những gì thu được từ việc xây dựng và vận hành ITER sẽ giúp ích cho việc thiết kế các nhà máy tổng hợp hạt nhân tương lai, với mục đích tối cao là sử dụng công nghệ cho việc tạo ra năng lượng. Tại thời điểm này, có vẻ nhưng các nguyên mẫu của nó sẽ bắt đầu được triển khai xây dựng vào những năm 2030, và sẽ có khả năng tạo ra khoảng 1 gigawatt điện.
Thế hệ các nhà máy tổng hợp hạt nhân đầu tiên sẽ có quy mô lớn hơn nhiều so với ITER, người ta trông chờ rằng việc cải tiến trong giam giữ và kiểm soát từ trường sẽ dẫn tới hiệu quả cao hơn. Như thế, chúng sẽ có chi phí thấp hơn ITER, cũng như triển vọng về tuổi thọ lâu hơn và tác động đến môi trường thấp hơn.
Những thách thức vẫn còn đó, và chi phí giờ luôn ở trên trời. Tất cả những gì chúng ta cần làm là bắt tay vào làm việc để nhanh chóng chấm dứt cơn ác mộng khủng hoảng năng lượng và ô nhiễm môi trường.
Tham khảo: businessinsider



Khoa học sẽ làm sáng tỏ Thuyết tương đối của Albert Einstein

Năm 1915, Albert Einstein công bố Thuyết tương đối tổng quát, trong đó mô tả lực hấp dẫn là một thuộc tính cơ bản của không-thời gian.

Năm 1915, Albert Einstein công bố Thuyết tương đối tổng quát, trong đó mô tả lực hấp dẫn là một thuộc tính cơ bản của không-thời gian. Ông đã đưa ra một tập hợp các phương trình mô tả sự biến dạng của không-thời gian liên quan đến năng lượng và động lượng. Tuy nhiên cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa thể tiến hành những thử nghiệm thực tế của Thuyết tương đối, mà vẫn chỉ nghiên cứu trên lý thuyết.



Một cách nhìn khác về trọng lực
Theo Einstein thì trọng lực không phải chỉ là một lực thông thường, như những gì nhà vật lý Isaac Newton khám phá ra nó. Trọng lực có thể được coi như là một độ cong của không-thời gian do khối lượng của các đối tượng gây ra.
Bạn có thể tưởng tượng đơn giản như Trái đất quay quanh Mặt Trời, thực chất không phải là do lực hấp dẫn của Mặt Trời khiến Trái đất quay quanh nó. Mà là lực hấp dẫn của Mặt Trời quá lớn khiến cho không gian xung quanh nó bị bẻ cong, và trong khi Trái đất quay quanh Mặt Trời thì thực chất nó đang đi thẳng trong một không gian bị uốn cong.



Cách miêu tả không gian trong vũ trụ của Newton và Einstein hoàn toàn khácnhau.
Lý thuyết của Einstein cũng giải thích tính chất của các hố đen vũ trụ, nơi mà có lực hấp dẫn lớn đến mức ánh sáng không thể thoát ra khỏi nó. Cũng theo thuyết tương đối thì lực hấp dẫn cùng làm biến dạng thời gian, nơi có lực hấp dẫn càng lớn thì thời gian trôi qua càng chậm.

Thuyết tương đối của Einstein đã từng được quan sát thấy nhiều lần trong thực tế, Einstein cũng nổi tiếng với việc sử dụng lý thuyết của mình để dự đoán quỹ đạo của một số hành tinh. Ông cũng dự đoán trước hiện tượng một đối tượng mà có khối lượng đủ lớn có thể bẻ cong ánh sáng của chính nó và gây ra một hiệu ứng gọi là thấu kính hấp dẫn.


Ánh sáng có thể bị uốn cong bởi đối tượng có lực hấp dẫn rất lớn, tuy nhiên bản chất là do không gian bị uốn cong chứ không phải lực hấp dẫn làm biến dạng ánh sáng.

Hiện tượng này đã từng được quan sát thấy trong vũ trụ, các nhà thiên văn học cũng dựa trên hiện tượng này để tìm kiếm những hành tinh bên ngoài dải Ngân hà, dựa trên độ lệch của ánh sáng từ một hành tinh nào đó. Độ lệch ánh sáng này chính là do có một hành tinh với khối lượng rất lớn gây ra, nó bẻ cong ánh sáng phát ra từ những hành tinh xung quanh.
Tuy nhiên chúng ta mới chỉ quan sát được các hiện tượng mà có thể giải thích bằng Thuyết tương đối. Trên thực tế các nhà khoa học vẫn chưa thể tiến hành các thử nghiệm thực tế của Thuyết tương đối này.
Thử nghiệm lý thuyết của Einstein
Các nhà khoa học cần một thử nghiệm thực tế mà có thể chứng minh lý thuyết của Einstein là đúng. Họ đã tìm đến một hiện tượng có tiềm năng nhất để tiến hành thử nghiệm, đó là một dạng sóng trong không-thời gian gọi là sóng hấp dẫn. Sóng hấp dẫn được sản sinh ra từ những sự kiện rất lớn trong vũ trụ, như một vụ va chạm của hai đối tượng có khối lượng vô cùng lớn, như hai lỗ đen hoặc hai ngôi sao neutron (những ngôi sao có kích thước không lớn nhưng dày đặc vật chất bên trong khiến cho khối lượng của chúng rất lớn).
Sóng hấp dẫn này có thể làm biến dạng không thời gian tại điểm mà nó đi qua. Giống như hiện tượng sóng biển, bạn có thể tưởng tượng mặt nước biển là không gian trong vũ trụ và sóng hấp dẫn là các đợt sóng biển. Hai điểm trên mặt nước biển có khoảng cách cố định, nhưng khi sóng biển đi qua, nó làm dâng mặt nước biển lên và khiến cho khoảng cách giữa hai điểm đó thay đổi.


Ví dụ nếu như hai hố đen va chạm với nhau trong phạm vi dải Ngân Hà, nó sẽ tạo ra sóng hấp dẫn mà nếu truyền đến Trái đất, có thể khiến khoảng cách 1 m giữa hai đối tượng bị nén lại một khoảng rất nhỏ, chỉ 1/1000 đường kính hạt nhân nguyên tử.
Do đó, các nhà khoa học đã phải chế tạo ra một chiếc máy dò bằng laser để phát hiện sóng hấp dẫn truyền đến Trái đất. Chiếc máy này có tên là LIGO và bắt đầu hoạt động từ năm 2002. Chiếc máy này sử dụng tia laser để phát hiện sự biến dạng không gian dù rất nhỏ, nếu sóng hấp dẫn đi qua Trái đất. Tuy nhiên cho đến nay LIGO vẫn chưa phát hiện được dấu vết nào của sóng hấp dẫn.



Năm 2010, chiếc máy LIGO đã bị ngừng hoạt động để nâng cấp, và một phiên bản hoàn toàn mới sẽ được ra mắt và đưa vào sử dụng trong năm 2015. Chiếc máy mới hứa hẹn sẽ phát hiện được sóng hấp dẫn trong vũ trụ, bằng cách mở rộng tầm rà soát rộng hơn.
Việc chứng minh được Thuyết tương đối có ý nghĩa rất lớn trong ngành vật lý thiên văn và vật lý nói chung, vì đây sẽ là nền móng vững chắc cho vật lý lượng tử sau này. Bên cạnh đó, với những thử nghiệm thực tế, các nhà khoa học có thể sửa đổi và bổ sung những thiếu sót trong lý thuyết của Einstein.
Tham khảo: mashable





-------------------------------------------------------------------------------------------
Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

Geothe

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran