Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Thứ Bảy, 31 tháng 1, 2015

Hiểu vật lý trong 60 giây - Bài 14 . Hạt quark


Hiểu vật lý trong 60 giây - Bài 14 .  Hạt quark 



Lời nói đầu .


Tạp chí Symmetry trình bày rất nhiều lĩnh vực khác nhau trong Vật lý hiện đại với những ý tưởng , bài viết , công trình lý thuyết lẫn thực nghiệm của tập thể các nhà khoa học hàng đầu hiện nay trên thế giới . Chuyên mục " Hiểu biết Vật lý trong 60 giây " tổng hợp một số bài viết ngắn gọn , súc tích và đầy tính đột phá trong việc giải thích các cơ chế vật lý nhằm giúp người đọc dễ dàng tiếp cận những thông tin mới mẻ . Tác giả của những bài viết này hiện đang công tác tại các Trung tâm nghiên cứu , Viện Khoa học và các trường Đại học danh tiếng nên nguồn thông tin luôn được cập nhật thường xuyên .
 Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc .




Trần hồng Cơ .
Tham khảo - Trích lược .
Ngày 05/05/2014.




 ------------------------------------------------------------------------------------------- 


 Hạt quark     




Minh họa: Sandbox Studio


Quark là các khối xây dựng cơ bản của vật chất. Chúng thường được tìm thấy bên trong hầu hết các proton và neutron, các hạt cấu tạo nên cốt lõi của mỗi nguyên tử trong vũ trụ. Mô hình sau đây cho thấy một proton với hai quark lên (up-màu đỏ) và một quark xuống (down-màu xanh), với các cặp quark-antiquark ảo (màu hồng) được liên tục tạo ra và tiêu diệt.
[Jefferson Lab, 2005]

 Ảnh động sau mô tả các lực hạt nhân (hay lực mạnh thặng dư) tương tác giữa một proton và một neutron. Các vòng tròn đôi nhỏ màu là các gluon, có thể xem là mối liên kết các proton và neutron với nhau. Những gluon này cũng duy trì sự kết hợp quark-antiquark gọi là các pion với nhau, và do đó giúp truyền tải một phần còn lại của lực mạnh ngay cả giữa các hadron không sắc . Các phản sắc cũng được thể hiện theo sơ đồ này .


Dựa trên bằng chứng thực nghiệm hiện nay, các quark dường như là hạt cơ bản thực sự và chúng không thể bị chia nhỏ hơn nữa.


Proton và neutron chủ yếu có hai loại quark. Chúng được gọi là các quark lên (up) và xuống (down). Vì lý do vẫn chưa được biết, thiên nhiên cũng đã thiết kế hai bản sao cho mỗi quark lên và xuống, giống hệt nhau ngoại trừ việc có khối lượng những lớn hơn. Các bản sao nặng hơn của quark lên được gọi là quark duyên (charm) và quark đỉnh (top) ; các bản sao của các quark down được đặt tên là quark lạ (strange) và quark đáy (bottom).


Có sáu quark , nhưng các nhà vật lý thường nói về chúng theo thuật ngữ của ba cặp: lên  / xuống , duyên/  lạ , và  đỉnh / đáy (Ngoài ra, đối với mỗi loại trong các hạt quark, có một antiquark tương ứng)  . Nhưng xin lưu ý rằng chúng ta hãy vui vì các quark có những cái tên ngớ ngẩn như vậy - nó làm cho chúng dễ nhớ hơn !

Nhưng làm thế nào mà các quark lại có những tên gọi ngớ ngẩn như vậy ?
Có sáu hương của hạt quark. "Hương " chỉ có nghĩa là các loại khác nhau. Hai loại quark nhẹ nhất được gọi lên và xuống .
Các quark thứ ba được gọi là quark lạ . Nó được đặt tên là "lạ" sau khi tìm thấy hạt K có tuổi thọ lâu dài "một cách kỳ lạ"   ; đây là hạt phức hợp đầu tiên được phát hiện có chứa quark này.

Các loại quark thứ tư, quark duyên , được đặt tên dựa trên một ý bất chợt . Nó được phát hiện vào năm 1974 gần như đồng thời ở cả hai Trung tâm gia tốc tuyến tính Stanford - Linear Accelerator Center Stanford (SLAC) và tại Phòng thí nghiệm quốc gia Brookhaven.
Các quark thứ năm và thứ sáu đôi khi được gọi là sự thật (truth) và cái đẹp (beauty) trong quá khứ, nhưng ngay cả các nhà vật lý cho rằng đó là quả thật dễ thương.
Các quark đáy (bottom - beauty) lần đầu tiên được phát hiện tại Fermi National Lab (Fermilab) vào năm 1977, trong một hạt hỗn hợp gọi là Upsilon .
Các quark đỉnh (top - truth) đã được phát hiện cuối cùng , cũng tại Fermilab, vào năm 1995. Đó là các quark nặng nhất. Nó đã được dự đoán trong một thời gian dài nhưng chưa bao giờ được quan sát thành công cho đến thời điểm đó.

Quark có các đặc điểm bất thường về việc có một điện tích phân số , không giống như các proton và electron, trong đó có điện tích nguyên là 1 và -1 tương ứng. Quark cũng mang theo một loại tích gọi là sắc tích , mà chúng ta sẽ thảo luận sau.

Các quark khó nắm bắt nhất là các quark đỉnh , được phát hiện vào năm 1995 sau khi sự tồn tại của nó đã được đưa ra giả thuyết trong suốt 20 năm.
Do sự chuyển đổi năng lượng thành khối lượng, các máy gia tốc hiện đang sản xuất ra những hạt quark nặng, và thời gian sống ngắn ngủi thông qua hiện tượng va chạm hạt . Khối lượng của quark kéo dài một phạm vi rất lớn . Các quark nặng nhất là các quark đỉnh , khoảng 100.000 lần khối lượng lớn hơn so với hai loại nhẹ nhất là quark lên và xuống. Lời giải thích cho hệ thống cấp bậc này là một bí ẩn sâu thẳm , ngoại trừ khối lượng khổng lồ các quark đỉnh có thể được xem là một ưu điểm khá hấp dẫn . Thăm dò các thuộc tính chi tiết của quark đỉnh có thể làm sáng tỏ nguồn gốc của khối lượng riêng của nó trong vũ trụ.







Theo  Jay Hubisz, Fermilab

 +++++++++++++++++++++++++++

Nguồn :
1. http://www.symmetrymagazine.org/article/march-2006/explain-it-in-60-seconds-quarks
2. http://particleadventure.org/quarks.html
3. http://phys.org/news/2011-07-unseen.html
4. http://www.aps.org/units/ghp/gallery/proton.cfm
5. http://www.physi.uni-heidelberg.de/Forschung/ANP/Perkeo/
6. http://lhcathome.web.cern.ch/sixtrack/look-accelerators
7.http://en.wikipedia.org/wiki/Strong_interaction




Trần hồng Cơ
Tham khảo - Trích lược .
Ngày 28/01/2015 .




-------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant.

 Victor Hugo.

Thứ Tư, 28 tháng 1, 2015

Hiểu vật lý trong 60 giây - Bài 13 . Độ sáng


Hiểu vật lý trong 60 giây - Bài 13 .  Độ sáng  



Lời nói đầu .


Tạp chí Symmetry trình bày rất nhiều lĩnh vực khác nhau trong Vật lý hiện đại với những ý tưởng , bài viết , công trình lý thuyết lẫn thực nghiệm của tập thể các nhà khoa học hàng đầu hiện nay trên thế giới . Chuyên mục " Hiểu biết Vật lý trong 60 giây " tổng hợp một số bài viết ngắn gọn , súc tích và đầy tính đột phá trong việc giải thích các cơ chế vật lý nhằm giúp người đọc dễ dàng tiếp cận những thông tin mới mẻ . Tác giả của những bài viết này hiện đang công tác tại các Trung tâm nghiên cứu , Viện Khoa học và các trường Đại học danh tiếng nên nguồn thông tin luôn được cập nhật thường xuyên .
 Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc .




Trần hồng Cơ .
Tham khảo - Trích lược .
Ngày 05/05/2014.




 ------------------------------------------------------------------------------------------- 


 Độ sáng    


Luminosity

Minh họa: Sandbox Studio



Độ sáng là thước đo mức độ hiệu quả của một máy gia tốc hạt trong việc sản sinh ra những sự kiện va chạm. Vì các thí nghiệm tìm kiếm dữ liệu của một số lượng va chạm ngày càng tăng nhằm khám phá các hạt vật lý  mới , những nhà vật lý gia tốc hạt phải làm việc liên tục để tăng độ sáng của một máy va chạm.

Xem video clip mô tả độ sáng của máy va chạm LHC .



Trong lý thuyết tán xạ và vật lý gia tốc , độ sáng ( L ) được định nghĩa là tỷ số giữa số sự kiện được phát hiện ( N ) trong một thời gian nhất định ( t )  trên thiết diện tương tác cross-section (σ) :
$L = \frac{1}{\sigma}.\frac{dN}{dt}$
Nó có thứ nguyên tính theo các sự kiện trên thời gian cho mỗi phần diện tích, và thường được biểu diễn trong hệ đơn vị CGS là  $cm ^{-2} · s ^{-1}$ hoặc trong hệ đơn vị phi-SI là $ b ^{-1} · s^ {-1}$ .
 Trong thực tế, độ sáng L  phụ thuộc vào các thông số của chùm hạt , như chiều rộng chùm và tốc độ dòng hạt, cũng như các thuộc tính mục tiêu , chẳng hạn như kích thước mục tiêu và mật độ.
Một đại lượng liên quan là độ sáng tích hợp ( $L_{int}$ ), là tích phân của độ sáng theo thời gian:
$L_{int}=\int Ldt$
Độ sáng và độ sáng tích hợp là những giá trị hữu ích để mô tả hiệu suất của một máy gia tốc hạt . Đặc biệt, tất cả các thí nghiệm va chạm đều nhằm mục đích tối đa hóa độ sáng tích hợp, khi độ sáng tích hợp càng cao sẽ có thêm nhiều dữ liệu để phân tích.
Xem thêm :  http://cds.cern.ch/record/941318/files/p361.pdf

Trong một máy va chạm, các hạt được lưu trữ trong một chuỗi các bó (bunches) để tạo thành một chùm. Mỗi bó có kích thước của một hạt gạo và chứa một vài tỷ hạt.


Những chùm này được gia tốc làm cho va chạm nhau hướng vào các trung tâm của các máy dò hạt lớn. Đa số các hạt tránh nhau, nhưng một số tương tác nhau và tạo ra các sự kiện va chạm mong muốn. Độ sáng của máy gia tốc xác định mức độ mà những va chạm này xảy ra.

Mô hình sau phác họa phương thức các chùm hạt được gia tốc trong LHC trước khi chúng va chạm nhau  (theo CERN) . Trong các thí nghiệm vật lý năng lượng cao hạt thường va chạm với các phản hạt của chúng (các electron với positron, hay proton với phản-proton) để chúng tự hủy, giải phóng nhiều năng lượng để có thể tạo ra các loại hạt mới . Năng lượng chùm tia sẽ xác định các loại thuộc quá trình hạ nguyên tử nào có thể được nghiên cứu chi tiết .



Để vượt qua các giới hạn của công nghệ, các nhà vật lý gia tốc tăng độ sáng bằng cách đặt nhiều hạt hơn trong mỗi bó , tạo ra va chạm nhiều bó hạt mỗi giây, và ép bó hạt với kích thước nhỏ nhất khả dĩ tại điểm va chạm.  Với sự khéo léo của các nhà khoa học , độ sáng cao điểm trong các máy va chạm hiện nay đã tăng gấp hơn một trăm ngàn lần trong 30 năm qua.




Theo  John Seeman,
Stanford Linear Accelerator Center - Trung tâm gia tốc tuyến tính Stanford .

 +++++++++++++++++++++++++++

Nguồn :
1. http://www.symmetrymagazine.org/article/february-2006/60-seconds-luminosity
2. https://wiki.bnl.gov/eic/index.php/Luminosity
3. http://en.wikipedia.org/wiki/Luminosity_(scattering_theory)
4. http://hilumilhc.web.cern.ch/
5. http://inspirehep.net/record/822071/plots
6. http://lhcathome.web.cern.ch/sixtrack/look-accelerators
7.http://www.lhc-closer.es/1/3/2/0




Trần hồng Cơ
Tham khảo - Trích lược .
Ngày 22/01/2015 .




-------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant.

 Victor Hugo. Hugo.

Chủ Nhật, 25 tháng 1, 2015

Bắt trẻ đồng xanh (The Catcher in the Rye) – Jerome David Salinger .


Bắt trẻ đồng xanh (The Catcher in the Rye) – Jerome David Salinger



Jerome David "JD" Salinger là một nhà văn Mỹ sớm đoạt giải thưởng văn chương trong những năm đầu đời. Ông đã mở đầu cho khuynh hướng tự thuật về một cuộc sống rất riêng tư và để lại ảnh hưởng rất lớn trong hơn một nửa thế kỷ. JD Salinger cũng đã xuất bản tác phẩm nguyên gốc cuối cùng của ông vào năm 1965 và  tham gia cuộc phỏng vấn cuối cùng của ông vào năm 1980 (Theo Wikipedia)
Sinh : 01 tháng 1 , 1919, thành phố New York, New York, Hoa Kỳ
Mất :  27 tháng 1 , 2010 ( 91 tuổi ), Cornish, New Hampshire, Hoa Kỳ
Các con : Matt Salinger , Margaret Salinger
Học vấn : Ursinus College .
Người phối ngẫu : Colleen O'Neill (1988-2010), Claire Douglas (1955-1967), Sylvia Welter (1945-1947)


Các tác phẩm chính :


1.The Young Folks
2.Go See Eddie
3.The Hang of It
4.The Heart of a Broken Story
5.The Long Debut of Lois Taggett
6.Personal Notes on an Infantryman
7.The Varioni Brothers
8.Both Parties Concerned
8.Soft Boiled Sergeant
10.Last Day of the Last Furlough
11.Once a Week Won't Kill You
12.A Boy in France
13.Elaine
14.This Sandwich Has No Mayonnaise
15.The Stranger
16.I'm Crazy
17.Slight Rebellion Off Madison
18.A Young Girl in 1941 with No Waist at All
19.The Inverted Forest
20.A Perfect Day for Bananafish
21.A Girl I Knew
22.Uncle Wiggily in Connecticut
23.Just Before the War with the Eskimos
24.Blue Melody
25.The Laughing Man
26.Down at the Dinghy
27.For Esmé - With Love and Squalor
28.The Catcher in the Rye
28.Pretty Mouth and Green My Eyes
30.De Daumier-Smith's Blue Period
31.Teddy
32.Franny
33.Raise High the Roof Beam, Carpenters
34.Zooey
35.Seymour: An Introduction
36.Hapworth 16, 1924

Xem thêm : http://salinger.org/



Khi đọc tựa truyện “Bắt trẻ đồng xanh”, nếu chưa được giới thiệu trước, hẳn dễ tưởng đây là sách thiếu nhi. Trong khi đây lại là tác phẩm từng gây tranh cãi lớn vì ngôn từ “phàm tục”, đề cập sự nổi loạn và tâm lý chán chường của lứa tuổi vị thành niên tại Hoa Kỳ thập niên 1950. Đây là cuốn sách đầu tay của nhà văn Hoa Kỳ Jerome David Salinger.

Câu chuyện được nhân vật chính – cậu trai trẻ 17 tuổi Holden Caulfield – kể lại qua ngôi thứ nhất. Đó là một thanh niên vừa bị đuổi học, vốn là người nhạy cảm và thông minh, nhưng lại không tìm được hứng thú trong cuộc sống và học tập. Đặc biệt Holden rất “dị ứng” với thói đạo đức giả có đầy rẫy trong cuộc sống xung quanh. Phía sau sự chán chường và những phản kháng, là một thanh niên giàu tình cảm, biết trân trọng những điều những giá trị “thật”.

Tôi không muốn tóm tắt nội dung cuốn sách này, và cũng mong rằng các bạn đừng đọc những tóm tắt nếu có. Bởi những sự việc được Holden kể lại, như việc bị đuổi học, đi thăm thầy giáo, đánh nhau, lang thang, tìm gái mại dâm,.. chỉ là những diễn biến để những tâm tư của cậu được bộc lộ, những trăn trở được giải bày qua ngôn ngữ giễu cợt chua cay. Những ký ức xen lẫn về người em trai đã chết, tình cảm dành cho cô em gái nhỏ cũng như cô bạn, là những điều không thể “tóm tắt” mà phải đọc hết từng câu từng chữ, để rồi thấu hiểu và cảm nhận.



Cuốn sách ra đời năm 1951 tại Hoa Kỳ, và đến nay đã xuất bản 65 triệu bản trên toàn thế giới. Tôi tin rằng đã có nhiều thế hệ thanh thiếu niên tại nhiều nơi khác nhau cảm thấy một phần của mình trong cuốn sách. Sự giả dối của người lớn, sự kệch cỡm của xã hội, tâm lý nổi loạn của tuổi mới lớn… dù biểu hiện khác nhau vẫn luôn chứa đựng những trải nghiệm mà ai cũng từng gặp. Không nêu ra những thứ giáo điều, nhưng chính câu chuyện của Holden lại là bài học quý giá mà cả người lớn lẫn những người đang trưởng thành có thể thấm thía. Mặc dù tác phẩm từng được đưa vào giảng dạy ở trung học tại Hoa Kỳ nhưng cá nhân tôi cho rằng bạn trẻ Việt Nam chỉ nên đọc cuốn này sau 18 tuổi.

Ghi chú: tôi đọc bản dịch của Phùng Khánh và Phùng Thăng được Nhã Nam tái bản 2008.

Bản tiếng Việt tham khảo dưới đây do Đức Dương và Bùi Mỹ Hạnh dịch (NXB Phụ nữ):
http://www.ConMotSach.com/books/bat_tre_dong_xanh.prc

Tham khảo bản tiếng Anh:
  http://www.ConMotSach.com/books/catcher_in_the_rye.pdf

Nguồn :  http://www.conmotsach.com/blog/bat-tre-dong-xanh-the-catcher-in-the-rye-jerome-david-salinger/



Đọc trực tuyến



Bắt Trẻ Đồng Xanh​
Tác Giả: J.D. Sainger​

Giới thiệu:​
Nếu có ai đó hỏi, liệu một quyển sách có khả năng làm thay đổi đời người không, tôi sẽ trả lời rằng tôi hiếm khi nghi ngờ điều đó. Một quyển sách, đến vào đúng thời điểm, có thể làm cho cuộc sống của ta rẽ sang hướng khác.
Đấy không phải là điều bạn được tuyên truyền hay dạy bảo, mà chính bạn sẽ rút ra được kết luận này, khi bắt gặp quyển sách của đời mình.
Tôi nhớ một buổi chiều ở Era, quán café sách quen thuộc tôi hay ghé lại mỗi khi rảnh rỗi. Khi đang chăm chú chọn sách trên chiếc giá sách nhỏ hai ngăn sát tường, có một người khách nữa trong quán cũng đến kệ sách. Đó là một người lạ, nhưng chúng tôi vẫn gật đầu chào nhau, có lẽ vì những ai cùng chung sở thích sẽ cảm thấy dễ gần hơn.
Và trong lúc cả hai đang chọn sách, anh quay sang tôi bắt chuyện, chủ yếu vẫn là hỏi về những thể loại sách tôi thích đọc. Rồi người lạ hỏi tôi, em đọc Bắt Trẻ Đồng Xanh chưa. Nhận được một cái lắc đầu thay câu trả lời, anh rút trong giá sách ra một quyển rất cũ, đưa cho tôi kèm lời giới thiệu “em đọc thử đi, sẽ không thấy tiếc thời gian đâu”.
Tôi nhớ mình đã ngồi lại đọc cho đến hết quyển sách được giới thiệu ấy. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không tiếc khoảng thời gian đã bỏ ra cho bất kỳ quyển sách nào, không hẳn chỉ vì tôi thích đọc, mà có lẽ vì một quyển sách dù rất tệ cũng sẽ mang lại cho bạn vài điều gì đó đáng nói. Và nếu một lúc nào đó bạn được đắm chìm trong những trang viết tuyệt vời, thì đó hẳn là những khoảnh khắc đáng quý.
Nhưng sẽ hay hơn nhiều, nếu khi buông quyển sách xuống, và thoát ra khỏi thế giới của nó mà ảnh hưởng của những gì bạn đọc được vẫn còn đó, đi theo bạn, trở thành một phần của bạn. Bắt Trẻ Đồng Xanh, đối với tôi – là một quyển sách như thế.
Tôi tìm thấy sự đồng cảm với nhân vật chính – Holden Caulfield, chàng trai 17 tuổi bị đuổi khỏi trường dự bị Pencey vì những lý do như đã thi trượt bốn trong tổng số năm môn, hay không chịu học hành, nhưng lý do lớn nhất là cậu đã chán đến tận cổ một nền giáo dục giáo điều, rỗng tuếch; cũng như những con người đạo đức giả và bộ tịch đầy rẫy trong môi trường học tập của cậu.
Tôi dõi theo bước chân của Holden - một cậu trẻ thông minh và nhạy cảm - chỉ vừa bước một chân qua ngưỡng cửa của sự trưởng thành, còn nhiều băn khoăn, nghi ngờ, đôi lúc chán nản cùng cực. Cho dù là ở New York xa xôi, hay ngay tại đây, chung quanh chúng ta và có thể ngay chính bản thân chúng ta nữa, chúng ta luôn tìm thấy những nỗi băn khoăn, những hoài nghi, và sự phản kháng thậm chí nổi loạn của giới trẻ.
Có thể chính vì thế mà qua nhiều năm, Bắt Trẻ Đồng Xanh luôn tìm được những cảm xúc đồng điệu trong lòng người đọc, và luôn có ảnh hưởng đến những lớp độc giả trẻ tuổi. Ở đó, người ta bắt gặp hình ảnh của mình, hoặc là một phần của chính mình.
Ngay từ lần xuất bản đầu tiên tại Hoa Kỳ năm 1951, Bắt Trẻ Đồng Xanh (nguyên tác: The Catcher in the Rye) đã trở thành một hiện tượng. Bị chỉ trích như một quyển sách tồi tệ vì dùng ngôn ngữ thô tục và đề cập đến tôn giáo, xã hội và giáo dục một cách “không chính thống”, nhưng đồng thời Bắt Trẻ Đồng Xanh cũng là quyển sách được đưa vào chương trình giáo dục trung học của Hoa Kỳ.
Hình tượng nhân vật chính – Holden Caulfield, trở thành một hình ảnh biểu trưng cho một thế hệ thanh niên lạc lõng, chán chường và nổi loạn, không chỉ có giá trị phản ánh một phần lịch sử đương thời, mà nó luôn tươi mới và gắn liền với cuộc sống, với những người trẻ ở bất kỳ một thời điểm nào. Cho đến nay, với hơn 65 triệu ấn bản được bán ra trên toàn thế giới, cũng như việc quyển này được tạp chí Time đưa vào danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất từ 1923 đến nay cũng đã phần nào cho thấy sức sống và sức lan tỏa của tác phẩm.
Tại Việt Nam, người đọc làm quen với ấn phẩm tiếng Việt qua bản dịch của Phùng Khánh (Nhà sách Thanh Hiên – 1965) và một bản nữa của Đức Dương và Bùi Mỹ Hạnh (NXB Phụ Nữ, 1992 và tái bản bởi NXB Văn Học, 2005).
Trong bài phê bình “Những giá trị đạo đức trong Bắt trẻ đồng xanh” của Edwards June (Mai Sơn dịch), ông cho rằng “Trái với những lời kết tội, Bắt Trẻ Đồng Xanh đích thực là một cuốn sách đạo đức. Dù bạn lấy những lời dạy của Jesus, văn kiện của chế độ dân chủ, lý thuyết của Kohlberg, hay bất cứ một nguồn luận cứ nào khác để làm nguồn sáng đạo đức soi rọi, thì Holden vẫn nổi lên như là một con người bối rối mà đức hạnh.”
Tất nhiên, Bắt Trẻ Đồng Xanh không chỉ có thế, vì nếu đấy chỉ là một cuốn sách đạo đức thì bạn đã có hàng ngàn cuốn khác như thế, hàng ngàn cuốn rao giảng đạo đức đơn thuần. Bắt Trẻ Đồng Xanh, trong cách nhìn nhận của tôi, là một quyển sách làm nên sự khác biệt.
Với tôi, trước nhất khía cạnh giữ chân tôi là cách kể chuyện tự nhiên và cuốn hút của tác giả, cũng như việc nắm bắt tâm lý giới trẻ rất tốt, để tôi cảm thấy như thể Salinger viết cho chính mình, cho những người cùng thời, mà còn cho cả tôi, hoặc viết về một ai đó có nhiều điểm giống tôi.
Theo chân Holden Caulfield trở về nhà ở New York sau khi bị đuổi học, tôi không chỉ trải qua một chặng đường với nhiều điểm lý thú nho nhỏ, mà đến khi đọc xong, tôi biết rằng chàng trai ấy không chỉ để lại cho tôi một ấn tượng đẹp, mà còn gieo vào lòng tôi một mong muốn mãnh liệt: mong muốn được tìm thấy bản thân, và được sống với những giá trị đích thực của chính mình.
Trong một xã hội mà những giá trị ảo và thói đạo đức giả lên ngôi, Holden đã cố tách mình khỏi nó. Người ta cần sự tỉnh táo để nhận ra những điều xấu xa, dối trá; cần lòng ngay thẳng để biết ghê tởm và xa lánh chúng; nhưng cũng cần cả sự trong sáng trong tâm hồn để biết nhìn ra những điểm tốt đẹp giữa nơi xô bồ chứ không đánh đồng mọi việc.
Holden chính là một người có những phẩm chất đó. Cậu chán ngấy những màn kịch tôn giáo màu mè và nghĩ “nếu Jesus mà thấy được những bộ trang phục màu mè ấy, chắc ngài sẽ nôn mửa ra mất”, nhưng lại quý mến và quyên tiền cho hai nữ tu đang trên đường xuống miền Nam Chicago dạy học.
Caulfield chán nản những trường lớp rao giảng giáo điều, nhưng trước khi về nhà sau khi bị đuổi học cậu còn ghé thăm ông giáo già dạy Sử, người tuy đã đánh trượt cậu nhưng cậu vẫn quý ông ta vì lòng nhiệt tâm với nghề, thậm chí còn ghi thêm vài dòng vào bài thi để ông không cảm thấy áy náy khi đánh trượt mình.
Cũng vậy, tuy ghê tởm những đứa bạn bẩn thỉu, nhưng Caulfield sẵn sàng trò chuyện hay đi xem phim với chúng, vì chúng chẳng có đứa bạn nào. Tôi cảm động vì Caulfield, ngay cả khi có hành động nổi loạn vẫn không hề chống lại những nền tảng gia đình, vẫn tôn kính cha mẹ và yêu thương anh em, đặc biệt là cô em gái Phoebe.
Với tôi, đoạn trò chuyện giữa hai anh em khi Caulfield lẻn vào nhà, cũng như đoạn kết khi cậu quyết định ở lại vì em gái và dẫn em đi chơi công viên là một trong những trang viết đẹp nhất mà tôi từng đọc về tình cảm gia đình. Nó trong sáng, cảm động dù quả thực rất trẻ con, và nó làm bạn bất giác mỉm cười.
Với tôi, Bắt Trẻ Đồng Xanh chưa bao giờ là một quyển sách của sự phản kháng và chán chường đơn thuần. Tôi tìm thấy ở đó niềm vui sống, của nhân vật và của cả độc giả. Những niềm vui giản dị, nhỏ bé và rất dễ bắt gặp khắp mọi nơi. Mội bài thơ của đứa em đề tặng trên găng tay, một giọng hát trẻ con trong trẻo, hay những mơ ước có phần viển vông….
Như “nghề mơ ước” của Holden Caulfield vậy: hãy hình dung một cánh đồng lúa mạch xanh bát ngát ở đâu đó trên trái đất này, chỉ có bầy trẻ con chơi với nhau. Cậu sẽ đứng trên một mỏm đá bên rìa vực thẳm, ngắm lũ trẻ chơi đùa, canh chừng cho chúng. Khi chúng băng qua cánh đồng xanh, đến gần mỏm đá, chàng Holden nhà ta sẽ tóm lấy chúng để chúng khỏi rơi xuống. Chỉ thế thôi.
Đọc đến đấy, tôi bật cười. “Anh biết, Phoebe ạ, đó là mơ tưởng điên khùng, ngu xuẩn, nhưng thực sự anh muốn thế”.Không chỉ Holden, có lẽ còn nhiều người mơ như thế, hoặc tương tự thế. Và không có giấc mơ nào là ngu xuẩn, nhất là việc giữ lại niềm vui ngây thơ của con trẻ, cũng như chia sẻ niềm vui ấy với chúng. Có lẽ bất kỳ xã hội nào cũng cần những con người muốn làm công việc “bắt trẻ đồng xanh” ấy.
Trong một quyển tiểu thuyết tôi đọc, có 1 nhân vật nói về cha mình như sau “Ông cụ rất tốt, nhưng ông là một chai Coca. Có hàng triệu chai Coca trên thế giới này, và chúng giống hệt nhau. Tôi không muốn mình cũng là một trong số đó”.
Khi những nỗ lực đồng hóa mọi người, những khuôn thước, chuẩn mực đuợc đưa ra để triệt tiêu cái Tôi khác biệt, Bắt Trẻ Đồng Xanh là một tiếng nói phản tỉnh. Quyển sách đánh thức cái mong muốn được sống đúng với thực chất con người mình trong tôi.
Mỗi người là một vũ trụ nhỏ bao gồm cả những điểm đẹp đẽ và xấu xa nhưng rất riêng biệt, chính vì thế nó làm cho cuộc đời rộng lớn kia thêm phong phú. Tôi đã biết cách trân trọng những điểm khác biệt ở người khác, ngay cả khi họ có quan điểm trái ngược với mình.
Tôi nuôi dưỡng những giấc mơ, và luôn nỗ lực để có thể biến nó thành hiện thực (tất nhiên không phải là một giấc mơ bắt được vài đứa trẻ băng qua cánh đồng). Và tôi tin ở những gì mình cảm nhận được. Chẳng phải niềm tin là một điều đẹp đẽ sao, và cứ hãy tin những điều bạn muốn, thay vì tin những gì người ta muốn bạn phải tin, hoặc cố nhồi vào đầu bạn.
Cho dù đi ngược lại, hoặc không hoàn toàn trùng khớp với những “giá trị chung” như Kinh thánh, hay sách vở thì với tôi Bắt Trẻ Đồng Xanh vẫn là một quyển sách đẹp đẽ, vì nó giúp người ta nhận ra Con Người, hiểu với ý nghĩa đơn lẻ nhất – đáng được trân trọng như thế nào.
Khi Holden bị đuổi học, đúng ra là lần thứ tư bị đuổi, cô em gái luôn lập lại “bố sẽ giết anh mất thôi”. Cậu cũng hình dung ra chuyện gì chờ đợi mình, nhưng tôi chắc Holden sẽ không đời nào chọn con đường dẹp bỏ cảm xúc, tảng lờ chính tiếng nói của tâm hồn mình để trờ thành một ai đó như mong muốn của gia đình, hay có một vị trí trong xã hội.
Khi Holden nói với em Phoebe “anh sẽ lên phía Bắc chăn ngựa…” dù cậu chưa từng cưỡi ngựa, tôi tin rằng nếu có cơ hội Holden vẫn sẽ làm mọi cách để tìm đến cánh đồng xanh của mình. Tôi cũng thế, và ngã rẽ của cuộc đời tôi được đánh dấu vào ngày tôi rời trường đại học để làm những gì mình thực sự muốn. Trong quyết định ấy của tôi có phần ảnh hưởng không nhỏ từ Bắt Trẻ Đồng Xanh.
Cuộc sống thật đáng quý và có lẽ rất ngắn ngủi, vì thế ta có lẽ nên dành thời gian để làm những việc mình muốn, thay vì sống theo ý muốn của một ai đó khác hoặc sống cho qua tháng ngày.
Nhìn lại, cho đến giờ có thể tôi chưa đạt được thành công gì đáng kể, và sau này tôi cũng chẳng mong mình thành ông thánh bà tướng gì cả. Tôi chỉ đơn giản thấy hạnh phúc và mãn nguyện.
Nếu bạn muốn tặng ai đó một món quà, tôi xin đưa ra một đề nghị nho nhỏ: bạn hãy tặng họ 1 quyển sách. Có thể nó không tạo ra một bước ngoặt, không thay đổi cuộc đời họ, mà chỉ đơn giản là làm họ thêm yêu đời là đã đủ rồi. Sẽ chẳng bao giờ là quá muộn để bắt đầu Sống thực sự, và đôi khi quá trình ấy được khởi đầu, hoặc thúc đẩy nhờ vào một quyển sách đến đúng thời điểm.
Khi tôi đọc Bắt Trẻ Đồng Xanh, đó là 1 quyển sách cũ rách bìa xuất bản từ trước năm 75, và thuộc dạng sách hiếm, khó tìm, ngay cả khi tìm trong các nhà sách cũ. Tôi đã mượn chủ quán về để bọc lại bìa, và hi vọng có nhiều bạn sẽ tiếp tục đọc nó, cũng như copy ra nhiều bản để tặng bạn bè mình.
Đến cuối tháng 04.2008, tôi lại thấy bản Bắt Trẻ Đồng Xanh ngoài nhà sách, vẫn là bản dịch cũ của dịch giả Phùng Khánh, có chỉnh sửa và biên tập lại. Quả thực, đó là một niềm vui đối với tôi.
Tự quyển sách làm nên giá trị của nó, nhưng phải kể đến phần đóng góp không nhỏ của dịch giả Phùng Khánh trong việc mang lại một bản dịch tiếng Việt điêu luyện, nhuần nhị và tinh tế mà vẫn giữ được tinh thần của nguyên tác.
Khi việc tìm kiếm quyển sách không quá khó khăn như trước nữa, sao bạn không thử tìm đọc nó? Tôi nghĩ bạn sẽ không tiếc thời gian đã bỏ ra, nhất là sau khi đọc xong quyển tiểu thuyết đẹp đẽ ấy.

Crimson Mai

Download:
Dropbox: [EPUB] [PRC]
 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant.

 Victor Hugo.


Thứ Tư, 21 tháng 1, 2015

Hiểu vật lý trong 60 giây - Bài 12 . Nhà máy B


Hiểu vật lý trong 60 giây - Bài 12 .  Nhà máy B  



Lời nói đầu .


Tạp chí Symmetry trình bày rất nhiều lĩnh vực khác nhau trong Vật lý hiện đại với những ý tưởng , bài viết , công trình lý thuyết lẫn thực nghiệm của tập thể các nhà khoa học hàng đầu hiện nay trên thế giới . Chuyên mục " Hiểu biết Vật lý trong 60 giây " tổng hợp một số bài viết ngắn gọn , súc tích và đầy tính đột phá trong việc giải thích các cơ chế vật lý nhằm giúp người đọc dễ dàng tiếp cận những thông tin mới mẻ . Tác giả của những bài viết này hiện đang công tác tại các Trung tâm nghiên cứu , Viện Khoa học và các trường Đại học danh tiếng nên nguồn thông tin luôn được cập nhật thường xuyên .
 Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc .




Trần hồng Cơ .
Tham khảo - Trích lược .
Ngày 05/05/2014.



 ------------------------------------------------------------------------------------------- 


Nhà máy B   

B factories

Minh họa: Sandbox Studio



Nhà máy B là những cỗ máy khoa học khám phá các điều kiện của vũ trụ ban đầu bằng cách tạo ra và phân tích số lượng lớn các B meson, hạt có chứa một quark đáy - Dựa trên mô hình va chạm , nhà máy B được thiết kế để sản xuất một số lượng lớn (theo cấp độ $10^9$ )  các meson B và phân tích các đặc tính của chúng.  Các tauon và meson D cũng được sản sinh ra rất nhiều tại nhà máy B , cho phép các nhà vật lý hạt nghiên cứu chính xác các đặc tính của chúng .
Một vai trò khác nữa của các nhà máy B là khảo sát sự khác biệt giữa B meson và phản hạt của chúng để giúp chúng ta hiểu được tại sao vũ trụ bị chi phối bởi vật chất mà không có phản vật chất như hiện nay.

Một nhà máy B dựa trên ba phần chính:
-Một máy gia tốc hạt để sản xuất số lượng lớn các B meson .
-Một máy dò để quan sát sự phân rã meson .
-Sự hợp tác quốc tế của các nhà vật lý hạt và kỹ sư .

belle và Babara

Hai nhà máy B hiện đang hoạt động là  máy va chạm PEP-II với máy dò BaBar tại Trung tâm máy gia tốc tuyến tính Stanford SLAC , và máy va chạm KEKB với máy dò Belle , đặt tại Nhật Bản đều được thiết kế và xây dựng trong những năm 1990. Cả hai dựa trên máy va chạm electron-positron với các trung tâm năng lượng khối được điều chỉnh đến đỉnh cộng hưởng Υ (4S) , là mức cao hơn ngưỡng cho phân rã thành hai meson B (cả hai thí nghiệm lấy mẫu dữ liệu nhỏ hơn ở trung tâm năng lượng khối khác nhau ). Các thí nghiệm Belle tại máy va chạm KEKB  ở Tsukuba , Nhật Bản , và các thí nghiệm BaBar tại máy va chạm PEP-II  tại phòng thí nghiệm SLAC ở California , Mỹ , tương ứng đã hoàn thành bộ sưu tập dữ liệu trong năm 2010 và 2008 .






Tỷ lệ và cường độ va chạm electron-positron trong BaBar và Belle tạo ra hàng trăm triệu  B meson mỗi năm. Mỗi giây hoạt động , các nhà máy phân loại thông qua hàng triệu va chạm để xác định vài trăm sự kiện thú vị một cách hiệu quả . Mỗi nhà máy sản xuất hơn 700 đĩa CD giá trị dữ liệu (0,5 terabyte) để phân tích hằng ngày.

detectors

Hai nhà máy B hợp tác khổng lồ của thế giới, Belle tại KEK và BaBar tại SLAC, đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong việc tìm kiếm và xác định số lượng những hiện tượng vi phạm CP.
Các nhà máy B mang lại một vụ mùa bội thu các kết quả, bao gồm các quan sát đầu tiên của sự vi phạm CP bên ngoài của các hệ thống kaon , độ đo của các thông số CKM  $|V_{ub}|$  và  $|V_{cb}|$, và các độ đo của meson B  nguyên thủy thuộc họ lepton phân rã  .

Bằng cách khám phá thế giới vi mô, các nhà máy B cho thấy các hiện tượng vũ trụ như nó đã tồn tại gần thời điểm phát sinh của nó.  Đề xuất cho thế hệ tiếp theo nhà máy B bao gồm các thiết kế SuperB được xây dựng ở Frascati gần Rome ở Ý, và Belle II ở Nhật Bản.


group
Các đại biểu tham dự hội thảo Vật lý lần thứ hai của nhà máy B tổ chức tại KEK vào ngày 17-18, 2010.


Theo  Steve Sekula, MIT

 +++++++++++++++++++++++++++

Nguồn :
1. http://www.symmetrymagazine.org/article/december-2005january-2006/explain-it-in-60-seconds
2. http://www.physics.uc.edu/~kayk/cpviol/sin2phi1_PR/Belle.html
3. http://legacy.kek.jp/intra-e/feature/2010/BelleBaBarBook.html
4. http://legacy.kek.jp/intra-e/index.html
5. http://en.wikipedia.org/wiki/B-factory
6. http://www-public.slac.stanford.edu/babar/
7. http://belle.kek.jp/



Trần hồng Cơ
Tham khảo - Trích lược .
Ngày 18/01/2015 .




-------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant.

 Victor Hugo.

Thứ Ba, 20 tháng 1, 2015

Hiểu vật lý trong 60 giây - Bài 11 . Lưới điện toán


Hiểu vật lý trong 60 giây - Bài 11 .  Lưới điện toán 



Lời nói đầu .


Tạp chí Symmetry trình bày rất nhiều lĩnh vực khác nhau trong Vật lý hiện đại với những ý tưởng , bài viết , công trình lý thuyết lẫn thực nghiệm của tập thể các nhà khoa học hàng đầu hiện nay trên thế giới . Chuyên mục " Hiểu biết Vật lý trong 60 giây " tổng hợp một số bài viết ngắn gọn , súc tích và đầy tính đột phá trong việc giải thích các cơ chế vật lý nhằm giúp người đọc dễ dàng tiếp cận những thông tin mới mẻ . Tác giả của những bài viết này hiện đang công tác tại các Trung tâm nghiên cứu , Viện Khoa học và các trường Đại học danh tiếng nên nguồn thông tin luôn được cập nhật thường xuyên .
 Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc .




Trần hồng Cơ .
Tham khảo - Trích lược .
Ngày 05/05/2014.



 ------------------------------------------------------------------------------------------- 


Lưới điện toán 

The Grid

Minh họa: Sandbox Studio


Sau khi mua một máy nướng bánh mì mới , chúng ta chỉ đơn giản là cắm nó vào ổ điện : lưới điện tự động loại bỏ đi sự cần thiết phải mua và cài đặt một máy phát điện mới nhằm cung cấp năng lượng cho thiết bị này . Bạn không bao giờ phải lo lắng về nơi cung cấp nguồn điện năng mà bạn đang sử dụng , bất kể nguồn đó xuất phát từ than ở Australia, từ năng lượng gió tại Hoa Kỳ hoặc từ một nhà máy hạt nhân ở Pháp. Bạn chỉ cần biết rằng khi bạn cắm máy nướng bánh mì của bạn vào ổ cắm trên tường, nó sẽ nhận được năng lượng điện bạn cần để thực hiện công việc .
Các cơ sở hạ tầng cần thiết cho điều này có thể hoạt động được gọi là "lưới điện". Nó liên kết các nhà máy điện của nhiều loại khác nhau với nhà của bạn, thông qua các trạm truyền tải, trạm điện, trạm biến áp, đường dây điện và v.v...
Hệ thống điện là phổ biến : điều này làm cho có điện ở khắp mọi nơi và bạn chỉ có thể truy cập thông qua một ổ cắm tường tiêu chuẩn. Hệ thống điện là một tiện ích : bạn có yêu cầu về điện, và bạn sẽ có được nó. Bạn cũng phải trả tiền cho những gì bạn nhận được từ yêu cầu này.



Bằng cách tương tự như thế , các kỹ sư công nghệ thông tin đề cập đến "Lưới  (Grid)" khi nói về điện toán theo yêu cầu. Bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về nơi cung cấp sức mạnh cho máy tính bạn đang sử dụng , bất kể đó là từ một siêu máy tính ở Đức, một trang trại máy tính ở Ấn Độ hay một máy tính xách tay tại New Zealand. Bạn chỉ cần biết rằng khi cắm vào máy tính của bạn vào Internet, nó sẽ có được sức mạnh tính toán bạn cần có để thực hiện công việc.
Các cơ sở hạ tầng làm cho điều này có thể hoạt động được gọi là "Lưới điện toán - Grid". Nó liên kết các tài nguyên máy tính với nhau như máy tính cá nhân, máy trạm, máy chủ, các tổ hợp lưu trữ và cung cấp các cơ chế cần thiết để truy cập chúng.
Hệ thống Grid là phổ biến : với nguồn tài nguyên máy tính từ xa bạn sẽ có thể truy cập từ các nền tảng khác nhau, bao gồm cả máy tính xách tay, PDA và điện thoại di động, chỉ cần truy cập vào lưới thông qua trình duyệt web trên thiết bị của bạn .Grid là một tiện ích : bạn có yêu cầu cho máy tính các chức năng điện toán  hoặc dung lượng lưu trữ và bạn sẽ có được nó. Bạn cũng phải trả tiền cho những gì bạn nhận được .



Giống như tên gọi của lưới điện, lưới điện toán (grid) là một sự kết hợp các công nghệ, cơ sở hạ tầng, và các tiêu chuẩn. Công nghệ này là phần mềm cho phép các nhà cung cấp tài nguyên (cho dù là cá nhân hay tổ chức) góp phần máy tính, lưu trữ, dữ liệu, mạng, và các nguồn tài nguyên khác; nó cho phép người tiêu dùng sử dụng chúng khi cần thiết. Các cơ sở hạ tầng bao gồm phần cứng vật lý và dịch vụ phải được duy trì và hoạt động đối với các tài nguyên chia sẻ khi xuất hiện nhu cầu tính toán . Cuối cùng, các tiêu chuẩn sẽ hệ thống hóa các thông điệp đó và phải được trao đổi, cùng với các chính sách phải được bảo đảm để cho phép một mạng lưới hoạt động hiệu quả .



Internet, Web, và Grid có liên quan, nhưng khác nhau về công nghệ .
Internet là hệ thống trên toàn thế giới gồm các mạng kết nối nhiều máy tính và các mạng nhỏ hơn, cho phép tất cả chúng giao tiếp với nhau .
Web là cách thức truy cập thông tin trên Internet.
Grid là một cách sử dụng Internet để chia sẻ và quản lý các tài nguyên máy tính được phân phối trên toàn cầu.







01/11/2005
Ian Foster, Phòng thí nghiệm quốc gia Argonne và Đại học Chicago

 +++++++++++++++++++++++++++

Nguồn :
1. http://www.symmetrymagazine.org/article/november-2005/explain-it-in-60-seconds
2. http://www.gridcafe.org/grid-in-30-sec.html
3. http://www.slideshare.net/RichaChaudhary2/grid-computing-ppt-14948003
4. http://www.gridcafe.org/what-is-the-grid.html
5. http://www.slideshare.net/UpenderUpr/grid-computing-seminar-ppt?related=1



Trần hồng Cơ
Tham khảo - Trích lược .
Ngày 15/01/2015 .




-------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant.

 Victor Hugo.

Thứ Tư, 14 tháng 1, 2015

10 tác phẩm văn học nổi tiếng .


10 tác phẩm văn học nổi tiếng .

Theo Raleigh News and Observer 

1.  Anna Karenina (Leo Tolstoy)


2.  Bà Bovary (Gustave Flaubert)




3.  Chiến tranh và Hòa bình (Leo Tolstoy)



4.  Lolita (Vladimir Nabokov)





5.  Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn (Mark Twain)




6.  Hamlet (Shakespeare)




7.  Đại gia Gasby (F.Scott Fitzgerald)




8. Đi tìm thời gian đã mất (Marcel Proust)






9. Truyện ngắn Chekhov (Anton Chekhov)




10. Middlemarch (Geogre Eliot)







 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant.

 Victor Hugo.

Thứ Hai, 12 tháng 1, 2015

VẬT LÝ TỔNG QUAN Chương 1. CƠ HỌC . 1.1 ĐỘNG HỌC . 1.1.7 Đồ thị chuyển động


Creative Commons License
This work is licensed under a Creative Commons Attribution-NonCommercial-NoDerivs 3.0 United States License.

VẬT LÝ TỔNG QUAN 

Chương 1. CƠ HỌC .

1.1  ĐỘNG HỌC .

1.1.7   Đồ thị chuyển động     




Ký hiệu và đồ thị 

Như chúng ta đã biết ở 1.1.6 , dùng các ký hiệu toán học hiện đại là một cách rất gọn và đơn giản để mã hóa các ý tưởng. Khi nói đến chiều sâu của ý tưởng vật lý , không gì tốt hơn là biểu diễn nó dưới dạng một hay nhiều phương trình. Những phương trình đó có thể dễ dàng chứa các thông tin tương đương với một số mệnh đề phức tạp và thậm chí là dài dòng . Mô tả của Galileo về một đối tượng di chuyển với tốc độ không đổi (có lẽ là ứng dụng đầu tiên của toán học đối với chuyển động) đã phải cần đến một định nghĩa, bốn tiên đề, và sáu ​​định lý . Tất cả những mối quan hệ đó có thể được viết bằng một phương trình duy nhất hết sức gọn gàng .
$\bar{v}= \frac{Δ s}{Δ t}$

Để mô tả hiện tượng vật thể chuyển động một chiều với gia tốc hằng - còn gọi là chuyển động đều , người ta biểu diễn bằng 3 phương trình chuyển động với các điều kiện cho trước bằng các ký hiệu toán học .


Điều kiện cho trước
 $t_{0}=0 ,  x_{0}=0 $   và   $u=v_{0}$
Phương trình thứ nhất  $v= u +a. t$ , nêu lên mối quan hệ giữa vận tốc-thời gian  ${v,u,a,t}$

Phương trình thứ hai
$x = u. t + ½ .a. t^2.$    ( tính theo vận tốc đầu u )
$x = v. t - ½ .a. t^2.$     ( tính theo vận tốc sau v )  chỉ ra mối quan hệ giữa dịch chuyển-thời gian ${x,u,v,a,t}$

Phương trình thứ ba
 $v^2 = u^2 + 2.a.x$  cho thấy liên hệ giữa vận tốc-dịch chuyển  ${v,u,a,x}$



Những phương trình chuyển động này nếu phải viết dưới dạng văn bản theo Galileo, có lẽ phải trình bày một cách rất rườm rà , phức tạp . May thay các ký hiệu toán học đã biểu diễn toàn bộ các ý tưởng quan trọng của vật thể chuyển động đều một cách rất đầy đủ và súc tích .

Những tiện ích của việc dùng ký hiệu toán học trong việc mô tả các hiện tượng khoa học tự nhiên nói chung và riêng ở môn vật lý  là không thể chối cãi . Tuy nhiên người ta còn sử dụng các phương pháp khác như  như phim ảnh , đồ thị  trong việc dẫn giải hoặc thuần túy chỉ là để quan sát những gì đang xẩy ra . Một cách tổng quát một hình ảnh có chức năng biểu diễn cho công thức hay một phương trình toán học được gọi là một đồ thị. Đồ thị thường đượcxem là cách tốt nhất để truyền tải các mô tả của các sự kiện , hiện tượng trong thế giới thực theo một hình thức nhỏ gọn.



Đồ thị của chuyển động thường có một số dạng phụ thuộc vào các đại lượng động học (thời gian, dịch chuyển , vận tốc, gia tốc) được gán cho một trục nào đó . Các ví dụ trong 1.1.5 cũng đã cho chúng ta thấy vài nét sơ lược về các tính năng của đồ thị vận tốc-thời gian và dịch chuyển -thời gian .

Đồ thị dịch chuyển-thời gian 

Để tìm hiểu về đồ thị dịch chuyển-thời gian chúng ta sẽ bắt đầu với công thức vận tốc của vật thể chuyển động . Từ  $\bar{v}=\frac{\Delta S}{\Delta t}$  , nếu $t_{0}=0$  ta sẽ viết lại như sau
$x - x_{0} =\bar{v}. t $
hay  $S = S_{0} + \bar{v}.t$
Khi đó biểu thức $S=S(t)=  S_{0} + \bar{v}.t$  mô tả quan hệ bậc nhất dịch chuyển - thời gian .

Để khảo sát đồ thị hàm $S=S(t)$ , với trục tung được gán cho dịch chuyển $S$ , chúng ta dễ dàng liên hệ đến đồ thị của hàm số bậc nhất $y = b + ax$  có dạng là một đường thẳng . Hệ số a và b tương ứng chỉ về độ dốc ( hay hệ số góc ) và tung độ gốc ( giao điểm của đồ thị và trục tung ) .

Trong hàm dịch chuyển bậc nhất   $S = S_{0} + \bar{v}.t$
- Độ dốc là $\bar{v}$ : vận tốc - chỉ mức độ nhanh chậm của đối tượng chuyển động . Độ dốc dương ( hoặc âm ) mô tả chuyển động của đối tượng theo hướng dương ( hoặc hướng âm ) .
- Tung độ gốc là  $S_{0}$ : dịch chuyển ban đầu - xác định vị trí trước khi khảo sát chuyển động .
- Đồ thị hàm số  $S=S(t)$ là đường thẳng - chỉ ra rằng vận tốc không đổi , gia tốc bằng 0 .


Tuy nhiên , biểu thức dịch chuyển-thời gian $S=S(t)$  có thể là một hàm số bậc hai , như các bạn đã biết phương trình chuyển động đều thứ hai có dạng
$x = x_{0} +v_{0}.\Delta t + ½ .a. \Delta t^2.$  
Trong đó $ x_{0}$  là dịch chuyển ban đầu , nếu $t_{0}=0$  ta sẽ viết lại như sau
$x = x_{0} +v_{0}.t + ½ .a. t^2.$  
hay $S = S_{0} +v_{0}.t + ½ .a. t^2.$  mô tả quan hệ bậc hai  dịch chuyển - thời gian .

Đồ thị hàm $S=S(t)$ là một parabola có dạng tổng quát  $y= c + bx + ax^2$ .
Hệ số $a<0$  chỉ độ cong lồi ( đồ thị có điểm cực đại ) , trong khi  $a>0$ chỉ độ cong lõm của parabola  ( đồ thị có điểm cực tiểu ) .
Hệ số b chỉ về vị trí của điểm cực trị và sự nâng của đường parabola , Nếu $b<0$ ( hoặc $b>0$ ) điểm cực trị nằm về phía bên phải (hoặc bên trái ) trục tung .
Nếu $a>0$  thi khi  $|b|$ càng lớn ( hoặc nhỏ ) đồ thị càng có khuynh hướng hạ xuống (hoặc nâng lên ) .
Ngược lại , nếu  $a<0$  thì khi  $|b|$ càng lớn ( hoặc nhỏ ) đồ thị càng có khuynh hướng nâng lên (hoặc hạ xuống  ) .
Hệ số c là  tung độ gốc ( giao điểm của đồ thị và trục tung ) .

Trong hàm dịch chuyển bậc hai  $S = S_{0} +v_{0}.t + ½ .a. t^2.$
Hệ số a  :  Gia tốc  $a<0$  ( hay $a>0$ ) chỉ độ cong lồi ( hay lõm )  - cho biết giá trị cực đại ( hoặc cực tiểu ) của dịch chuyển của đối tượng chuyển động .
- Tung độ gốc là  $S_{0}$ : dịch chuyển ban đầu - xác định vị trí trước khi khảo sát chuyển động .
- Đồ thị hàm số  $S=S(t)$ là đường parabola - chỉ ra rằng gia tốc không đổi .


Trường hợp tổng quát biểu thức dịch chuyển-thời gian $S=S(t)$  là một hàm số tùy ý , đồ thị dịch chuyển -thời gian không cho chúng ta biết vận tốc cụ thể của vật thể chuyển động , nhưng vận tốc trung bình có thể tính được bằng độ dốc của đoạn thẳng nối điểm đầu và điểm cuối trên đường cong $S(t)$.
Hình dưới đây chỉ ra cách tính vận tốc trung bình $\bar{v}$ trong khoảng thời gian 10s .

$\bar{v}= \frac{\Delta  S}{\Delta t}= \frac{9.5}{10}= 0.95 m/s$
Vận tốc tức thời tại một điểm trên đường cong $S(t)$  là giới hạn của vận tốc trung bình khi khoảng thời gian $\Delta t $ tiến về 0 .

$v(t)=\lim_{\Delta t \rightarrow 0}\frac{\Delta S}{\Delta t}=\frac{dS}{dt}$

Như vậy vận tốc tức thời  $v(t)$   là đạo hàm bậc nhất của hàm khoảng cách $S(t)$ đối với thời gian t.

Bảng số liệu vận tốc tức thời của chuyển động cho trong bảng sau đây chỉ ra sự thay đổi độ dốc ( giá trị đạo hàm của $S(t)$ ) của các tiếp tuyến  tại các điểm trên đồ thị $S(t)$


Tóm tắt .
Các tính chất của đồ thị dịch chuyển-thời gian .
- Độ dốc tại một điểm trên đồ thị là vận tốc .
- Độ dốc dương (âm) biểu thị cho chuyển động theo hướng dương (âm) .
- Độ dốc bằng 0 biểu thị cho chuyển động ở trạng thái nghỉ .
- Tung độ gốc là dịch chuyển ban đầu .
- Đường thẳng biểu diễn chuyển động có vận tốc hằng .
- Đường cong biểu diễn chuyển động có gia tốc .
- Một phần của parabola biểu diễn chuyển động có gia tốc hằng (đều) .
- Vận tốc trung bình là độ dốc của đoạn thẳng nối điểm đầu và điểm cuối trên đường cong S(t) .
- Vận tốc tức thời là độ dốc của tiếp tuyến tại điểm trên đường cong S(t) .
- Diện tích giới hạn bởi S(t) và trục thời gian không có ý nghĩa .


Đồ thị vận tốc-thời gian 

Điều cần thiết nhất khi khảo sát một đồ thị vận tốc -thời gian là phân biệt sự khác nhau giữa đồ thị dịch chuyển-thời gian và đồ thị vận tốc thời gian . Lúc này trục tung biểu thị số liệu vận tốc của vật thể chuyển động . Trong đồ thị này giá trị v nào lớn hơn mô tả trạng thái chuyển động có vận tốc nhanh hơn .  Xét phương trình chuyển động đều thứ nhất $v= u +a. t$ , mô tả quan hệ giữa vận tốc-thời gian  ${v,u,a,t}$ .

Hàm vận tốc $v =u +a. t$ như trên có dạng hàm số bậc nhất $y = b + ax$  và đồ thị là một đường thẳng . Các tính chất đặc trưng của hàm vận tốc bậc nhất này có những điểm tương tự như đã khảo sát ở hàm dịch chuyển bậc nhất ở phần trên .
Trong hàm vận tốc bậc nhất   $v = v_{0} + \bar{a}.t$

Độ dốc là $\bar{a}$ : gia tốc - chỉ mức độ gia tốc của đối tượng chuyển động . Độ dốc dương ( hoặc âm ) mô tả sự tăng ( hoặc giảm ) vận tốc của đối tượng .
Tung độ gốc là  $v_{0}$ : vận tốc ban đầu - xác định vận tốc của đối tượng trước khi khảo sát chuyển động .
Đồ thị hàm số  $v=v(t)$ là đường thẳng - chỉ ra rằng gia tốc không đổi  (đều) .

Trường hợp tổng quát biểu thức vận tốc-thời gian $v=v(t)$  là một hàm số tùy ý , tương tự như trường hợp dịch chuyển-thời gian , đồ thị vận tốc -thời gian không cho chúng ta biết gia tốc cụ thể của vật thể chuyển động , nhưng gia tốc trung bình có thể tính được bằng độ dốc của đoạn thẳng nối điểm đầu và điểm cuối trên đường cong $v(t)$.
Hình dưới đây chỉ ra cách tính gia tốc trung bình $\bar{a}$ trong khoảng thời gian 10s .
Gia tốc tức thời tại một điểm trên đường cong $v(t)$  là giới hạn của gia tốc trung bình khi khoảng thời gian $\Delta t $ tiến về 0 .

$a(t)=\lim_{\Delta t \rightarrow 0}\frac{\Delta v}{\Delta t}=\frac{dv}{dt}$

Như vậy gia tốc tức thời  $a(t)$   là đạo hàm bậc nhất của hàm vận tốc $v(t)$ đối với thời gian t.
Hình động dưới đây mô tả gia tốc tức thời là độ dốc của tiếp tuyến (màu xanh dương) với đường cong $v(t)$  (màu đỏ) . Đồ thị gia tốc $a(t)$ có màu xanh lá cây .


Hãy xét ví dụ dưới đây minh họa các tham số động học từ đồ thị vận tốc-thời gian  .
Một vận động viên trượt tuyết thực hiện cự ly thi đấu với các số liệu đo được như sau
Hãy tính :
- Gia tốc trung bình trong khoảng 8s đầu tiên .
- Gia tốc trung bình từ 8s đến 20 s .
- Cự ly đã trượt trong 8s đầu tiên .
- Tổng cự ly đã trượt .

- Gia tốc trung bình trong khoảng 8s đầu tiên : $\bar{a}_{[0,8]}= \frac{v_{A}-v_{0}}{\Delta t}=(16-0)/8=2 m/s^2$
- Gia tốc trung bình từ 8s đến 20 s  : $\bar{a}_{[8,20]}= \frac{v_{C}-v_{A}}{\Delta t}=(20-16)/12=0.33m/s^2$
- Cự ly đã trượt trong 8s đầu tiên : $S_{đỏ}=\Delta S = \bar{v}. \Delta t =  ½ ( v_{0}+v_{A}) . (8-0) = ½ (0+16) .8 =64 m$
- Tổng cự ly đã trượt : $S_{đỏ}+S_{xanh dương}+S_{xanh cây}$
$S_{đỏ}=\Delta S = \bar{v}. \Delta t =  ½ ( v_{0}+v_{A}) . (8-0) = ½ (0+16) .8 =64 m$
$S_{xanh dương}=\Delta S = \bar{v}. \Delta t =  ½ ( v_{A}+v_{B}) . (16-8) = ½ (16+20) .8 =144 m$
$S_{xanh cây}=\Delta S = \bar{v}. \Delta t =  ½ ( v_{B}+v_{C}) . (20-16) = ½ (20+20) .4 =80 m$
Vậy
$S_{đỏ}+S_{xanh dương}+S_{xanh cây}= 64m+144m+80m= 288m$

Tóm tắt .
Các tính chất của đồ thị vận tốc-thời gian .
- Độ dốc tại một điểm trên đồ thị là gia tốc .
- Độ dốc dương (âm) biểu thị cho sự tăng tốc theo hướng dương (âm) .
- Độ dốc bằng 0 biểu thị cho chuyển động có vận tốc hằng .
- Tung độ gốc là vận tốc ban đầu .
- Đường thẳng biểu diễn chuyển động có gia tốc đều .
- Đường cong biểu diễn chuyển động có gia tốc không đều .
- Gia tốc trung bình là độ dốc của đoạn thẳng nối điểm đầu và điểm cuối trên đường cong v(t) .
- Gia tốc tức thời là độ dốc của tiếp tuyến tại điểm trên đường cong v(t) .
- Diện tích giới hạn bởi v(t) và trục thời gian biểu thị sự thay đổi dịch chuyển .



Đồ thị gia tốc-thời gian 

Trong đồ thị gia tốc-thời gian trục tung biểu diễn gia tốc ($m/s^2$) và trục hoành biểu diễn thời gian (s) . Để ý rằng biểu đồ gia tốc-thời gian của bất kỳ đối tượng nào dịch chuyển với một vận tốc không đổi là như nhau. Điều này đúng bất kể vận tốc của các đối tượng như thế nào . Một chiếc xe hơi chạy với vận tốc hằng 60 mph (27 m / s), một người đi bộ với một tốc độ hằng 8 km/h  tất cả đều có cùng đồ thị gia tốc-thời gian - biểu diễn bởi một đường thẳng ngang trùng với trục hoành ( trục thời gian t ). Vì tốc độ của mỗi đối tượng trên là không đổi nên các gia tốc này bằng không .

 Gia tốc và vận tốc là hai đại lượng khác nhau . Đi nhanh không hàm ý tăng tốc nhanh . Một vật thể chuyển động có gia tốc lớn tương ứng với một sự thay đổi nhanh chóng về vận tốc, nhưng nó không cho bạn biết gì về giá trị của vận tốc của riêng vật thể đó . Khi gia tốc là hằng số, đồ thị gia tốc-thời gian là một đường thẳng song song với trục hoành . Mức độ thay đổi của gia tốc theo thời gian là một đại lượng vô nghĩa nên độ dốc của đường cong trên đồ thị này không có ý nghĩa.  Gia tốc có thể thay đổi và không cần phải là đại lượng liên tục, nhưng mức độ của sự thay đổi của gia tốc theo thời gian là khái niệm không có trong vật lý .



Hình động dưới đây mô tả mối liên hệ giữa dịch chuyển - vận tốc - gia tốc theo biến thời gian .
Từ trái sang phải biểu thị phép toán đạo hàm - độ dốc của tiếp tuyến (derivative) , từ phải sang trái biểu thị phép toán tích phân -diện tích giới hạn bởi đường cong (integral) .

Để làm rõ sự liên hệ này chúng ta xét một ví dụ hình học dưới đây .

Xét chuyển động của một vật thể với vận tốc từ 165 m /s đến mức tối đa là 250 m / s, biểu diễn bởi đồ thị (a) , (b) , (c) . Đồ thị (a) minh họa dịch chuyển S ( km ) - thời gian t (s)

Thời gian đầu là   $t_{0}=0 $ tương ứng với dịch chuyển ban đầu và vận tốc là 2.9 km và 165 m / s . Độ dốc của S theo thời gian  t chính là vận tốc $v$ ( xem hình (b) ) .

Biểu đồ vận tốc tăng cho đến khi t = 55 s , sau đó, độ dốc không đổi . Gia tốc $a$ giảm dần từ $5.0 m /s^2$  đến  $0 m/s^2$   khi vận tốc máy bay chạm mốc 250 m /s ( xem hình (c) ) .
Tóm tắt .
Các tính chất của đồ thị gia tốc-thời gian .
- Độ dốc tại một điểm trên đồ thị không có ý nghĩa .
- Độ dốc bằng 0 chuyển động có gia tốc không đổi .
- Tung độ gốc là gia tốc ban đầu .
- Đường thẳng ngang biểu diễn chuyển động có gia tốc đều .
- Diện tích giới hạn bởi a(t) và trục thời gian biểu thị sự thay đổi vận tốc .





Trần hồng Cơ 
Biên soạn 
Ngày 10/11/2014



Nguồn :
1. http://tap.iop.org/mechanics/kinematics/index.html
2. http://hyperphysics.phy-astr.gsu.edu/hbase/HFrame.html
3. http://physics.info/
4. http://www.onlinephys.com/index.html
5. http://www.stmary.ws/highschool/physics/home/notes/kinematics/
6. http://physics.tutorcircle.com/



Xem tiếp 


http://cohtran-toan-don-gian.blogspot.com/2014/11/vat-ly-tong-quan-chuong-1-co-hoc-11-ong_10.html



  Creative Commons License
This work is licensed under a Creative Commons Attribution-NonCommercial-NoDerivs 3.0 United States License.

-------------------------------------------------------------------------------------------

Người có học biết mình ngu dốt.
The learned man knows that he is ignorant.

 Victor Hugo.

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran