Bài viết này của giáo sư Thomas Kibble . Ông là một chuyên viên nghiên cứu cao cấp và giáo sư danh dự ngành Vật lý lý thuyết. Hướng nghiên cứu chính của ông là lý thuyết trường lượng tử và vũ trụ học, đặc biệt là những nghiên cứu về sự phá vỡ tính đối xứng và hình thành khuyết tật topo.
Ông là đồng chủ tịch của Quỹ khoa học Châu Âu Chương trình COSLAB ( Phòng thí nghiệm Vũ trụ học ) đến năm 2006 .
Các cơ chế Englert-Brout Higgs-Guralnik-Hagen-Kibble cung cấp các phương tiện mà vec-tơ boson chuẩn ( gauge boson vector ) có thể đạt được khối lượng khác 0 trong quá trình phá vỡ đối xứng tự phát. Nó là một yếu tố quan trọng của lý thuyết điện yếu hình thành một phần Mô hình Chuẩn (SM) của vật lí hạt, và nhiều mô hình lý thuyết khác , chẳng hạn như lý thuyết trường thống nhất .
Cộng đồng khoa học Ấn Độ cảm thấy tự hào lẫn tiếc nuối
sau khi các nhà vật lý tại châu Âu và Mỹ công bố những bằng chứng liên
quan tới “hạt của Chúa” hôm qua.
Hạt Higgs được gọi theo tên của Peter Higgs, nhà vật
lý người Anh từng dự đoán về sự tồn tại của nó từ năm 1964. Nhưng rất ít
người biết rằng Higgs boson – thuật ngữ tiếng Anh của hạt Higgs – liên
quan tới Satyendra Nath Bose, một nhà vật lý Ấn Độ đã từ trần, AFP cho biết.
Chào đời tại thành phố Calcutta, Ấn Độ vào năm 1894,
Bose từng giảng dạy tại một số trường đại học ở Calcutta và Dhaka. Vào
năm 1924 ông gửi một tài liệu tới Albert Einstein, cha đẻ của vật lý
hiện đại, để mô tả một mô hình vật lý mà sau này cộng đồng khoa học gọi
là “hiện tượng ngưng tụ Bose-Einstein”. Mô hình này mô tả hiện tượng
chuyển pha của các hạt cùng tồn tại trong một trạng thái lượng tử, khi
nhiệt độ nhỏ hơn nhiệt độ chuyển pha.
Mô hình của Bose đặt nền tảng cho việc mô tả hai loại
hạt hạ nguyên tử là boson (được gọi theo họ của Bose) và fermion (được
gọi theo họ của nhà vật lý Enrico Fermi của Italy). Mọi hạt trong tự
nhiên đều có thể là boson hoặc fermion.
Nhiều nhà khoa học đã nhận giải Nobel do nghiên cứu
những hiện tượng liên quan tới boson, song Viện Hàn lâm Thụy Điển, cơ
quan trao giải Nobek Vật lý và Nobel Hóa học, chưa bao giờ vinh danh
Bose.
Archan Majumdar, nhà vật lý thiên văn thuộc Trung tâm
Khoa học cơ bản Quốc gia Satyendra Nath Bose tại Ấn Độ, nói rằng thế
giới không biết tới Bose do phát minh của ông ra đời khi Ấn Độ vẫn còn
chịu sự cai trị của Anh.
“Nếu hồi đó Ấn Độ là một quốc gia độc lập thì có lẽ
Bose sẽ được thế giới đánh giá cao hơn. Ông ấy cũng xứng đáng nhận giải
Nobel hơn nhiều người khác. Nhưng thật không may, điều đó không xảy ra”,
Majumdar nói.
Giáo sư Stephen Hawking hôm qua tiết lộ việc các nhà
vật lý tìm ra hạt có đặc điểm giống hạt của Chúa khiến ông mất 100 USD
trong một vụ cá cược.
Trong buổi trả lời phỏng vấn của BBC hôm 4/7,
giáo sư Hawking nói rằng phát hiện ra hạt mới có đặc điểm giống hạt
Higgs là một thành tựu quan trọng và Peter Higgs, người đã đề xướng giả
thuyết về sự tồn tại của hạt Higgs trong thập niên 60 của thế kỷ trước,
xứng đáng nhận giải Nobel.
“Điều đáng tiếc là những đột phá vĩ đại trong vật lý
thường tới từ những kết quả thử nghiệm mà chúng ta không mong đợi. Vì lý
do đó mà tôi đã cá cược 100 USD với giáo sư vật lý Gordon Kane của Đại
học Michigan rằng con người sẽ không bao giờ tìm thấy hạt Higgs. Có vẻ
như tôi vừa mất 100 USD”, Hawking kể.
Sau quá trình săn lùng hạt Higgs, thường được gọi là
"hạt của Chúa", trong gần 5 thập kỷ, hôm qua các nhà vật lý của Tổ chức
Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu (CERN) và Phòng thí nghiệm Máy gia tốc Quốc
gia Fermi (Fermilab) tại Mỹ thông báo họ tìm thấy một loại hạt hạ
nguyên tử mới có những đặc tính giống hạt Higgs. Bằng chứng về hạt Higgs
lộ diện sau khi họ thực hiện tới 500 nghìn tỷ vụ va chạm giữa các luồng
hạt cơ bản trong máy gia tốc hạt lớn (LHC) của CERN.
Hawking nói rằng phát hiện về hạt mới có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. “Nếu quá trình phân rã và các phản ứng khác của loại
hạt này diễn ra theo đúng giả thuyết về hạt Higgs, nó sẽ là một bằng
chứng đáng tin cậy đối với Mô hình chuẩn của vật lý hạt – giả thuyết mà
con người sử dụng để giải thích mọi thí nghiệm vật lý”, vị giáo sư giải
thích.
Song hai nhóm săn lùng hạt Higgs của CERN và Fermilab
tỏ ra cực kỳ thận trọng với phát hiện của họ. Thái độ thận trọng thể
hiện ở việc họ không sử dụng từ “phát hiện” khi công bố bằng chứng về sự
tồn tại của hạt mới. Họ chỉ nói phát hiện đó đang đưa họ tới gần hạt
Higgs hơn bao giờ hết.
“Tôi nghĩ mọi nhà vật lý không tham gia vào quá trình
săn lùng hạt Higgs sẽ nói bằng chứng về hạt giống như một phát hiện.
Chúng tôi đã tìm ra một thứ có đặc điểm giống hạt Higgs”, John Ellis,
giáo sư vật lý người Anh làm việc cho CERN từ thập niên 70, phát biểu.
Stephen Hawking được coi là ông hoàng vật lý lý thuyết
của thế giới trong suốt nhiều thập kỷ qua với những công trình nghiên
cứu nổi tiếng về hố đen trong vũ trụ. Nhà vật lý 70 tuổi từng giữ vị trí
giáo sư toán Lucasian tại Đại học Cambridge, Anh - chức danh mà Newton
từng đảm nhiệm, trước khi nghỉ hưu năm ngoái.
Các chính phủ trên khắp thế giới đổ hàng chục tỷ USD
cho nỗ lực tìm kiếm hạt Higgs trong thập kỷ qua bởi nó có thể làm sáng
tỏ nhiều hiện tượng mà con người chưa thể giải thích. > Hạt của Chúa có thể sắp được công bố
Hàng tỷ USD đã được đổ vào các thử nghiệm trong máy gia tốc hạt lớn của CERN tại châu Âu.
Vào một ngày đẹp trời, bạn bước lên bàn cân để kiểm
tra khối lượng cơ thể. Kim của bàn cân nhích tới số 60. Con số đó chính
là lực hấp dẫn mà trái đất tác động lên cơ thể bạn. Lúc ấy, rất có thể
bạn sẽ đặt câu hỏi: Tại sao mọi sự vật có khối lượng nhưng ánh sáng
không có? Cái gì khiến cơ thể bạn có khối lượng?
AP cho biết, trong nhiều năm qua, giới khoa
học dựa vào giả thuyết về một loại hạt để giải thích khối lượng của mọi
vật trong vũ trụ. Đó là hạt Higgs. Leon Lederman, một nhà nghiên cứu
từng đoạt giải Nobel Vật lý, gọi hạt Higgs là "hạt của Chúa". Ngày nay
"hạt của Chúa" là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến.
Peter Higgs, một nhà vật lý người Anh, là người đầu
tiên đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của hạt Higgs trong thập niên 60
của thế kỷ trước. Nó là mảnh ghép còn thiếu trong Mô hình chuẩn – một
trong những giả thuyết vật lý được chấp nhận rộng rãi nhất trong việc
giải thích mọi hiện tượng trong vũ trụ. Tuy là lý thuyết thành công, Mô
hình chuẩn không giải thích được hiện tượng một số loại hạt (như photon)
không có khối lượng, trong khi các loại hạt khác có khối lượng với mức
độ không giống nhau. Nếu mọi hạt không có khối lượng, chúng sẽ di chuyển
trong vũ trụ với tốc độ của ánh sáng và không thể liên kết với nhau để
tạo nên khí, nước, hành tinh, ngôi sao và các dạng vật chất khác.
Giới khoa học tin vào sự tồn tại của hạt Higgs trong
hơn 4 thập kỷ qua, song họ chưa bao giờ tìm thấy bằng chứng thực nghiệm
về nó. Để tìm ra bằng chứng, người ta phải đập vỡ các hạt cơ bản (như
proton) rồi tìm kiếm hạt Higgs trong đống mảnh vỡ ấy. Các hạt cơ bản chỉ
vỡ nếu chúng va vào nhau với vận tốc cực lớn. Chỉ những cỗ máy gia tốc
khổng lồ mới có khả năng tạo ra lượng năng lượng đủ lớn để gây va chạm
mạnh giữa các hạt. Tổ chức Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu (CERN) và Phòng
thí nghiệm Máy gia tốc Quốc gia Fermi (Fermilab) tại Mỹ đã tạo ra những
cỗ máy như vậy. Nhưng hạt Higgs chỉ tồn tại trong thời gian cực ngắn. Vì
thế, để chứng minh sự tồn tại của chúng, các nhà vật lý chỉ có thể dựa
vào những dấu vết mà chúng để lại sau mỗi vụ va chạm giữa các hạt cơ
bản. Các nhà vật lý của CERN và Fermilab đã thực hiện hàng nghìn tỷ vụ
va chạm giữa các hạt để thu thập dữ liệu trong hơn 10 năm qua.
Để tìm ra hạt Higgs, các nhà khoa học phải đập vỡ các hạt cơ bản bằng cách cho chúng lao vào nhau với tốc độ cực lớn
Nếu các nhà vật lý chứng minh được sự tồn tại của hạt
Higgs, họ cũng sẽ đập tan những luận điệu hoài nghi về sự tồn tại của
vật chất tối - thứ có thể chiếm tới 3/4 thành phần vũ trụ. Nhưng hạt
Higgs không chỉ có ý nghĩa đối với vũ trụ xa xôi, mà còn mang đến nhiều
lợi ích cho cuộc sống trên địa cầu.
"Với hạt Higgs, loài người sẽ có thêm một nguồn năng
lượng mới và dồi dào. Ngoài ra hạt Higgs còn có thể giúp con người tạo
nên những thành tựu công nghệ đột phá trong giao thông và viễn thông",
Michio Kaku, một nhà vật lý của Đại học City tại Mỹ, phát biểu.
Hôm qua giới truyền thông đưa tin CERN đã mời Peter
Higgs và 4 nhà vật lý hàng đầu thế giới tham dự một cuộc họp của họ tại
thành phố Geneva, Thụy Sĩ. Động thái này khiến giới quan sát hy vọng
CERN sẽ công bố bằng chứng xác thực về sự tồn tại của hạt Higgs.
Các nhà vật lý hạt luôn giữ thái độ vô cùng cẩn trọng
đối với mọi phát hiện, mặc dù họ khẳng định xác suất nhầm lẫn về mặt số
liệu chỉ là 1/1,7 triệu. Do quá trình tìm kiếm hạt Higgs diễn ra ở cả Mỹ
và châu Âu nên xác suất này giảm xuống còn 1/16.000. Tuy nhiên, cách
thức kết hợp dữ liệu của hai nhóm nghiên cứu đang là vấn đề mà dư luận
quan tâm.
"Kết hợp dữ liệu từ hai thử nghiệm về hạt là công việc
phức tạp. Đó là nguyên nhân khiến nó tiêu tốn nhiều thời gian và cũng
là lý do khiến chúng tôi không công bố kết quả kết hợp dữ liệu của CERN
và Fermilab hôm 4/7", James Gillies, người phát ngôn của CERN, tuyên bố.
Tổ chức Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu (CERN) hôm nay
tuyên bố các nhà khoa học đã tìm thấy loại hạt mới có đặc tính giống hạt
Higgs, thứ tạo ra khối lượng cho vật chất trong vũ trụ. > Vì sao con người truy lùng "hạt của Chúa"?
Hình minh họa hạt Higgs phân rã và tạo ra hai tia gamma trong máy gia tốc hạt lớn. Ảnh: MSNBC.
Trong hai hội nghị của các nhà vật lý diễn ra tại
London và Geneva hôm nay, CERN tuyên bố các nhà vật lý của họ đã phát
hiện một loại hạt mới trong hai thử nghiệm gần đây trong máy gia tốc hạt
lớn, BBC đưa tin.
"Tôi xác nhận một loại hạt nguyên tử với các đặc tính
giống giả thuyết về hạt Higgs đã được phát hiện", ông John Womsersley,
giám đốc điều hành Hội đồng Khoa học và Công nghệ Anh, phát biểu trong
hội nghị tại London.
Nhóm nghiên cứu của CERN khẳng định xác suất nhầm lẫn trong kết quả của họ chỉ là 1/2 triệu.
"Đây mới chỉ là kết quả ban đầu, song mức độ đáng tin
cậy của nó rất cao. Chúng tôi nghĩ hạt mà chúng tôi tìm thấy là loại hạt
mà con người chưa từng biết", Joe Incandela, người phát ngôn của các
nhà vật lý thuộc CERN, nói trước khán giả trong hội nghị tại Geneva.
Khối lượng của loại hạt mới lớn hơn 133 lần so với hạt proton trong nguyên tử.
Giới phân tích nhận định các nhà vật lý sẽ phải làm
nhiều việc để chứng minh hạt mới chính là hạt Higgs - mảnh ghép còn
thiếu trong Mô hình chuẩn.
Tuy là một trong những giả thuyết vật lý được chấp
nhận rộng rãi nhất trong việc giải thích mọi hiện tượng trong vũ trụ, Mô
hình chuẩn không giải thích được hiện tượng một số loại hạt (như
photon) không có khối lượng, trong khi các loại hạt khác có khối lượng
với mức độ không giống nhau. Nếu mọi hạt không có khối lượng, chúng sẽ
di chuyển trong vũ trụ với tốc độ của ánh sáng và không thể liên kết với
nhau để tạo nên khí, nước, hành tinh, ngôi sao và các dạng vật chất
khác.
Peter Higgs, một nhà vật lý người Anh, là người đầu
tiên đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của hạt Higgs trong thập niên 60
của thế kỷ trước. Từ đó tới nay các chính phủ đã đầu tư hàng tỷ USD cho
nỗ lực tìm kiếm hạt Higgs. Nếu giới vật lý có thể chứng minh sự tồn tại
của hạt Higgs thì phát hiện này sẽ là một trong những thành tựu khoa học
vĩ đại nhất trong vòng 100 năm.
Hình minh họa quá trình va chạm giữa hai luồng hạt
trong máy gia tốc hạt lớn. Các nhà khoa học hy vọng tìm thấy hạt Higgs
nhờ sự va chạm giữa các luồng hạt.
Phòng thí nghiệm Máy gia tốc Quốc gia Fermi (Fermilab)
tại Mỹ thông báo rằng họ đã tìm ra những bằng chứng cuối cùng về sự tồn
tại của hạt Higgs, thường được gọi là "hạt của Chúa", sau khi phân tích
dữ liệu từ hàng nghìn tỷ vụ va chạm hạt trong Tevatron - một máy gia
tốc hạt có công suất lớn của Fermilab, BBC đưa tin.
Các nhà vật lý của CERN cũng đang sử dụng máy gia tốc
hạt lớn - cỗ máy đồ sộ và phức tạp nhất hành tinh - để tìm kiếm hạt
Higgs. Vì thế ban lãnh đạo của CERN muốn các nhà vật lý của họ thảo luận
với các đồng nghiệp từ Fermilab để thống nhất mức độ đáng tin cậy trong
dữ liệu của hai bên. Một số nhà vật lý tin rằng mức độ chính xác trong
dữ liệu của Fermilab lên tới 99.99995%.
"Dữ liệu mà chúng tôi thu thập được cho thấy sự tồn
tại của hạt Higgs, song chúng tôi cần kết quả từ các thực nghiệm trong
Máy gia tốc hạt lớn tại châu Âu để kiểm chứng dữ liệu", Rob Roser, người
phát ngôn của Fermilab, phát biểu.
Stefan Soldner-Rembold, giáo sư vật lý hạt của Đại học
Manchester tại Anh, cho rằng bằng chứng về sự tồn tại của hạt Higgs đã
đủ lớn.
"Mọi thứ chỉ ra rằng hạt Higgs hiện diện trong vũ trụ", ông nói.
Peter Higgs, giáo sư vật lý danh dự của Đại học
Edinburgh tại Anh và là người đề ra học thuyết về "hạt của Chúa", cùng 4
nhà vật lý lỗi lạc khác được CERN mời tới một sự kiện vào ngày 4/7, Sunday Times cho hay.
Nhà vật lý Tom Kibble, giáo sư danh dự của Đại học Thực nghiệm London, cũng được mời, song ông không thể tham dự.
"Chắc CERN sắp công bố thông tin tích cực nào đó nên họ cần sự hiện diện của chúng tôi", Kibble dự đoán.
Nếu giới vật lý có thể chứng minh sự tồn tại của hạt
Higgs - mảnh ghép cuối cùng trong mô hình chuẩn của vật lý hạt - thì
phát hiện này sẽ là một trong những thành tựu khoa học vĩ đại nhất trong
vòng 100 năm.
Giới khoa học tin rằng hạt Higgs giúp mọi loại hạt
khác có khối lượng. Nếu các hạt không có khối lượng, chúng sẽ bay trong
vũ trụ với vận tốc tương đương ánh sáng và không thể liên kết với nhau
để tạo nên hành tinh, ngôi sao, thiên hà và các dạng vật chất khác.
Mặc dù vậy, từ trước tới nay con người chưa bao giờ phát hiện hạt Higgs bằng thực nghiệm.
Physicists on Wednesday said they had found a new sub-atomic particle consistent with the Higgs boson, which is believed to confer mass.
The particle is "consistent with (the) long-sought Higgs boson," CERN said in a statement, adding that further data was needed to identify the find.
Scientists have wrestled with the elusive particle for nearly half a century.
"We have reached a milestone in our understanding of nature," said CERN Director General Rolf Heuer.
"The discovery of a particle consistent with the Higgs boson opens the way to more detailed studies, requiring larger statistics, which will pin down the new particle's properties, and is likely to shed light on other mysteries of our Universe."
Finding the Higgs would validate the Standard Model, a theory which identifies the building blocks for matter and the particles that convey fundamental forces.
It is a hugely successful theory but has several gaps, the biggest of which is why some particles have mass and others do not.
Mooted by British physicist Peter Higgs in 1964, the boson is believed to exist in a treacly, invisible, ubiquitous field created by the Big Bang some 13.7 billion years ago.
When some particles encounter the Higgs, they slow down and acquire mass, according to theory. Others, such as particles of light, encounter no obstacle.
This graphic shows traces of colliding particles measured with the Compact Muon Solenoid experiment at the European Organization for Nuclear Research (CERN). A nearly 50-year bid to explain a riddle of fundamental matter faces a key moment on Wednesday when physicists unveil fresh data in their search for a particle called the Higgs boson. (AFP Photo/Fabrice Coffrini)
Image provided by the European Organization for Nuclear Research (CERN) shows a large dipole magnet being installed into the Large Hadron Collider (LHC) in Geneva in 2007. Smashups generated at the LHC briefly generate temperatures 100,000 times hotter than the Sun. (AFP Photo/Cern)
Các nhà vật lý hôm thứ Tư cho biết họ đã tìm thấy một hạt hạ nguyên tử mới phù hợp với boson Higgs, là hạt được cho là chuyển giao khối lượng . Hạt này "phù hợp với boson Higgs đã được truy tìm từ rất lâu ," CERN cho biết trong một tuyên bố, đồng thời bổ sung thêm rằng những dữ liệu là cần thiết để xác định việc tìm thấy boson này .
Gần nửa thế kỷ qua , các nhà khoa học đã lao vào việc truy tìm các hạt khó xác định này . Tổng giám đốc CERN Rolf Heuer cho biết , "Chúng tôi đã đạt đến một mốc quan trọng trong sự hiểu biết của chúng ta về tự nhiên " . "Việc phát hiện ra một hạt phù hợp với các boson Higgs sẽ mở ra con đường để nghiên cứu chi tiết hơn, đòi hỏi phải lớn hơn số liệu thống kê, sẽ xác định tính chất các hạt mới, và có khả năng làm sáng tỏ bí ẩn khác của vũ trụ của chúng ta."
Việc tìm thấy hạt Higgs sẽ xác nhận Mô hình Chuẩn, một lý thuyết trong đó xác định được các khối vật chất và các hạt truyền lực cơ bản. Nó là một lý thuyết cực kỳ thành công nhưng có vài khiếm khuyết , điểm lớn nhất trong số đó là lý do tại sao một số hạt có khối lượng và những hạt khác thì không.
Được thảo luận bởi nhà vật lý người Anh Peter Higgs trong năm 1964, boson được cho là tồn tại trong một trường vô hình trù mật phổ biến, được tạo ra bởi vụ nổ Big Bang cách đây 13,7 tỷ năm. Theo lý thuyết khi một số hạt gặp Higgs, chúng trôi chậm lại và đạt được khối lượng . Những hạt khác, chẳng hạn như các hạt ánh sáng, lại không gặp những cản trở đó. Hình chụp này cho thấy dấu vếtđồ họacủacác hạtva chạmđược đobằng cácthínghiệmCompact MuonSolenoidtại Tổ chứcNghiên cứu Hạt nhânchâuÂu(CERN). Công trình này mất 50nămđểgiải thích mộtbí ẩncủa vật chấtcơbảnphảiđốimặtvớimộtthời điểm then chốthôm thứ Tưkhicác nhà vật lýcôngbốdữ liệu mớitrongtìm kiếm của họchomột hạtgọi làboson Higgs. (AFPPhoto /FabriceCoffrini)
Hình ảnh được cung cấp bởiTổchứcNghiên cứu Hạt nhânchâuÂu(CERN) chothấymột nam châmlưỡng cựcđược cài đặtvàoLarge HadronCollider(LHC) tại Genevatrong năm 2007. Smashupstạo raởLHCmột thời gian ngắntạo ra nhiệt độnóng hơn100.000 lầnMặt Trời.(AFPPhoto/Cern)
Dịch , tổng hợp biên soạn và tham khảo tài liệu từ các nguồn
1. Wikipedia .
2. The Encyclopedia of Science .
3. CERN .
4. ATLAS Experiments .
5. Compact Muon Solenoid CMS .
6. Scholarpedia .
1. HIGGS boson . Vài nét sơ lược về boson Higgs .
Trong Mô hình Chuẩn (Standard Model ) của vật lý hạt, boson Higgs là một hạt cơ bản cung cấp cho khối lượng các hạt cơ bản khác chẳng hạn như các hạt quark và electron thông qua cơ chế Higgs. Nó thuộc về một lớp của các hạt gọi là boson, đặc trưng bởi một giá trị số nguyên của số lượng tử spin của chúng. Các trường Higgs là một trường lượng tử có một giá trị khác không trong trạng thái cơ bản của nó. Boson Higgs là lượng tử của trường Higgs, cũng giống như photon là lượng tử của trường điện từ. Boson Higgs có một khối lượng lớn, đó là lý do tại sao một máy gia tốc năng lượng cao là cần thiết để quan sát nó. Hạt được đặt theo tên nhà vật lý người Anh Peter Higgs. Boson tên có nguồn gốc từ họ của Satyendra Nath Bose, một nhà vật lý và toán học Ấn Độ đã từng làm việc với Albert Einstein. [3] [4]
**************************************************************
Sự tồn tại của boson Higgs được dự đoán bởi mô hình chuẩn dùng để giải thích cơ chế tự phát phá vỡ đối xứng điện yếu (cơ chế Higgs) diễn ra trong tự nhiên, điều này cũng giải thích tại sao các hạt cơ bản khác có khối lượng. [2] Việc phát hiện có tính dự kiến của boson Higgs có thể xác nhận tính hợp lệ của Mô hình Chuẩn này như một sự chính xác một cách cơ bản , vì nó là các hạt cơ bản cuối cùng được dự đoán bằng cách quan sát Mô hình Chuẩn đang được chờ đợi trong các thí nghiệm vật lý hạt [5]. Mô hình Chuẩn hoàn toàn sửa chữa được các tính chất của boson Higgs, ngoại trừ khối lượng của nó. Các nhà vật lý dự kiến boson Higgs sẽ không có spin và không có điện hoặc màu sắc, và nó tương tác với các hạt khác thông qua sự tương tác yếu và các tương tác Yukawa giữa các fermion khác nhau và trường Higgs. Nguồn thay thế của cơ chế Higgs mà không cần đến các boson Higgs cũng có thể và sẽ được xem xét nếu sự tồn tại của boson Higgs đã được loại trừ. Chúng được gọi là mô hình phi Higgs .
Trong tháng 12 năm 2011, hai thí nghiệm tại LHC (ATLAS và CMS) cả hai báo cáo độc lập dữ liệu của họ gợi ý đến một khả năng hạt Higgs có thể tồn tại với khối lượng khoảng 125 GeV/c2 (khoảng 133 khối lượng proton, thứ tự của 10 ^(- 25) kg), với khối lượng bên ngoài phạm vi 115-130 GeV/c2 rất có khả năng được loại trừ. [8] [9] [10] [11] [12]
Ngày 04 tháng bảy 2012, CERN đã khẳng định mức dấu liệu "năm sigma" là cần thiết để đưa ra một phát hiện chính thức về một hạt là "phù hợp với các boson Higgs", CERN thừa nhận rằng công trình tiếp tục sẽ rất cần thiết để kết luận rằng thực sự là có boson Higgs hay không , rằng có sự dự đoán về định tính lý thuyết của boson Higgs, và nói một cách chính xác thì phiên bản nào của Mô hình Chuẩn sẽ hỗ trợ tốt nhất nếu các công trình này được xác nhận [2] [13] [14] [15] [16]
^Griffiths, David (2008). "12.1 The Higgs Boson". Introduction to Elementary Particles (Second, Revised ed.). Wiley-VCH. p. 403. ISBN978-3-527-40601-2. "The Higgs particle is the only element in the Standard Model for which there is as yet no compelling experimental evidence."
^A. Salam (1968). N. Svartholm. ed. Elementary Particle Physics: Relativistic Groups and Analyticity. Eighth Nobel Symposium. Stockholm: Almquvist and Wiksell. pp. 367.
^Guralnik
(11 October 2011). "Guralnik, G.S. The Beginnings of Spontaneous
Symmetry Breaking in Particle Physics. Proceedings of the DPF-2011
Conference, Providence, RI, 8–13 August 2011". arXiv:1110.2253v1 [physics.hist-ph].
^ abThe
CDF & D0 Collaborations (27 July 2011). "Combined CDF and D0 Upper
Limits on Standard Model Higgs Boson Production with up to 8.6 fb-1 of
Data". arXiv:1107.5518 [hep-ex].
^LHC: Higgs boson 'may have been glimpsed' – BBC News, 13 December 2011 – "two experiments at the LHC see hints of the Higgs at the same mass, fuelling huge excitement" ... "the
simple fact that both Atlas and CMS seem to be seeing a data spike at
the same mass has been enough to cause enormous excitement in the
particle physics community."
^CERN press release #25.11, 13 December 2011 – "the
statistical significance is not large enough to say anything
conclusive. As of today what we see is consistent either with a
background fluctuation or with the presence of the boson. Refined
analyses and additional data delivered in 2012 by this magnificent
machine will definitely give an answer"
^ abATLAS
Collaboration (2 July 2012). "Combined search for the Standard Model
Higgs boson in pp collisions at sqrt(s) = 7 TeV with the ATLAS
detector". arXiv:1207.0319 [hep-ex].
^ abThe
CDF & D0 Collaborations (2 July 2012). "Updated Combination of CDF
and D0 Searches for Standard Model Higgs Boson Production with up to
10.0 fb-1 of Data". arXiv:1207.0449 [hep-ex].
^ATLAS
Collaboration; Abbott, B.; Abdallah, J.; Abdel Khalek, S.; Abdelalim,
A.A.; Abdesselam, A.; Abdinov, O.; Abi, B. et al. (2012). "Combined
search for the Standard Model Higgs boson using up to 4.9 fb-1 of pp
collision data at s=7 TeV with the ATLAS detector at the LHC". Physics Letters B710 (1): 49–66. arXiv:1202.1408. DOI:10.1016/j.physletb.2012.02.044.
^CMS
Collaboration; Khachatryan, V.; Sirunyan, A.M.; Tumasyan, A.; Adam, W.;
Bergauer, T.; Dragicevic, M.; Erö, J. et al. (2012). "Combined results
of searches for the standard model Higgs boson in pp collisions at s=7
TeV". Physics Letters B710 (1): 26–48. arXiv:1202.1488. DOI:10.1016/j.physletb.2012.02.064.
2. Tính chất lý thuyết - Cơ chế Higgs Tóm tắt sự tương tác giữa các hạt được mô tả bởi mô hình tiêu chuẩn SM .
2.1 Mô hình Chuẩn dự đoán sự tồn tại của một trường , được gọi là trường Higgs, trong đó có một biên độ khác-không (non-zero amplitude) ở trạng thái cơ bản của nó, tức là một giá trị kỳ vọng chân -không khác-không (non-zero vacuum expectation value). Sự tồn tại của giá trị kỳ vọng chân không khác-không này một cách tự nhiên phá vỡ tính đối xứng chuẩn điện yếu mà nó lần lượt cung cấp cho việc phát sinh cơ chế Higgs. Nó là quá trình đơn giản có khả năng chuyển khối lượng đến các boson trong khi vẫn tương thích với lý thuyết gauge. Trường này có thể được hình dung như là một bể chứa mật đường "cản trở" các hạt cơ bản không có khối lượng đi qua trường này, chuyển đổi chúng thành các hạt có khối lượng mà cấu tạo nên các thành phần của các nguyên tử. Lượng tử của nó sẽ là một boson vô hướng, được gọi là boson Higgs.
Tổng quan về tương tác giữa các hạt theo Mô hình Chuẩn (SM)
2.2 Trong Mô hình Chuẩn, các trường Higgs bao gồm hai trường trung hòa và hai trường tích điện thành phần . Cả hai trường tích điện và một trong hai trường trung hòa là những boson Goldstone , hoạt động như các thành phần phân cực theo chiều dọc thứ ba của các boson lớn W +, W-, và Z . Các lượng tử của các thành phần trung hòa còn lại tương ứng với (và về mặt lý thuyết được thực hiện như) boson Higgs lớn , vì trường Higgs là một trường vô hướng, các boson Higgs không có spin . Boson Higgs là phản hạt riêng của mình và là CP-chẵn , không tích điện và màu sắc.
Mô hình Chuẩn không dự đoán khối lượng của boson Higgs. Nếu khối lượng đó là từ 115 đến 180 GeV/c^2, thì Mô hình Chuẩn có thể đạt giá trị ở mức năng lượng theo tất cả các mức lên đến 1016 TeV (thang Planck ) .
2.3 Nhiều nhà lý thuyết hy vọng ngành vật lý mới có thể vượt xa khỏi Mô hình Chuẩn để nêu bật được mức năng lượng TeV , dựa trên những tính chất không thỏa mãn của Mô hình Chuẩn. Mức khối -lượng -cao -nhất -có -thể cho phép các xuất hiện boson Higgs (hay một số cơ chế phá vỡ đối xứng điện yếu khác ) là 1,4 TeV ; vượt quá điểm này, Mô hình Chuẩn trở nên không phù hợp và không có cơ chế như vậy, vì tính đơn nhất bị vi phạm trong quá trình tán xạ .
Sự phân rã boson Higgs ( theo ATLAS)
Về lý thuyết, khối lượng của boson Higgs có thể được ước tính một cách gián tiếp. Trong Mô hình Chuẩn, các boson Higgs có một số ảnh hưởng gián tiếp ; đáng chú ý nhất, các vòng lặp Higgs dẫn đến các điều chỉnh nhỏ về khối lượng của boson W và Z.
Phép đo chính xác các thông số điện yếu, chẳng hạn như hằng số Fermi và khối lượng của boson W / Z, có thể được sử dụng để ràng buộc khối lượng của hạt Higgs. Tính đến tháng 7 năm 2011, các phép đo điện yếu chính xác cho chúng ta biết rằng khối lượng của boson Higgs là thấp hơn khoảng 161 GeV/c^2 với độ tin cậy 95% (CL). Cận trên này tăng đến 185 GeV/c^2 khi bao gồm cả cận dưới LEP-2 trực tiếp là 114,4 GeV/c^2.
Những hạn chế gián tiếp này dựa trên giả định rằng Mô hình Chuẩn là chính xác. Tuy nhiên vẫn có thể khám phá ra một boson Higgs ở trên mức 185 GeV/c^2 nếu nó được đi kèm với các hạt khác ngoài những dự đoán của Mô hình Chuẩn.
2.4 Mô hình Chuẩn tối thiểu như mô tả ở trên chỉ có thể chứa một bộ đôi phức tạp isospin Higgs (đẳng spin), tuy nhiên cũng có thể có một bộ phận Higgs mở rộng với bộ đôi hoặc bộ ba bổ sung .
Bộ phận phi tối thiểu Higgs được các nhà vật lý hạt ưa chuộng bởi lý thuyết là các mô hình bộ đôi Higgs-kép (two-Higgs-doublet models : 2HDM), trong đó dự đoán sự tồn tại của một bộ năm của các hạt vô hướng: hai CP-chẵn trung hòa boson Higgs h0 và H0, một CP-lẻ trung hòa boson Higgs A0, và hai hạt Higgs tích điện H ±.
Phương pháp cơ bản để phân biệt các biến thể khác nhau của các mô hình 2HDM và SM -tối- thiểu liên quan đến liên kết của chúng và tỷ lệ phân nhánh của sự phân rã hạt Higgs. Cái gọi là mô hình loại I gồm có một bộ đôi Higgs nối với 2 quark ( up-quark , down-quark) , trong khi bộ đôi thứ hai thì không nối với các quark. Mô hình này có hai giới hạn thú vị, trong đó boson Higgs nhẹ nhất không có liên kết với fermion (fermio-phobic) hoặc boson gauge (gauge-phobic). Trong 2HDM Type-II, một bộ đôi Higgs chỉ liên kết với các loại hạt up-quark , trong khi các bộ đôi Higgs khác chỉ liên kết với loại hạt down-quark .
Nhiều phần mở rộng Mô hình Chuẩn, bao gồm siêu đối xứng (supersymmetry : SUSY ), thường chứa một phần mở rộng của Higgs. Nhiều mô hình siêu đối xứng tiên đoán rằng boson Higgs nhẹ nhất sẽ có khối lượng chỉ hơi trên mức giới hạn thực nghiệm hiện tại một chút , khoảng 120 GeV/c^2 hoặc ít hơn. Rất nhiều nghiên cứu về mô hình tiêu chuẩn tối thiểu siêu đối xứng (Minimal Supersymmetric Standard Model : MSSM) thuộc về các lớp mô hình với bộ phận Type-II hai bộ đôi Higgs , và có thể được loại ra bằng cách quan sát một boson Higgs thuộc lớp 2HDM Type-I.
Sơ đồFeynmanhiển thị haicáchHiggsbosoncó thểđược tạo ra tạiLHC. Bên trái: haigluonchuyển đổivề top/các cặp anti-topquarks. Bên phải:haiquark2 phát raW, Zboson.
3. Cơ chế thay thế cho sự phá vỡ đối xứng điện yếu - Mô hình phi Higgs (Higgsless)
Trong những năm kể từ khi trường Higgs và boson đã được đưa ra , một số mô hình thay thế đã được đề xuất để từ đó cơ chế Higgs có thể được nhận ra. Boson Higgs tồn tại trong một số mô hình , nhưng không phải là tất cả xét về mặt lý thuyết. Ví dụ, nó tồn tại trong Mô hình Chuẩn (SM) và phần mở rộng như mô hình siêu đối xứng chuẩn tối thiểu (MSSM : Minimal Supersymmetric Standard Model ) nhưng nó không được dự kiến rằng sẽ tồn tại trong các mô hình thay thế như mô hình đa sắcTechnicolor. Mô hình không chứa trường Higgs hoặc boson Higgs được gọi là mô hình phi Higgs ( Higgsless ) .
Trong các mô hình này , tương tác động lực mạnh hơn là trường bổ sung ( trường Higgs) sinh ra giá trị kỳ vọng chân không khác 0 mà nó phá vỡ tính đối xứng điện yếu. Một phần danh sách các cơ chế thay thế này gồm :
3.1 Đa sắc (Technicolor ) , [29] một lớp các mô hình thử nghiệm giả các tính chất động lực của lực mạnh như là một cách phá vỡ đối xứng điện yếu.
3.2 Mô hình Higgsless nhiều chiều nơi vai trò của trường Higgs được mô tả bởi các thành phần thứ năm của trường gauge [30].
3.3 Mô hình Abbott-Farhi tổng hợp vector boson W và Z [31].
3.4 Lý thuyết top-quark ngưng tụ , trong đó một trường vô hướng cơ bản Higgs được thay thế bằng một trường tổng hợp bao gồm các top-quark và antiquark của nó.
3.5 Mô hình thắt về các hạt theo Mô hình Chuẩn do Sundance Bilson-Thompson đề xuất , tương thích với lực hấp dẫn lượng tử vòng và các lý thuyết tương tự. [32]
Mục tiêu của thí nghiệm LHC và Tevatron là để phân biệt giữa các mô hình này và xác định xem liệu boson Higgs có tồn tại hay không.
4. Tìm kiếm thử nghiệm .
Phần tài liệu này là một sự kiện hiện tại. Thông tin có thể thay đổi nhanh chóng khi sự kiện tiến triển. (Tháng 7 năm 2012)
Giống như các hạt có khối lượng khác (ví dụ như quark, W và Z boson), boson Higgs tạo ra trong các máy gia tốc hạt phân rã từ lâu trước khi chúng đến được các máy dò. Tuy nhiên, mô hình tiêu chuẩn dự báo chính xác các phương thức có thể phân rã và xác suất của chúng . Điều này cho phép tạo ra một boson Higgs được hiển thị bằng cách kiểm tra cẩn thận các sản phẩm phân hủy của các va chạm . Do đó, tìm kiếm thử nghiệm bắt đầu vào những năm 1980 với sự hoạt động của các máy gia tốc hạt đủ mạnh để cung cấp bằng chứng liên quan đến boson Higgs.
Tình hình nghiên cứu boson Higgs vàotháng 3 năm 2011. Phầnmàuđãđượcloại racáckhoảng tin cậyđã nêubằng cáchđogián tiếpvàcácthí nghiệmLEP(màu xanh)hoặcbởi các thí nghiệmTevatron(màu cam).
4.1 Trước năm 2000, các dữ liệu thu thập được tại Máy Va chạm Electron-Positron (Large Electron–Positron Collider : LEP) tại CERN đã cho phép một thí nghiệm cấp thấp được thiết lập cho khối lượng của hạt Higgs boson ở Mô hình Chuẩn (SM : Standard Model) 114,4 GeV/c^2 với độ tin cậy 95% (confidence level : CL). Thí nghiệm tương tự cũng đã tạo ra một số các sự kiện có thể được hiểu là kết quả từ boson Higgs với một khối lượng chỉ ở khoảng 115 GeV - nhưng số lượng các sự kiện này là không đủ để rút ra kết luận xác định về boson Higgs [32]. LEP là đóng cửa vào năm 2000 để xây dựng Máy va chạm Hadron (Large Hadron Collider : LHC).
4.2 Những hoạt động đầy đủ tại LHC đã bị trì hoãn 14 tháng sau thử nghiệm thành công ban đầu của nó vào ngày 10 tháng chín năm 2008, cho đến giữa tháng 11 năm 2009, [33] [34] sau sự kiện một nam châm bị chập chín ngày từ khi được kiểm tra chức năng gây ra hư hỏng trên 50 nam châm siêu dẫn khác và tạo ra ô nhiễm các hệ thống chân không [35] Sự kiện bị chập này do một kết nối điện bị lỗi và phải sửa chữa mất vài tháng. [36] [37] các phát hiện lỗi về hệ thống điện và chập các hệ thống đã được xử lý nhanh chóng cũng đã được nâng cấp sau đó .
D0được xây dựng,lắp đặthệ thống theo dõitrungtâm
Phòng điều khiển D0
4.3 Ở trung tâm Tevatron Fermilab, cũng đã có các thí nghiệm liên tục tìm kiếm boson Higgs. Tháng 7 năm 2010, dữ liệu kết hợp từ CDF và làm thí nghiệm D0 tại Tevatron đủ để loại trừ các boson Higgs trong khoảng 158-175 GeV/c^2 với độ tin cậy CL 95% [38] [39]. Kết quả sơ bộ của tháng 7 năm 2011 mở rộng loại trừ khu vực phạm vi 156-177 GeV/c^2 với CL 95%. [40]
4.4 Việc thu thập và phân tích dữ liệu tìm kiếm các boson Higgs được tăng cường từ 30 Tháng Ba 2010, khi LHC bắt đầu hoạt động ở mức 3,5 TeV. [41] kết quả sơ bộ từ các thí nghiệm ATLAS và CMS tại LHC là tháng 7 năm 2011 loại trừ một Higgs boson Mô hình Chuẩn trong phạm vi khối lượng155-190 GeV/c^2 [42] và 149-206 GeV/c^2, [43] tương ứng, ở CL 95%. Tất cả các khoảng tin cậy trên được bắt nguồn bằng cách sử dụng phương pháp CLS.
4.5 Tính đến tháng 12 năm 2011 việc tìm kiếm đã thu hẹp ở khu vực khoảng 115-130 GeV với trọng tâm cụ thể khoảng 125 GeV nơi mà các thí nghiệm tại ATLAS và CMS báo cáo độc lập về việc tiến hành sự kiện, [44] [45] cho rằng một số cao hơn kỳ vọng các mẫu hạt tương thích với sự phân rã của một boson Higgs đã được phát hiện trong một khoảng năng lượng. Các dữ liệu là không đủ để cho thấy có hay không có những số vượt quá căn cứ theo sự biến động của bối cảnh (tức là cơ hội ngẫu nhiên hoặc do các nguyên nhân khác), và ý nghĩa thống kê của nó không đủ lớn để rút ra kết luận nào được nêu ra hoặc thậm chí được chính thức xem như là một "quan sát", nhưng trên thực tế, với hai thí nghiệm độc lập thì cả hai thể hiện tính vượt quá ở gần như cùng một khối lượng ; điều này dẫn đến sự phấn khích đáng kể trong cộng đồng vật lý hạt. [46]
4.6 Ngày 22 tháng 12, 2011, D0 Collaboration cũng báo cáo về những hạn chế về các boson Higgs trong mô hình tối thiểu tiêu chuẩn siêu đối xứng (MSSM) - một phần mở rộng Mô hình Chuẩn . Va chạm proton-phản proton (pp) với năng lượng ở khối tâm là 1,96 TeV đã cho phép họ thiết lập một cận trên đối với việc tạo ra Higgs boson trong MSSM từ 90-300 GeV, và việc loại trừ tanβ> 20-30 cho khối lượng của các Higgs boson dưới 180 GeV (tanβ là tỷ lệ của giá trị kỳ vọng chân không của hai bộ đôi Higgs ) [47].
Do đó vào cuối Tháng Mười Hai 2011, nhiều người trông đợi rằng LHC sẽ cung cấp dữ liệu đủ để loại trừ hoặc xác nhận sự tồn tại của boson Higgs Standard Model vào trước cuối năm 2012, khi 2012 dữ liệu mới về vụ va chạm (tại mức năng lượng 8 TeV ) đã được kiểm tra. [48]
4.7 Ngày 02 tháng bảy 2012, ATLAS Collaboration xuất bản một văn kiện phân tích bổ sung vào dữ liệu năm 2011 của họ, trong đó loại ra phạm vi khối lượng của boson từ 111,4 GeV đến 116,6GeV , từ 119,4 GeV đến 122,1 GeV, và từ 129,2 GeV đến 541 GeV. ATLAS quan sát thấy sự dôi ra các sự kiện tương ứng với các giả thuyết boson Higgs khoảng 126 GeV với một ý nghĩa địa phương là 2,9 sigma [49] Cùng ngày, các cơ quan hợp tác D0 và CDF công bố những phân tích sâu hơn, làm tăng thêm niềm tin của giới quan sát . Tầm quan trọng của sự dư thừa ở mức năng lượng từ 115-140 GeV hiện tại , định lượng với độ lệch chuẩn là 2,9 , tương ứng với khả năng từ 1 trong 550 căn cứ theo biến đổi thống kê. Tuy nhiên, điều này vẫn giảm đi độ tin cậy sigma 5, do đó kết quả của thí nghiệm LHC là rất cần thiết để thiết lập một khám phá. Họ loại trừ phạm vi khối lượng Higgs từ 100-103 và 147-180 GeV. [50] [51]
4.8 Ngày 22 Tháng Sáu 2012 CERN công bố một hội thảo sắp tới bao gồm kết quả dự kiến năm 2012, [52] [53] và ngay sau đó tin đồn bắt đầu lan rộng trên các phương tiện truyền thông rằng điều này sẽ bao gồm một thông báo quan trọng, nhưng không rõ liệu điều này sẽ là một tín hiệu mạnh hơn hay một phát hiện chính thức [54] [55] . Ngày 04 tháng bảy năm 2012 CMS công bố phát hiện của boson với khối lượng 125,3 ± 0,6 GeV/c^2 một ý nghĩa thống kê là 4,9 sigma, [2] và theo ATLAS thì boson có khối lượng ~ 126,5 GeV/c^22 ở mức 5 sigma [3]. Điều này đáp ứng các cấp độ chính thức cần thiết để thông báo một hạt mới là "phù hợp với" boson Higgs , nhưng các nhà khoa học vẫn không tích cực xác định nó như là các boson Higgs, trong khi chờ thu thập và phân tích dữ liệu khác [1]
5. Mốc thời gian về bằng chứng thực nghiệm
Tất cả các kết quả tham khảo với Standard Model Higgs boson, trừ khi có quy định khác.
5.1 Từ 2000-2004 - bằng cách sử dụng dữ liệu thu thập được trước năm 2000, năm 2003-2004 Phòng thí nghiệm Large Electron-Positron Collider xuất bản văn kiện thiết lập cận dưới đối với các boson Higgs là 114,4 GeV/c2 ở cấp độ tin cậy 95% (CL), với một số lượng nhỏ các sự kiện khoảng 115 GeV [32].
5.2 Tháng 7 năm 2010 - dữ liệu từ thí nghiệm ở CDF (Fermilab) và D0 (Tevatron) loại ra các boson Higgs trong khoảng 158-175 GeV/c^2 với CL 95% [38] [39].
5.3 Ngày 24 tháng tư 2011 - phương tiện truyền thông báo cáo "tin đồn" của một tìm thấy hạt Higgs [56] những điều này bị vạch trần vào tháng 5 năm 2011 [57] . Đây không phải là một trò lừa bịp, nhưng đã được dựa trên kết quả không chính thức, chưa được xem xét [58].
5.4 Ngày 24 tháng 7 năm 2011 - LHC báo cáo có thể có dấu hiệu của hạt, ATLAS lưu ý với kết luận: "Trong phạm vi khối lượng thấp (khoảng 120-140 GeV) việc dôi ra các sự kiện với ý nghĩa khoảng 2,8 sigma với kỳ vọng bối cảnh được quan sát thấy" và các báo cáo của BBC cho rằng, "sự kiện hạt thú vị tại một khối lượng từ 140 và 145 GeV" đã được tìm thấy [59] [60] Những phát hiện này được lặp đi lặp lại ngay sau đó bởi các nhà nghiên cứu tại Tevatron với một phát ngôn viên nói rằng: "Có một số điều hấp dẫn đang xảy ra xung quanh một khối lượng của 140GeV đến 145GeV "[59]
Ngày 22 Tháng 8 năm 2011 có thông tin báo cáo rằng những kết quả bất thường đã trở thành không ý nghĩa về sự bao gồm nhiều dữ liệu hơn từ ATLAS và CMS , và sự tồn tại của hạt đã được xác nhận bởi LHC va chạm 95% CL giữa 145-466 GeV (ngoại trừ một vài cá biệt khoảng 250 GeV). [61]
Ngày 23- 24 Tháng Bảy 2011 - kết quả sơ bộ của LHC loại ra các phạm vi 155-190 GeV/c^2 (ATLAS) [42] và 149-206 GeV/c^2 (CMS) [43] với CL 95%.
Ngày 27 Tháng 7 2011 - các kết quả của CDF / D0 sơ bộ mở rộng phạm vi loại trừ đến 156-177 GeV/c2 tại CL 95% [40].
5.5 Ngày 18 Tháng Mười Một năm 2011 - một phân tích kết hợp dữ liệu ATLAS và CMS tiếp tục thu hẹp khoảng cho các giá trị được phép của khối lượng Higgs boson là 114-141 GeV [62].
Ngày 13 tháng 12 năm 2011 - kết quả thực nghiệm đã được công bố từ thí nghiệm ATLAS và CMS, chỉ ra rằng nếu boson Higgs tồn tại, khối lượng của nó được giới hạn trong phạm vi 116-130 GeV (ATLAS) hoặc 115-127 GeV (CMS), với khối lượng khác bị loại trừ ở CL 95%. các sự kiện dôi ra được quan sát ở khoảng 124 GeV (CMS) và 125-126 GeV (ATLAS) là phù hợp với sự tồn tại tín hiệu của một Higgs boson, nhưng cũng phù hợp với biến động về bối cảnh . Các ý nghĩa thống kê toàn cầu về sự dôi ra 1,9 sigma (CMS) và 2,6 sigma (ATLAS) sau khi sửa chữa cho thấy cái nhìn về tính hiệu lực ở những nơi khác [44] [45].
Ngày 22 tháng 2011 - Cơ quan hợp tác D0 cũng đặt ra những giới hạn về khối lượng Higgs boson trong mô hình tối thiểu tiêu chuẩn siêu đối xứng (Minimal Supersymmetric Standard Model : MSSM -một phần mở rộng của mô hình tiêu chuẩn), với một cận trên đối với sự tạo ra hạt từ 90-300 GeV, và loại trừ tanβ> 20-30 đối với khối lượng boson Higgs dưới 180 GeV với CL 95%. [47]
Ngày 7 tháng 2 năm 2012 - cập nhật kết quả tháng mười hai, các thí nghiệm ATLAS và CMS đã hạn chế các Mô hình Chuẩn của Higgs boson, nếu nó tồn tại, ở phạm vi 116-131 GeV và 115-127 GeV, tương ứng, với ý nghĩa thống kê tương tự như trước đây [63. ] [64] [65]
BosonHiggs dự báo phân rã thành4 electron đượcghi lạibởiATLAStrongnăm2012.
5.6 Ngày 07 tháng 3 năm 2012 - Cơ quan hợp tác D0 và CDF thông báo rằng họ tìm thấy những sự dôi ra có thể được hiểu là đến từ một boson Higgs với khối lượng trong khoảng từ 115 đến 135 GeV/c^2 trong mẫu đầy đủ dữ liệu từ Tevatron. Tầm quan trọng của sự dôi ra được xác định với độ lệch chuẩn 2.2 , tương ứng với khả năng 1 trong 250 căn cứ theo biến đổi thống kê. Việc này có một ý nghĩa thấp hơn, nhưng lại phù hợp và độc lập với các dữ liệu ATLAS và CMS tại LHC [66] [67] Kết quả mới này cũng mở rộng phạm vi giá trị của hạt Higgs có khối lượng bị loại trừ bởi các thí nghiệm Tevatron tại CL 95%, trở thành 147-179 GeV/c^2. [68] [69]
5.8 Ngày 02 tháng 7 năm 2012 - Cơ quan hợp tác ATLAS tiếp tục phân tích 2011 dữ liệu của họ, loại bỏ phạm vi khối lượng boson Higgs 111,4 GeV đến 116,6 GeV, 119,4 GeV đến 122,1 GeV, và 129,2 GeV đến 541 GeV. Boson Higgs có thể tồn tại ở 126 GeV với ý nghĩa là 2,9 sigma. [49] Trong cùng ngày, Cơ quan Hợp tác D0 và CDF cũng đã công bố những phân tích sâu hơn, tăng thêm niềm tin của họ rằng các dữ liệu giữa 115-140 GeV là tương ứng với một boson Higgs với 2,9 sigma, loại trừ phạm vi khối lượng ở mức 100-103 và 147-180 GeV [50] [51]
BosonHiggs dự báo phân rã thành4 muon đượcghi lạibởiATLAStrongnăm2012.
5.9 Ngày 4 tháng 7 năm 2012 - CMS hợp tác "công bố phát hiện của boson với khối lượng 125,3 ± 0,6 GeV/c^2 trong vòng 4,9 σ (sigma) và Cơ quan hợp tác ATLAS tuyên bố rằng" chúng ta quan sát trong dữ liệu dấu hiệu rõ ràng của một hạt mới, với mức 5 sigma, trong phạm vi khối lượng khoảng 126 GeV. Những phát hiện này đáp ứng các mức độ chính thức cần thiết để thông báo một hạt mới xuất hiện "phù hợp với" Higgs boson, nhưng các nhà khoa học đã không tích cực xác định nó như là các boson Higgs, trong khi chờ những phân tích sâu hơn [1].
------------------------------------------------------------------------------------------- Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic. Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
wxMaxima 0.8.5
-
I have released wxMaxima version 0.8.5. There are no major changes in this
release. One of the cool things added are two new translations (Greek an
Japanes...
The Day in Photos – November 5, 2019
-
[image: Hindu women worship the Sun god in the polluted waters of the river
Yamuna during the Hindu religious festival of Chatth Puja in New Delhi,
India, ...
Bài tập B24.Tích phân học toán 12.docx
-
Để có thêm nguồn tư liệu cho HS học tập thi HK 2023 MÔN TOÁN, ÔN TẬP TRONG
LÚC HỌC TOÁN TRONG LỚP, EBOOKTOAN SƯU TẬP CÁC FILE TOÁN DOCX ĐỂ PHỤC VỤ CÁC
TH...
Ratio Pressure Drops-Flowrates
-
For a pipe or heat exchanger if we want to calculate the pressure drop for
a higher flowrate, then we can use as first estimation:
dP1/dP2=(Q1/Q2)^2
????...
The Orbit of Kepler 16b
-
[image: The Orbit of Kepler 16b]NASA's Kepler space telescope recently made
the news by finding a planet that orbits a double-star system, a situation
that...
Find All Wolfram News in One Place—The Wolfram Blog
-
This is the final post here at the Wolfram|Alpha Blog. Approximately six
and a half years ago our launch team started the Wolfram|Alpha blog just
prior to ...