10 BỘ TRUYỆN TIỂU THUYẾT SONG NGỮ ĐÌNH ĐÁM THẾ GIỚI
1. Alice In Wonderland
Cuộc phiêu lưu của Alice ở Xứ sở Thần Tiên là cuốn tiểu thuyết dành cho thiếu nhi của tác giả người Anh Lewis Carroll. Câu chuyện kể về cô bé Alice chui qua một hang thỏ rồi lạc vào thế giới thần tiên có những sinh vật kì lạ
2. Pinocchio
Được tạo ra bởi người thợ mộc già Mister Geppetto trong một ngôi làng nhỏ ở Ý, chú rối gỗ Pinocchiotrở thành một cậu bé bằng xương bằng thịt. Cậu thường hay nói dối và bịa ra những câu chuyện vì nhiều lý do khác nhau. Pinocchio là một trong những nhân vật tái hiện nhiều nhất trong kho tàng văn học thiếu nhi.
3. The Da Vinci Code
Mật mã Da Vinci là một tiểu thuyết của nhà văn nổi tiếng người Mỹ Dan Brown. Cốt truyện của tiểu thuyết kể về âm mưu của Giáo hội Công giáo nhằm che dấu sự thật về Chúa Giê-su. Truyện ám chỉ rằng Tòa thánh Roma biết rõ âm mưu này từ 2000 năm qua, nhưng vẫn giấu kín để giữ vững quyền lực của mình.
Sau khi vừa xuất bản, cuốn tiểu thuyết đã khơi dậy mạnh mẽ sự tò mò khắp thế giới đi tìm hiểu sự thật về Sự tích Chén Thánh và vai trò của Mary Magdalene trong lịch sử Giáo hội Công giáo.
4. Pride and prejudice
Kiêu hãnh và định kiến là câu chuyện nói về tình yêu và hôn nhân của tầng lớp quý tộc nhỏ tại Anh vào đầu thế kỷ 19. Nhân vât chính là Elizabeth Bennet, một cô gái 20 tuổi xuất thân trong một gia đình trung lưu. Nội dung chính kể về sự đối đầu và sau này trở thành cuộc tình giữa Elizabeth và Fitzwilliam Darcy, thuộc tầng lớp địa chủ. Tựa truyện nói về sự kiêu hãnh và các định kiến của nhân vật này đối với nhân vật kia.
5. Gone with the wind
Cuốn theo chiều gió là một cuốn tiểu thuyết tình cảm của Margaret Mitchell, người đã dành giải Pulitzer với tác phẩm này năm 1937. Câu chuyện được đặt trong bối cảnh tại Georgia và Atlanta, miền Nam Hoa Kỳ trong suốt thời kì nội chiến và thời tái chiến.
Tác phẩm xoay quanh Scarlett O’Hara, một cô gái miền Nam đầy sức mạnh, phải tìm mọi cách để sống sót qua chiến tranh và vượt lên mọi khó khăn trong thời hậu chiến. Tiểu thuyết đã được chuyển thể thành phim năm 1937.
6. Donquixote
Đôn Ki hô tê được bình chọn là tác phẩm văn học Tây Ban Nha hay nhất mọi thời đại. Câu chuyện theo bước chân của Quixada – một nhà quý tộc nghèo khoảng 50 tuổi, say mê những câu chuyện hoang đường phi lí về các hiệp sĩ đến độ cuồng si. Quixada quyết định trở thành hiệp sĩ lang thang, chu du khắp 4 phương trời để cứu khốn phò nguy, diệt trừ yêu quái và lũ khổng lồ.
7. The great Gatsby
Đại gia Gatsby hay Gatsby vĩ đại là một kiệt tác của nhà văn F.Scott Fitzgerald người Mỹ. Tiểu thuyết này viết về thời kỳ sống của chính tác giả. Sau cú sốc và hỗn loạn của Chiến tranh thế giới lần thứ 1, nước Mỹ bước vào thời kỳ thịnh vượng chưa từng thấy trong những năm 1920 do sự cất cánh của nền kinh tế.
Cũng trong thời gian này, Luật cấm buôn bán và sản xuất rượu được ban hành, làm tăng lên các tội phạm có tổ chức. Mặc dù Fitzgarald, giống nư Nick Carraway trong tác phẩm của mình, tôn sùng sự giàu có, nhưng ông không thấy thoải mái với xã hội coi trọng vật chất quá mức và đạo đức lại không đi cùng với nó.
8. Gone with the wind
Tiếng gọi nơi hoang dã là một tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Jack London. Cốt truyện kể về một con chó tên là Buck đã được thuần hóa, cưng chiều. Nhưng 1 loạt các sự kiện xảy ra khi Buck bị bắt khỏi trang trại để trở thành chó kéo xe ở khu vực Alaska lạnh giá, trong giai đoạn mọi người đổ xô đi tìm vàng thế kỷ 19, thiên nhiên nguyên thủy đã đánh thức bản năng của Buck. Buck trở lại cuộc sống hoang dã. Buck trở về rừng, sống chung với lũ sói.
9. Grimm’s fairy tales
Truyện cổ Grimm là tuyển tập tất cả các truyện cổ tích tiếng Đức quen thuộc như Cô bé quàng khăn đỏ, Bà chúa tuyết, Cô bé lọ lem…. Truyện cổ Grimm được coi là nguồn cảm hứng bất tận cho các nghệ sĩ hoạt động trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác nhau như hội họa, âm nhạc, điện ảnh…
10. Harry Potter
Harry Potter là tên của bộ truyện (gồm bảy phần) của nữ nhà văn nước Anh J.K.Rowling. Bộ truyện viết về những cuộc phiêu lưu phù thủy của cậu bé Harry Potter và những người bạn Ronald Weasley, Hermione Granger, lấy bối cảnh tại Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts nước Anh.
Những cuộc phiêu lưu tập trung vào cuộc chiến của Harry Potter trong việc chống lại tên Chúa tể hắc ám Vlodemort - người có tham vọng muốn trở nên bất tử, thống trị thế giới phù thủy, nô dịch hóa những người phi pháp thuật và tiêu diệt những ai cản đường hắn đặc biệt là Harry Potter.
------------------------------------------------------------------------------------------- Even in darkness light dawns for the upright, for those who are gracious and compassionate and righteous.
Psalm 112:4 Mục-đích của sự răn-bảo, ấy là sự yêu-thương, bởi lòng tinh-sạch, lương-tâm tốt và đức-tin thật mà sanh ra.
I Ti-mô-thê 1:5
Nửa đêm rồi Từ hè phố vắng lặng Mặt trăng đã trôi đi ký ức Nàng vẫn đang mỉm cười một mình Dưới ánh đèn vàng úa Những chiếc lá khô nép mình dưới chân tôi Và gió khuya bắt đầu rên rỉ Ôi ! Ký ức Mọi thứ đều cô đơn dưới ánh trăng Tôi có thể mỉm cười hạnh phúc về những ngày của em (tôi có thể mơ về những ngày xưa cũ ) Cuộc sống thật đẹp biết bao Tôi nhớ đến thời gian nếm trải niềm hạnh phúc Hãy để ký ức sống lại Mọi ánh đèn đường dường như khuấy động nên Một cảnh báo định mệnh Ai đó đang lẩm bẩm một mình , ánh đèn đường đổ dài đơn độc Và sẽ đến thời khắc của bình minh Ánh sáng ngày lấp lánh Tôi vẫn phải chờ đợi ánh bình minh Vẫn phải nghĩ về một cuộc sống mới Và tôi không được quyền từ bỏ tình yêu ấy Khi ánh bình minh vừa đến Tối nay rồi cũng sẽ là một kỷ niệm Và một ngày mới sẽ lại bắt đầu Đốt cháy hết đi những ngày mờ ám khói Mùi vị lạnh buốt của ban mai Một ánh đèn đường vụt tắt , Lại một đêm nữa cũng mới vừa kết thúc Một ngày khác lại bắt đầu hé rạng Hãy chạm khẽ vào tôi, Thật dễ dàng bỏ tôi lại một mình Tất cả cô đơn với nỗi niềm ký ức Trong những ngày của tôi còn dưới ánh mặt trời . Nhưng nếu như em khẽ chạm vào tôi, Em sẽ hiểu thế nào là niềm hạnh phúc Nhìn kìa em , ngày mới đã bắt đầu ...
=====================================
MEMORY
Midnight
Not a sound from the pavement
Has the moon lost her memory
She is smiling alone
In the lamplight
The withered leaves collect at my feet
And the wind begins to moan
Memory
All alone in the moonlight
I can smile happy your days ( I can dream of the old days)
Life was beautiful then
I remember the time I knew what happiness was
Let the memory live again
Every street lamp seems to beat
A fatalistic warning
Someone mutters and the street lamp gutters
And soon it will be morning
Daylight
I must wait for the sunrise
I must think of a new life
And I mustnt give in
When the dawn comes
Tonight will be a memory too
And a new day will begin
Burnt out ends of smoky days
The still cold smell of morning
A street lamp dies ,another night is over
Another day is dawning
Touch me,
It is so easy to leave me
All alone with the memory
Of my days in the sun
If you touch me,
Youll understand what happiness is
Look, a new day has begun...
====================================
VÀI NÉT VỀ NHẠC PHẨM MEMORY - BARBRA STREISAND
Memories là một album được phát hành bởi Barbra Streisand vào năm 1981. Nó chủ yếu là một bộ sưu tập các tác phẩm đã được phát hành trước đó, nhưng bao gồm ba bài hát mới được thu âm. Album được RIAA chứng nhận 5 × Bạch kim , vươn tới vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng album của Mỹ. Lần đầu tiên Memory được phát hành trên Columbia, sau đó được phát hành lại dưới dấu ghi CBS năm 1981 với bốn bài hát được bổ sung. Tại Anh, nơi nhạc phẩm này được phát hành như Love Songs, đã vươn tới vị trí số 1 trên bảng xếp hạng album trong chín tuần liên tiếp và trở thành album bán chạy nhất năm 1982 tại Anh, đây cũng là album đầu tiên của nữ ca sĩ đạt được danh hiệu cao quý . Album Memory được chứng nhận bạch kim ở Anh (trước khi được trao giải thưởng đa bạch kim), và 6 x bạch kim ở Úc. Theo ghi chú của phiên bản hồi tưởng của Barbra: Chỉ dành cho Record, album này cũng nhận được chứng nhận kỷ lục ở Hòa Lan và Thụy Sĩ . Ba nhạc phẩm chưa được phát hành trước đó, 'Memory', 'Comin 'In and Out of Your Life', và 'Lost Inside of You' đã xuất hiện trong album. 'Comin' In and Out of Your Life 'là thành công nhất trong các single mới, đạt đỉnh điểm ở vị trí thứ 11 trên Billboard Hot 100 tại Mỹ.
Album Memory cũng đã giành được giải Album bán chạy nhất tại Lễ trao giải Brit năm 1983.
==================================== Tiểu sử BARBRA STREISAND
Barbra Joan Streisand (sinh ngày 24 tháng 4 năm 1942) là một nhà sáng tác nhạc, nữ diễn viên điện ảnh, kịch và ca sĩ Mỹ, đồng thời cũng là nhà hoạt động chính trị cấp tiến, nhà sản xuất phim và nhà đạo diễn phim. Bà đã giành được giải thưởng Oscar cho danh hiệu Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và Bài hát hay nhất trong phim cũng như các giải Emmy, Grammy, Quả Cầu Vàng. Streisand đã được xếp vào hàng nghệ sĩ nữ có album bán chạy nhất mọi thời đại ở Hoa Kỳ trong vòng hơn 30 năm, theo RIAA. Bà được xem như một trong những nghệ sĩ biểu diễn nữ thành công nhất trong lịch sử ngành giải trí hiện đại và là nữ ca sĩ bán được nhiều album nhất trong lịch sử âm nhạc Mỹ, được RIAA xác nhận là hơn 71 triệu đĩa ghi âm. Tính kiên định lạ thường và sự nổi tiếng được giữ vững đã tiếp tục giữ được sự nổi tiếng của bà trước công chúng trong 47 năm trong nghề âm nhạc điện ảnh.
Thời niên thiếu
Streisand được sinh ra với tên gọi 'Barbara Joan Streisand ở Williamsburg, Brooklyn, Thành phố New York trong một gia đình bố mẹ là người Mỹ gốc Do Thái. Cha của Barbra là một giáo viên tại một trường trung học và đã qua đời lúc cô bé mới 15 tuổi; cô bé đã có một mối quan hệ cơm không lành canh không ngọt với dượng ghẻ Louis Kind. Cô có một em gái tên là Roslyn Kind cũng là một nghệ sĩ biểu diễn. Mẹ cô, Diana Ida Rosen, một thư ký tại trường phổ thông, đã không khuyến khích con gái mình theo đuổi nghề biểu diễn, cho rằng Barbara không đủ sức hấp dẫn. Cô đã được học tại Erasmus Hall High School, nơi cô tốt nghiệp hạng thứ 4 trong lớp học của cô năm 1959, và nơi cô hát ở trong giàn đồng ca của trường với Neil Diamond. Ở đây cô cũng làm bạn với Bobby Fisher, người sau này là Vua Cờ Bobby Fischer. Cô đã không bao giờ học đại học. Streisand đã từng nói rằng: "Tôi ghét nó (Brooklyn, New York) khi tôi lớn lên, nhưng bây giờ tôi nhận ra rằng tôi đã lấy được sức mạnh từ gốc rễ của mình." (17 tháng 10 năm 2006; hòa nhạc ở Toronto).
Sự nghiệp truyền hình, sân khấu và ca hát
Sau một cuộc thi ca nhạc, Streisand đã trở thành một ca sĩ hộp đêm khi cô còn tuổi teen. Ban đầu cô muốn trở thành một diễn viên xuất hiện ở một số tác phẩm điện ảnh ở Off-Off-Broadway, bao gồm với tác phẩm với nữ nghệ sĩ đang được ngưỡng mộ lúc đó là Joan Rivers, nhưng khi bạn trai cô là Barry Dennen đã giúp cô có một buổi biểu diễn tại hộp đêm; lần đầu biểu diễn ở một quán bar dân đồng tính nam ở Greenwich Village của Manhattan năm 1960 — cô đã giành được thành công như một ca sĩ. Vào lúc này, cô đã rút gọn tên mình thành Barbra để khiến nó dễ phân biệt hơn. Năm 1961 Streisand đã ký một hợp đồng với Winnipeg, nhà hàng "Town and Country" của Manitoba . Các cuộc biểu diễn của cô đã nhận được critical approval, nhưng người chủ nhà hàng đã không đủ hiểu biết để hiểu được cái hay của âm những trình diễn bởi Barbra.
Năm 1962 Streisand lần đầu xuất hiện ở Broadway, trong một vai nhỏ nhưng lại tạo nên danh tiếng trong vở nhạc kịch I Can Get It for You Wholesale (1962). Cô cũng đã ký hợp đồng ghi âm đầu tiên năm đó với hãng Columbia Records. Album đầu tiên của cô, The Barbra Streisand Album, đã giành được hai Giải Grammy năm 1963. Sự thành công âm nhạc của cô tiếp tục, và có lục, 3 album đầu tiên của Streisand đã đồng thời xuất hiện ở top 10 Album pop Billboard - một thành công bất thường vì lúc đó nhạc rock and roll và ban nhạc The Beatles chiếm lĩnh bảng xếp hạng này.
Các cuộc biểu diễn ở Broadway
NămTênGhi chú
1961-1963I Can Get It for You WholesaleTony đề cử giải Best Performance by a Featured Actress in a Musical
1964-1965Funny GirlTony đề cử Best Leading Actress in a Musical
Các chương trình truyền hình đặc biệt
NămTênGhi chú
1965My Name Is Barbra
1966Color Me Barbra
1967The Belle of 14th Street
1968A Happening in Central Parkquay ngày 17 tháng 6 năm 1967
1973Barbra Streisand... and Other Musical Instruments
1975Funny Girl to Funny Lady
1976Barbra: With One More Look at You
1983A Film Is Born: The Making of 'Yentl'
1986Putting it Together: The Making of The Broadway Album
1987One Voice
1994Barbra Streisand: The ConcertĐồng sản xuất
2000Barbra Streisand: Timeless
Danh sách các phim tham gia
NămTênVaiGhi chú
1968Funny GirlFanny Brice
1969Hello, Dolly!Dolly Levi
1970On a Clear Day You Can See ForeverDaisy Gamble / Melinda Tentrees
1970The Owl and the PussycatDoris Wilgus/Wadsworth/Wellington/Waverly
1972What's Up, Doc?Judy Maxwell
1972Up the SandboxMargaret Reynolds
1973The Way We WereKatie Morosky
1974For Pete's Sake (phim)Henrietta 'Henry' Robbins
1975Funny LadyFanny Brice
1976A Star Is BornEsther Hoffman HowardNhà sản xuất
1979The Main EventHillary KramerNhà sản xuất
1981All Night LongCheryl Gibbons
1983YentlYentl/AnshelNhà sản xuất, đạo diễn, kịch bản
1987NutsClaudia Faith DraperNhà sản xuất
1991The Prince of TidesDr. Susan LowensteinNhà sản xuất, đạo diễn
1996The Mirror Has Two FacesRose MorganNhà sản xuất, đạo diễn
2004Meet the FockersRoz Focker
Giải thưởng
NămGiải thưởngHạng mụcTác phẩmKết quảChú thích
1964GrammyNữ ca sĩ trình diễn pop xuất sắt nhấtThe Barbra Streisand AlbumĐoạt giải
Album của nămĐoạt giải
1965GrammyNữ ca sĩ trình diễn pop xuất sắt nhấtPeopleĐoạt giải
Giọng nữ pop xuất sắc nhấtĐoạt giải
1966GrammyNữ ca sĩ trình diễn pop xuất sắt nhấtMy Name Is BarbraĐoạt giải
1968OscarNữ diễn viên chính xuất sắc nhấtFunny GirlĐoạt giải
1969Quả Cầu VàngNữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong phim nhạc hoặc kịchFunny GirlĐoạt giải
1977Quả Cầu VàngNữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong phim nhạc hoặc kịchA Star Is BornĐoạt giải
GrammyGiọng nữ Pop xuất sắc nhấtLove Theme From A Star Is BornĐoạt giải
1978Grammybài hát của nămEvergreenĐoạt giải
1981Grammynhóm nhạc trình diễn giọng Pop xuất sắc nhấtGuiltyĐoạt giải
1984Quả Cầu Vàngđạo diễn xuất sắc nhấtYentlĐoạt giải
1987GrammyGiọng nữ Pop xuất sắc nhấtThe Broadway AlbumĐoạt giải
1995Emmymàn trình diễn cá nhân trong nhiều chương trình đa dạng hoặc chương trình ca nhạcBarbra Streisand: The ConcertĐoạt giải
Grammythành tựu trọn đờiĐoạt giải
2000Cecil B. DeMilleĐoạt giải
2001AFIthành tựu trọn đờiĐoạt giải
Emmymàn trình diễn cá nhân trong nhiều chương trình đa dạng hoặc chương trình ca nhạcBarbra Streisand: TimelessĐoạt giải
Barbra Streisand nổi tiếng là một nghệ sĩ đa tài. Đó là một nhà sáng tác nhạc, một ca sĩ, nữ diễn viên điện ảnh, nhà sản xuất phim và đạo diễn phim xuất sắc.
Người phụ nữ chơi cờ vua hay nhất mọi thời đại
Audrey Hepburn - biểu tượng bất tử
Viên kim cương của điện ảnh Pháp
Barbra Streisand có tên khai sinh là Barbara Joan Streisand, sinh ngày 24/4/1942 ở Williamsburg, Brooklyn, thành phố New York (Mỹ) trong một gia đình bố mẹ là người Mỹ gốc Do Thái.
Cha của Barbra là giáo viên tại một trường trung học, qua đời lúc cô bé mới 15 tuổi. Mẹ cô, bà Diana Ida Rosen, một thư ký tại trường phổ thông, cho rằng Barbara không đủ sức hấp dẫn nên không khuyến khích con gái mình theo đuổi nghề ca hát.
Streisand theo học phổ thông tại trường Erasmus Hall High School, tại đây cô tham gia trong dàn đồng ca của trường. Sau khi tốt nghiệp phổ thông xếp hạng thứ 4 trong lớp vào năm 1959, cô không học lên đại học.
Chân dung nghệ sĩ Barbra Streisand
Sau một cuộc thi ca nhạc, Streisand trở thành ca sĩ hộp đêm khi đang là tuổi teen. Năm 1960, lần đầu biểu diễn tại một quán bar ở Greenwich Village của Manhattan, cô đã thành công như một ca sỹ có tài. Vào lúc này, cô đã rút gọn tên mình thành Barbra để dễ phân biệt hơn.
Barbra Streisand nhờ tài năng thiên phú và chất giọng cao vút đã giành được nhiều vai trong các bộ phim nổi tiếng và hợp đồng thu đĩa trị giá hàng triệu đô la. Năm 1962, Barbra lần đầu xuất hiện ở sân khấu Broadway trong một vai diễn nhỏ của vở nhạc kịch I Can Get It for You Wholesale nhưng đã tạo được tiếng vang. Cô cũng ký hợp đồng ghi âm đầu tiên năm đó với hãng Columbia Records. Album đầu tiên của cô có tên là The Barbra Streisand Album đã giành được 2 giải Grammy năm 1963. Tiếp tục hành công trong sự nghiệp âm nhạc, 3 album đầu tiên của Streisand đồng thời xuất hiện ở top 10 album nhạc Pop trên bảng xếp hạng Billboard. Đây là một thành công đột phá vì lúc đó nhạc Rock and Roll và ban nhạc The Beatles đang chiếm lĩnh bảng xếp hạng này.
Bằng một chất giọng khỏe khoắn và cao vút lạ thường, những bài hát do cô trình bày đều mang đậm dấu ấn phong cách Barbra.
Trong suốt những năm 70 của thế kỷ trước, tên tuổi của cô luôn thống trị các bảng xếp hạng nhạc Pop với những bài hát The way we were, Evergreen, No more tears, Woman in love... Vào cuối thập niên này, Barbra được đánh giá là nữ ca sĩ xuất sắc nhất tại Mỹ, với số lượng album bán ra chỉ xếp sau vua nhạc Rock Elvis Presley và nhóm danh ca Beatles huyền thoại.
Barbra Streisand cũng là nữ nghệ sĩ có album bán chạy nhất mọi thời đại trong vòng hơn 30 năm, được RIAA (Recording Industry Association of America – Hiệp hội công nghiệp ghi âm Mỹ) xác nhận hơn 71 triệu đĩa ghi âm. Tính đến nay, Barbra đã có 50 đĩa vàng, 30 đĩa bạch kim và 13 album bạch kim.
Barbra được xem như một trong những nữ nghệ sĩ biểu diễn thành công nhất trong lịch sử ngành giải trí hiện đại và là nữ ca sĩ bán được nhiều album nhất trong lịch sử âm nhạc Mỹ.
Đầu những năm 1980, người Việt biết đến Barbra Streisand nhờ tình khúc Woman in Love hát chung với ban nhạc The Beegees. Woman in Love là bài hát thành công nhất trong sự nghiệp âm nhạc của Barbra, giữ vị trí số 1 trong ba tuần liên tiếp của bảng xếp hạng Billboard. Woman in Love xuất hiện ở Sài Gòn và đã làm say mê mọi tầng lớp trong xã hội, đi đến quán cà phê nhạc nào, người ta cũng nghe thấy tiếng hát của Barbra.
Tháng 9/1993, Barbra đã thực hiện live show sau hơn 10 năm vắng bóng trên thị trường âm nhạc để chuyển sang lĩnh vực điện ảnh. Toàn bộ vé bán hết chỉ trong vòng chưa đầy một giờ đồng hồ. Mức giá lên đến 1.500 USD/vé đã đưa Barbra lên vị trí ca sĩ đắt giá nhất trong lịch sử. Tạp chí Time gọi chương trình này là “sự kiện âm nhạc thế kỷ”.
Bên cạnh ca hát, tài năng diễn xuất của Barbra cũng được thể hiện trong bộ phim âm nhạc cổ điển Hello Dolly năm 1969, đem về cho ngôi sao 27 tuổi này đề cử giải thưởng Quả cầu vàng.
Bộ phim Yentl (1983) do Barbra vừa sản xuất, đạo diễn, viết kịch bản và đảm trách một vai cũng đã nhận được 5 đề cử Oscar và được đạo diễn Steven Spielberg đánh giá là một tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao. Bộ phim đã mang về cho Barbra giải thưởng Quả cầu vàng dành cho đạo diễn xuất sắc nhất năm 1984.
Cuộc đời nghệ thuật của Barbra trải dài trên 4 bốn thập niên với hơn 60 album và phim mang lại nhiều giải thưởng lớn: 2 giải Oscar dành cho nữ diễn viên xuất sắc nhất (phim Funny Girl năm 1968) và sáng tác nhạc hay nhất (bài hát Evergreen trong phim A star is born năm 1976); 8 giải Grammy - giải thưởng âm nhạc cao quí nhất của nước Mỹ; 5 giải Emmy; 8 giải điện ảnh Golden Globe; 3 giải People Choice Awards và nhiều giải truyền hình khác.
Bước sang độ tuổi lục tuần, người ca sĩ huyền thoại này vẫn tiếp tục hát với tất cả xúc cảm nghệ thuật của mình và làm say mê biết bao người yêu âm nhạc khắp thế giới. Buổi diễn đầu tiên của bà ở Anh ngày 18/7/2007, vé đã bán sạch ngay sau 20 phút dù giá cho một ghế hạng tốt nhất lên đến 600 bảng. Đây là buổi diễn nằm trong chuyến lưu diễn châu Âu của bà, qua Paris, Vienna, Nice và Dublin. Tiền bán vé sẽ được chuyển vào Quỹ Streisand, hỗ trợ các hoạt động bảo vệ môi trường, nhân quyền và trẻ em bất hạnh.
Nổi danh từ những năm 60 của thế kỷ trước, Barbra Streisand đến nay vẫn tạo cho mình được một vị thế vững chắc trong lòng công chúng của thế kỷ XXI.
Đóng góp to lớn của bà không chỉ cho ngành âm nhạc và điện ảnh của nước Mỹ mà Barbra Streisand còn vinh dự là người đầu tiên đón nhận huân chương Bắc Đẩu bội tinh do đích thân Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy trao tặng.
Bắc đẩu bội tinh là huân chương cao quý của Nhà nước Pháp dành cho những cá nhân có đóng góp nổi bật cho nền văn hóa nghệ thuật của nhân loại nói chung và của nước Pháp nói riêng.
Với những thành tựu đã đạt được trong sự nghiệp ca nhạc, điện ảnh của mình, Barbra Streisand xứng đáng được vinh danh như là một nghệ sĩ vĩ đại của thế kỷ.
Tiếng hát muôn thuở của nữ ca sĩ Barbara Streisand
14/01/2010
Trong chương trình Nhạc Mỹ chọn lọc hôm nay, mời quí thính giả thưởng thức tiếng hát muôn thuở của nữ ca sĩ Barbra Streisand.
Barbra Streisand được xem là một trong những cây cổ thụ trong nền âm nhạc Hoa kỳ. Dù đã nổi tiếng thế giới từ thập niên 1960 nhưng mãi đến đầu năm 1980, người Việt trong nước mới biết đến Barbra Streisand nhờ tình khúc “Woman In Love” hát chung với ban nhạc The Beegees. Không chỉ nổi tiếng qua âm nhạc, Barbra Streisand còn là một tài tử lừng danh, như cuốn phim âm nhạc cổ điển “Hello Dolly” và gần mới đây xuất hiện trong cuốn phim hài hước “Meet the Fockers” năm 2005. Cuộc đời nghệ thuật của Barbra Streisand trải dài qua hơn 4 thập niên, từ những năm đầu của 1960 đến hôm nay với 60 đĩa hát và phim ảnh. Đóng góp của bà cho ngành âm nhạc và điện ảnh của nước Mỹ vô cùng to lớn và dù ở tuổi 63, bà vẫn không dừng chân. Một trong những tác phẩm âm nhạc gần gũi nhất với người Việt Nam trong nước là vào đầu thập niên 1980 khi nhạc phẩm Woman in Love xuất hiện ở Sài gòn và đã làm say mê mọi tầng lớp trong xã hội, đi đến quán cà phê nhạc nào, người ta cũng nghe thấy tiếng hát của Barbra Streisand.
WOMAN IN LOVE
Cuộc đời âm nhạc và điện ảnh của Barbra Streisand đã mang lại cho bà 2 giải Oscar, 5 giải Grammy tức là giải âm nhạc cao quí nhất của nước Mỹ, 8 giải điện ảnh Golden Globe, 3 giải People Choice Awards và nhiều giải truyền hình khác, chưa kể đến số thu từ những đĩa nhạc vàng. Sinh trưởng từ thành phố Brooklyn ở New York, là một người gốc Do thái di cư sang Hoa kỳ, Barbra Streisand nhờ tài năng thiên phú và chất giọng cao vút đã giúp bà dành được nhiều vai trong các cuốn phim nổi tiếng và hợp đồng thu đĩa trị giá nhiều triệu mỹ kim, ngay khi chập chững bước vào nghiệp ca hát và điện ảnh. Ngoài giọng hát, Barbra Streisand còn là một nhà đạo diễn tài ba với cuốn phim Yentil. Bà cũng là người tranh đấu thường xuyên cho những nỗ lực kêu gọi thế giới nhìn nhận những sự thống khổ trong nạn diệt chủng người Do thái. Cùng với người bạn thân là nam danh ca Neil Diamond, cả hai đã thu âm nhạc phẩm “You Don’t Bring Me Flowers” và trở thành bài hát được yêu chuộng nhất tại Hoa kỳ và trên thế giới cuối thập niên 1970.
YOU DON’T BRING ME FLOWERS
Nhạc phẩm You Don’t Bring Me Flowers, “Anh không còn mang hoa tặng em nữa” với hai tiếng hát Barbra Streisand và Neil Diamong. Vào đầu thập niên 1980, Barbra Streisand được đưa vào danh sách giọng ca nữ thành công nhất trong lịch sử âm nhạc Hoa Kỳ, những đĩa hát do bà thu âm chỉ bán sau Elvis Presley và The Beatles. Năm 1982, nhà bình luận âm nhạc Hoa Kỳ Stephen Holden ghi nhận Streisand là tiếng hát tạo ảnh hưởng mạnh nhất trong nền âm nhạc thời đại chỉ sau Frank Sinatra. Cuộc đời âm nhạc của Barbra Streisand bước vào một ngã rẽ quan trọng khi vào cuối thập niên 1970, bà được ban nhạc The Beegees mời thu âm đĩa hát mang tên “Guilty” hay Tội Lỗi, đĩa hát được xem là bán chạy nhất ở Hoa kỳ và trên thế giới. Hầu hết những bài hát trong đĩa Guilty đều hay nhưng người ta nhớ nhất vẫn là nhạc phẩm “Woman In Love”, bên cạnh còn có tình khúc mang tên “What kind of Fools”, nói lên tâm trạng của hai người tình chỉ vì một giây phút bồng bột bất chợt nào đó đã làm mất tình yêu. Mời quí thính giả nghe nhạc phẩm What Kind Of Fool với hai tiếng hát của Barbra Streisand và nhạc sĩ Barry Gibbs của ban nhạc the Beegees.
WHAT KIND OF FOOL
Nhạc phẩm “What Kind of Fool” tạm dịch là “Thật là sự khờ dại” với hai tiếng hát Barbra Streisand và Barry Gibbs của ban nhạc The Beegees trích từ đĩa “Guilty”. Barbra Streisand thu âm 60 đĩa hát kể từ khi bước vào nghiệp âm nhạc đến nay và hầu hết những đĩa hát này bán rất chạy. Với kỹ thuật điêu luyện, giọng hát mềm mại truyền cảm, nên mọi tầng lớp trong xã hội đều có thể dễ dàng chấp nhận tiếng hát của Barbra Streisand. Trong lịch sử âm nhạc của Hoa kỳ, có thể nói chưa một nữ ca sĩ nào đạt được sự thành công như của Barbra Streisand. Bà có số đĩa thu cao nhất và cùng lúc hoạt động trong ngành điện ảnh. Với chất giọng độc đáo, Barbra Streisand đã biết sử dụng giọng hát của mình làm bàn đạp sang các lãnh vực khác, nhất là đối với khả năng giao tiếp của bà ở Hollywood. Dù hoạt động âm nhạc có phần nào bị gián đoạn khi nền âm nhạc Hoa kỳ bị lấn áp bởi các thể loại Rock and Roll, Barbra Streisand không để bị ảnh hưởng và dành thì giờ cho điện ảnh, nhưng tiếng hát của bà tiếp tục chinh phục thính giả trung niên ở Hoa kỳ và trên thế giới cho đến hôm nay. Vào cuối năm 2004, Barbra Streisand tung ra đĩa hát “Guilty Pleasure” tạm dịch là “Khoái Lạc Tội Lỗi” cũng với chất giọng cổ điển nhưng với phần hòa âm mới, đĩa hát được xếp vào hàng đĩa vàng, đứng hạng 5 ở Hoa Kỳ và hạng 3 ở Anh Quốc. Người ta thấy bà đặt tên cho đĩa hát là “Guilty Pleasure” cho thấy dư âm của đĩa hát “Guilty” hát với ban nhạc the Beegees trước đây, đã có sự ảnh hưởng lớn trong cuộc đời âm nhạc của Barbra Streisand. Mời quí thính giả thưởng thức nhạc phẩm “I’ve Dreamed of You” Mơ Về Anh bài hát đầu tiên trong đĩa hát mới nhất của Barbra Streisand “Guilty Pleasure”.
I’VE DREAMED OF YOU
Nhạc phẩm I’ve Dreamed of you, Mơ Về Anh với tiếng hát Barbra Streisand trích từ đĩa hát mới nhất mang tên Guilty Pleasure, nhạc phẩm này đã kết thúc chương trình “Nhạc Mỹ Tuyển Chọn” của đài Tiếng Nói Hoa Kỳ do Hoàng Trọng Thụy biên soạn và thực hiện, cảm ơn sự theo dõi của quí thính giả và xin hẹn lại vào chương trình kỳ sau.
Quỹ Streisand
Mỗi năm, Quỹ Streisand góp phần vào nhiều mục đích với nguyên nhân khác nhau.
Quỹ rất hân hạnh được hỗ trợ nhiều tổ chức từ thiện. Tuy nhiên, do có sự quan tâm to lớn như vậy , nên việc tài trợ của Quỹ chỉ thực hiện bằng lời mời tham dự . Chúng tôi luôn quan tâm đến việc tìm hiểu các chương trình phi lợi nhuận mới, các chương trình có ý nghĩa xuất sắc. Mặc dù chúng tôi không thể đảm bảo rằng chúng tôi sẽ mời các bạn gửi đến những đề xuất , ý kiến đóng góp , các tổ chức và cá nhân có thể liên hệ với chúng tôi theo địa chỉ bên dưới.
Địa chỉ mới của Streisand Foundation là:
1327 Ocean Ave
Suite H
Santa Monica, CA 90401
Đây là một vài trong số các tổ chức mà chúng tôi hiện đang hỗ trợ:
Union of Concerned Scientists
Brennan Center for Justice
Planned Parenthood Federation của
IAVA
Mother Jones
Advancement Project
Liên minh các khoa học gia (USC)
UCS đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu sự vượt mức khí phát thải và tiêu chuẩn sử dụng nhiên liệu hiệu quả nhằm mục đích giảm một nửa lượng khí thải nóng lên toàn cầu của các loại xe ô tô đời mới và xe tải nhẹ vào năm 2025. Bằng kết quả của nhiều năm phân tích và vận động, những giúp đỡ của UCS giành được sự bảo vệ quốc tế đối với rừng nhiệt đới sẽ hạn chế được ít nhất 300 triệu tấn khí thải toàn cầu vào khí quyển mỗi năm, đó là một trong số nhiều thành công rất đáng kể khác. Bằng cách huy động các nhà khoa học và kết hợp tiếng nói của họ với những người ủng hộ, giáo dục, doanh nhân và những công dân có liên quan khác, UCS đã xây dựng danh tiếng về sự công bằng và chính xác và tích lũy một lịch sử ấn tượng về thành tựu.
Trung tâm Tư pháp Brennan (BCJ)
Trung tâm Brennan tại Trường Luật NYU là một viện nghiên cứu luật và chính sách phi chính phủ tìm cách cải thiện hệ thống dân chủ và công lý của quốc gia Hoa Kỳ . BCJ hoạt động để tổ chức các thể chế chính trị và luật pháp phải chịu trách nhiệm trước những lý tưởng về dân chủ của cả hai đối tượng : nước Mỹ và sự công bằng cho tất cả mọi người. Công việc của Trung tâm bao gồm từ quyền biểu quyết đối với chiến dịch cải cách tài chính , từ công lý chủng tộc trong luật hình sự đến bảo vệ Hiến pháp trong cuộc chiến chống khủng bố. Đây vừa là một viện tư duy chiến lược , một công ty luật nhằm lợi ích cộng đồng , vừa là một nhóm vận động bộ phận và trung tâm truyền thông - Trung tâm Brennan luôn tìm kiếm sự thay đổi có ý nghĩa, có thể đo lường được các chính sách trong các hệ thống mà quốc gia Hoa Kỳ quản lý.
Quỹ sức khỏe gia đình Planned Parenthood Federation of America
Qũy sức khỏe Planned Parenthood được xem như là nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và tình dục hàng đầu của quốc gia Hoa Kỳ , đồng thời ủng hộ hàng triệu phụ nữ, nam giới và thanh thiếu niên trên toàn thế giới. Trong gần 100 năm, Planned Parenthood đã thúc đẩy một cách tiếp cận chung về sức khỏe và hạnh phúc của phụ nữ, dựa trên sự tôn trọng quyền của từng cá nhân để đưa ra quyết định độc lập, thông tin về sức khỏe, giới tính và kế hoạch hóa gia đình. 68 chi nhánh độc lập, được quản lý tại địa phương trên toàn quốc hoạt động trên 700 trung tâm y tế, phản ánh nhu cầu đa dạng của cộng đồng của họ. Các trung tâm y tế này cung cấp một loạt các dịch vụ chăm sóc sức khỏe an toàn và đáng tin cậy - và hơn 90% là phòng ngừa, chăm sóc chính, giúp ngăn ngừa việc có thai ngoài ý muốn thông qua biện pháp tránh thai, giảm lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục. các bệnh ung thư khác. Qũy sức khỏe Planned Parenthood cũng là một người ủng hộ các chính sách cho phép người Mỹ tiếp cận chăm sóc sức khỏe sinh sản toàn diện và tình dục, giáo dục và thông tin.
Quỹ cựu chiến binh (IAVA)
Được thành lập năm 2004 bởi một cựu chiến binh Iraq, Iraq và Afghanistan Cựu chiến binh Mỹ (IAVA) là tổ chức đầu tiên và lớn nhất cho các cựu chiến binh và gia đình của họ, với gần 300.000 thành viên và những người ủng hộ trên toàn quốc. IAVA là một tổ chức cựu chiến binh thế kỷ 21, đã dành riêng cho 2,6 triệu cựu chiến binh Iraq và Afghanistan . Quỹ IAVA đã xây dựng ngôi nhà chung đầu tiên nhằm tri àn các cựu chiến binh và đáp ứng các nhu cầu trong suốt phần đời còn lại của họ . IAVA nỗ lực xây dựng một thế hệ cựu chiến binh được trao quyền cho những người lãnh đạo bền vững cho đất nước Hoa Kỳ và cộng đồng địa phương của họ.
Tổ chức Mother Jones (MJ)
Mother Jones là một tổ chức tin tức phi lợi nhuận chuyên về báo cáo tư pháp, chính trị và xã hội. MJ hiện có hai 'nền tảng' chính: một tạp chí quốc gia hai tháng một lần được trao giải thưởng (lưu hành 240.000 bản) và một trang web có tính năng báo cáo mới, nguyên bản 24-7. (Trong quá khứ, MJ đã từng có một chương trình phát thanh và các chương trình truyền hình đặc biệt; các công viên chủ đề mới đang ở giai đoạn khái niệm.) ‘Tại sao bạn nên đọc hoặc ủng hộ chúng tôi? Bởi vì 'nền báo chí thông minh, không sợ hãi' sẽ giúp mọi người hiểu được rằng - 'thông tin' là không thể thiếu đối với một nền dân chủ đang thực sự hoạt động. '
Dự án cao cấp Advancement Project (AP)
Dự án Advancement Project kỹ sư hệ thống có quy mô lớn luôn thay đổi nhằm khắc phục sự bất bình đẳng, mở rộng cơ hội và mở đường dẫn cho sự tiến bộ . Mục tiêu của AP là các thành viên của tất cả các cộng đồng đều có sự an toàn, cơ hội và sức khỏe mà họ cần để phát triển. Dự án tiến bộ AP hoạt động trong các lĩnh vực:
Vốn chủ sở hữu giáo dục
Vốn cổ phần trong quỹ công chúng
Thành phố lành mạnh
Hòa bình đô thị.
------------------------------------------------------------------------------------------- Chớ khoe-khoang về ngày mai; Vì con chẳng biết ngày mai sẽ sanh ra điều gì. Hãy để cho kẻ khác khen-ngợi con, miệng con chẳng nên làm; Để cho một người ngoài tán-mỹ con, môi con đừng làm. Châm-ngôn 27:1-2
SÁO THẦN PAN và NHỮNG GIAI ĐIỆU QUYẾN RŨ TÂM HỒN .
Sáo pan (còn được gọi là panpipes hoặc syrinx) thuộc nhóm nhạc cụ hơi dựa trên nguyên tắc ống kín, gồm nhiều ống có chiều dài tăng dần (và đôi khi tăng chu vi). Nhiều loại sáo pan từ lâu đã được phổ biến như các nhạc cụ dân tộc . Các ống sáo thường được làm từ tre, nứa, hoặc lau sậy mọc tại địa phương. Các vật liệu sản xuất khác cũng có thể là gỗ, nhựa, kim loại và ngà voi.
Từ nguyên gốc .
Sáo pan được đặt tên theo từ Pan - trong thần thoại Hy lạp là thần của thiên nhiên và mục tử - thường được mô tả như một nhạc cụ thuộc bộ hơi .
Trong thần thoại Hy Lạp, Syrinx (Σύριγξ) là Nữ thần rừng xanh. Trong nỗ lực thoát khỏi tình cảm của thần Pan (một sinh vật nửa dê nửa người ), Syrinx đã tự biến hình thành sậy nước [hoặc calamos (mía sậy)] . Sau đó, thần Pan vì nhớ thương Syrinx nên đã cắt những ống sậy rỗng , xếp song song cạnh nhau và gắn chúng lại , tạo ra một nhạc cụ có tiếng thổi du dương mỗi khi nhớ đến nữ thần Syrinx . Người Hy Lạp cổ đại gọi công cụ này là Syrinx, để vinh danh Muse, và Pandean, hoặc Pan-pipe , Pan-flute . Syrinx hay Panflute ban đầu được xem là một nhạc cụ hơi chủ yếu của người Hy Lạp, sau đó đã được xử dụng bởi các người Etruscans tại các lễ hội và tiệc chiêu đãi của họ; người Etruscans gọi nó là sáo rò. Người La Mã cũng đã học cách dùng Syrinx từ người Hy Lạp và Etruscans, và họ cũng biểu diễn sáo Pan tại các buổi tiệc, lễ hội cũng như trong đám rước tôn giáo và tang lễ.
Pan và Daphnis - thế kỷ thứ nhất TCN bản sao La Mã của thế kỷ thứ 2 TCN gốc Hy Lạp
Nguồn https://en.wikipedia.org
Các ống rỗng của sáo pan được chốt lại ở một đầu, tại đó sóng âm đứng bị phản xạ tạo ra một nốt ngắn hơn quãng tám được tạo ra bởi một ống mở có chiều dài bằng nhau. Theo phong cách truyền thống Nam Mỹ, các ống sáo đều được tinh chỉnh để đạt được cao độ cần thiết bằng cách đặt những viên sỏi nhỏ hoặc hạt ngô khô vào đáy ống. Các nhà sản xuất đương đại các loại panpipes kiểu Rumani cong cũng xử dụng sáp (thường sáp ong) để điều chỉnh âm vực , dùng nút chai hoặc nút cao su để điều chỉnh đường kính ống sáo một cách linh hoạt hơn.
Âm học
Nguyên lý âm học của sáo pan dựa trên hơi thổi thoát ra ở phần cuối ống. Âm thanh được tạo ra bởi sự dao động luồng khí thổi qua lỗ mở ở đầu ống cộng hưởng. Chiều dài của ống xác định tần số cơ bản. Một âm thổi mức cao nhất nằm quãng âm 12 cơ bản của các ống sáo , nhưng có thể tạo một bước nhảy quãng 8 nếu sử dụng côn giảm dần.
Nguyên tắc cơ bản sáo pan là tần số và chiều dài của ống là tỷ lệ nghịch với nhau . Mỗi lần cao độ tăng lên một quãng tám thì tần số tăng gấp đôi. Vì có 12 nốt trong một thang âm hoặc một quãng tám đủ, nên mỗi nửa quãng trong một thang âm được nhân 2/12 nốt cơ bản để có được nốt bên cạnh nó. Bằng cách này, có thể tính toán chiều dài của bất kỳ ống sáo nào, nếu biết tần số cơ bản của một ống cho trước . Công thức tính chiều dài của ống sáo pan là L = (c / f) / 4 ("chiều dài lý thuyết L" bằng tốc độ của âm thanh c = 343 m / s, chia cho tần số mong muốn f (hertz), lấy số này chia thêm cho 4, Có thể đơn giản hóa và sắp xếp lại như sau : Chiều dài của ống (tính bằng cm) × Tần số ( hertz) = 8575). Do có sự nén hơi trong ống nên chiều dài phải ngắn hơn một chút để điều chỉnh âm vực .
Việc tăng thêm chiều dài cho ống sáo rất hữu ích cho nhà sản xuất, người ta có thể sử dụng nút chai hoặc phích cắm ở phía dưới để điều chỉnh cao độ. Một số dụng cụ sử dụng sáp hoặc bột viên để điều chỉnh âm vực cơ bản của mỗi ống. Một ống có đường kính bằng 1/10 chiều dài của nó mang lại một tông màu điển hình ( Timbre). Đường kính trong của ống khoảng từ 1/7 đến 1/14 chiều dài L là chấp nhận được. Một ống hẹp sẽ có âm thanh "reedy"( sáo sậy - âm rè) , trong khi một ống rộng sẽ có âm "flutey" (sáo ống -âm thánh thót ) . Một phương pháp chính xác hơn là nhân đường kính lỗ khoan cho 0,82 và lấy chiều dài ống trừ đi giá trị này . Điều này bù đắp cho tần số nén chậm trong ống và môi nhằm phụ thêm một phần cho thanh âm phát ra . Chỉ cần tinh chỉnh là có thể thay đổi cao độ cơ bản cho cả mật độ không khí lẫn nhiệt độ.
Xử dụng nhạc cụ
Sáo pan được chơi bằng cách thổi theo chiều ngang trên một đầu mở ngược với các cạnh bén trong của các ống. Mỗi ống được điều chỉnh tương ứng với một nốt chuẩn, được gọi là tần số cơ bản. Bằng cách thổi , nghĩa là, tăng áp lực hơi thở và lực căng của môi, các âm lẻ (các nốt có tần số là bội số lẻ của âm chuẩn), cũng có thể được tạo ra. Sáo pan Rumani có các ống được sắp xếp theo một mảng cong, cho phép người chơi dễ dàng tiếp cận tất cả các nốt bằng cách xoay đầu sáo. Những dụng cụ này cũng có thể chơi tất cả các âm sắc và trầm , với một kỹ thuật đặc biệt của cả hai cách nghiêng ống và chuyển động hàm , do đó làm giảm kích thước của ống mở và tạo ra một sự thay đổi cao độ. Một người chơi chuyên nghiệp có thể chơi bất kỳ âm vực nào và bất kỳ nốt nào. Có hai kiểu rung , rung bằng tay và bằng hơi thở . Với kiểu rung bằng tay , người chơi áp dụng một chuyển động nhẹ nhàng đến một đầu của sáo pan (thường là nốt cao) giống như cách rung violon đạt được bằng cách lắc bàn tay từ cổ tay. Với kiểu rung bằng hơi là kỹ thuật tương tự được sử dụng bởi người chơi sáo và các bộ gỗ hơi khác bằng cách sử dụng cơ hoành của người chơi.
Các sáo pan kiểu cong đã được phổ biến rộng rãi bởi nhạc sĩ Gheorghe Zamfir người Rumani . Ông đã đi lưu diễn rộng rãi và thu âm nhiều album âm nhạc sáo trong thập niên 1970. Một số nghệ sĩ khác cùng thời cũng đã bắt đầu thu âm nhiều tác phẩm được biểu diễn bằng sáo pan cong . Ngày nay có hàng ngàn người biểu diễn loại sáo này khắp châu Âu, châu Á và châu Mỹ. Cả hai biến thể sáo pan cong và truyền thống Nam Mỹ cũng rất phổ biến trong các nhóm nhạc truyền thống ở Peru và các nước khác được làm từ cây sồi trong sáng tác và biểu diễn âm nhạc Andean .
Tại Lào và Thái Lan, có một phiên bản sáo pan hình trụ được gọi là wot, được sử dụng trong âm nhạc dân gian . Người chơi thay đổi các nốt bằng cách xoay dụng cụ bằng tay, thay vì chuyển động đầu.
Nhạc sĩ người Mỹ Dom Flemons Nhóm Carolina Chocolate Drops biểu diễn sáo truyền thống của người Mỹ gốc Phi , cùng với harmonica .
Nguồn https://en.wikipedia.org
0:03 Bright Eyes
3:56 Sound Of Silence
7:06 Lonely Shepherd
11:28 Amazing Grace
14:34 If I Could
19:02 Memory
23:08 Sailing
26:56 Feelings
30:22 Wind of Change
34:45 Soleado
37:39 Unchained Melody
40:58 Exodus
44:03 Annie's Song
47:28 Anak
51:27 Love Changes Everything
54:49 Love Story
58:07 Hymne Vangelis
1:00:51 You Raise Me Up
1:04:48 The Winner Takes It All
1:09:30 Without you
1:13:09 I Have A Dream
1:17:38 It Must Have Been Love
1:21:52 A Whiter Shade Of Pale
1:26:50 Hey Jude
1:31:11 My Heart Will Go On
1:35:49 Sacrifice
1:40:41 One Day In Your Life
1:44:41 Yesterday
1:47:48 I Just Call To Say I Love You
1:51:56 Imagine
1:55:05 Hello
1:59:08 All At Once
* Der Einsame Hirte - The Lonely Shepherd - Người chăn cừu cô đơn
"Nhạc phẩm này có tên tiếng Đức là Der Einsame Hirte, tiếng Anh là “The Lonely Shepherd”, tiếng Việt tạm dịch là chàng mục đồng/chăn cừu cô đơn. Nhạc phẩm khi được thể hiện bằng Sáo Thần Pan là một sự kết hợp tuyệt vời. Nghe tiếng sáo khi nỉ non thánh thót, khi rộn rã tưng bừng ta như hình dung ra cảnh đồi núi mênh mang vùng Trung Âu, thấy tiếng gió rít qua các đồi núi làm tê tái người chăn cừu cô độc… Sở dĩ nhạc cụ này mang tên Sáo Thần Pan vì nó gắn liền với thần thoại Hy lạp về thần Pan và nàng Syrinx nên có các tên gọi là: Panflute, Panpipes hoặc Syrinx, người Việt ta hay gọi là Panflute, Sáo Thần Pan hoặc sáo quạt. Panflute cũng là nhạc cụ truyền thống của Rumania được Georghe Zamfir cải biên tăng số lượng từ 20 ống lên 22, 24…30 để mở rộng âm vực của nhạc cụ.
Nghệ sỹ Georghe Zamfir và nhạc phẩm Der Einsame Hirte lại có mối liên hệ mật thiết với một tên tuổi lẫy lừng khác của âm nhạc thế giới đương đại – Nhạc sỹ người Đức James Last, ông hoàng của những bản nhạc dễ nghe - đã bán được 80 triệu đĩa nhạc trên toàn thế giới, ở tuổi 86, ông vẫn thực hiện tour Non Stop Music, lưu diễn tại 21 thành phố châu Âu.
The Lonely Shepherd được James Last viết và phát hành lần đầu năm 1977 trong album Memories From Russia. Năm 1979 Zamphir thu âm The Lonely Shepherd cùng dàn nhạc James Last. Nhưng có lẽ phải đến khi The Lonely Shepherd được dùng làm nhạc nền cho phim Kill Bill 1 của Quentin Tarantino năm 2003 thì nó mới trở thành một bản nhạc có sức lan tỏa và lay động lòng người đến thế. Các DJs và độc giả các chương trình phát thanh âm nhạc của Mỹ đã xếp The Lonely Shepherd vào hàng “haunting music” là những bài nhạc khi nghe xong vẫn còn muốn nghe nữa, nghe mãi. Những bài nhạc này có cái gì đó hớp hồn, đi vào lòng người và mọi lứa tuổi đều thích nghe.
Nhạc phẩm với sáo Thần Pan này đang được đón nhận với sự tươi mới trong phần thể hiện của các nghệ sỹ trẻ, thế hệ sau Georghe Zamfir như: Petruța Cecilia Küpper, Leo Rojas./.
Phần trình diễn trong clip này thuộc chương trình biểu của Dàn nhạc “Johann Strauss Orchestra” (do Nghệ sỹ người Hà lan Andre Rieu sở hữu và chỉ huy) tại Bucharest vào các ngày 6,7,11,12,13, 14/6/2015. Jamfir là khách mời danh dự. Sân khấu cho dàn nhạc được dựng trên Quảng trường Hiến pháp đối diện Cung Nghị viện trước đây là Cung Ceaușescu. 19 ngàn vé của ngày biểu diễn đầu tiên đã được bán hết trong 2 ngày. Mọi người để ý màn hình ở đoạn từ “-3:44 đến – 3:38” sẽ thấy hình ảnh một chỉ huy dàn nhạc, đó chính là cha đẻ của nhạc phẩm, nhạc sỹ - chỉ huy dàn nhạc James Last. Điều đáng buồn là công chúng yêu âm nhạc nói chung và người mộ điệu nhạc phẩm The Lonely Sheppherd đã mất ông vào ngày 9/6/2015 giữa lúc tác phẩm yêu thích này đang được tấu lên và làm say đắm lòng người tại quê hương của Zamfir người góp công lớn trong việc phổ biến nhạc phẩm đến với công chúng yêu nhạc toàn cầu.
Leo Rojas' official music video for 'Der einsame Hirte'
Đây là nghệ sỹ sáo Thần Pan : Leo Rojas người Ecuador, hiện đang sinh sống tại Berlin. Nghệ sỹ tuổi tí này đã đoạt giải nhất cuộc thi "tìm kiếm tài năng" của Đài THQG Đức mùa 2011. Màn trình diễn của Leo đối với nhạc phẩm hơn trăm tuổi El Condo Pasa cũng được rất nhiều người mến mộ
JAMES LAST with GHEORGHE ZAMFIR - The Lonely Shepherd/Alouette
Gheorghe Zamfir Greatest Hits - Best Of Gheorghe Zamfir
------------------------------------------------------------------------------------------- Chớ khoe-khoang về ngày mai; Vì con chẳng biết ngày mai sẽ sanh ra điều gì. Hãy để cho kẻ khác khen-ngợi con, miệng con chẳng nên làm; Để cho một người ngoài tán-mỹ con, môi con đừng làm. Châm-ngôn 27:1-2
"One Moment in Time" là một bài hát đã đoạt giải Emmy được Albert Hammond và John Bettis sáng tác, Narada Michael Walden sản xuất và được trình bày bởi ca sĩ nhạc pop và R&B người Mỹ Whitney Houston dành cho Thế vận hội Mùa hè 1988 và Paralympic mùa hè tổ chức tại Seoul, Hàn Quốc. Đây là một bài hát bất hủ trong lịch sử thể thao, đứng top 10 trong các bảng xếp hạng tại nhiều quốc gia và được đề cử một giải Grammy ở hạng mục "Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất".
+ Nguồn Wikipedia
Bản Việt ngữ
* KHOẢNH KHẮC VĨNH CỬU VÀ TỰ DO .
Mỗi ngày tôi sống
tôi đều muốn nó trở thành
Một ngày cho tôi những điều tốt nhất
Tôi là người duy nhất
Nhưng không phải một mình
Ngày tốt nhất của tôi
Vẫn còn chưa biết đến
Tôi tự đập vỡ tim mình
Quên đi mọi lợi ích riêng tư
Để nếm được vị ngọt ngào ấy
Tôi phải đối mặt với nỗi đau
Đứng lên và rồi lại gục ngã
Tuy nhiên, vượt qua tất cả
Điều này vẫn còn lại rất nhiều
Tôi muốn đúng vào một khoảnh khắc
Khi tôi còn hơn là tôi đã nghĩ rằng mình có thể như vậy
Khi tất cả những giấc mơ của tôi là nhịp đập trái tim xa vời
Và những câu trả lời chỉ là tùy thuộc vào tôi
Hãy cho tôi một khoảnh khắc thời gian
Khi tôi đua tranh với vận mệnh của chính mình
Và trong khoảnh khắc đó
tôi sẽ cảm thấy
Tôi sẽ cảm thấy sự vĩnh cửu
Tôi đã từng sống
Tốt nhất
Tôi muốn tất cả
Không có thời gian dành cho những điều ít ỏi
Tôi đã đặt các kế hoạch
Bây giờ lại đặt cơ hội
Ở đây trong tay tôi
Hãy cho tôi một khoảnh khắc thời gian
Khi tôi còn hơn là tôi đã nghĩ rằng mình có thể như vậy
Khi tất cả những giấc mơ của tôi là nhịp tim đập xa vời
Và những câu trả lời chỉ là tùy thuộc vào tôi
Hãy cho tôi một chút thời gian
Khi tôi đua tranh với vận mệnh chính mình
Và trong một khoảnh khắc đó
tôi sẽ cảm thấy
Tôi sẽ cảm thấy sự vĩnh cửu
Bạn là người chiến thắng suốt trong đời mình
Nếu bạn nắm bắt được khoảnh khắc nào đó trong thời gian cuộc sống
Và làm cho thời điểm này tỏa sáng
Hãy cho tôi một chút thời gian
Khi tôi còn hơn là tôi đã nghĩ rằng mình có thể như vậy
Khi tất cả những giấc mơ của tôi là nhịp tim đập xa vời
Và những câu trả lời chỉ là tùy thuộc vào tôi
Hãy cho tôi một khoảnh khắc thời gian
Khi tôi tranh đua với vận mệnh mình
Và trong khoảnh khắc đó
tôi sẽ , tôi sẽ
Tôi sẽ được tự do
Tôi sẽ đạt đến đỉnh tự do TỰ DO
Trần hồng Cơ Lược dịch - 05/05/18 --------------------------------------------------------------- * Bản Anh ngữ
One Moment In Time
Each day I live
I want to be
A day to give the best of me
I'm only one
But not alone
My finest day
Is yet unknown
I broke my heart
For every gain
To taste the sweet
I face the pain
I rise and fall
Yet through it all
This much remains
I want one moment in time
When I'm more than I thought I could be
When all of my dreams are a heart beat away
And the answers are all up to me
Give me one moment in time
When I'm racing with destiny
And in that one moment of time
I will feel
I will feel eternity
I've lived to be
The very best
I want it all
No time for less
I've laid the plans
Now lay the chance
Here in my hands
Give me one moment in time
When I'm more than I thought I could be
When all of my dreams are a heart beat away
And the answers are all up to me
Give me one moment in time
When I'm racing with destiny
And in that one moment of time
I will feel
I will feel eternity
You're a winner for a lifetime
If you seize that one moment in time
Make it shine
Give me one moment in time
When I'm more than I thought I could be
When all of my dreams are a heart beat away
And the answers are all up to me
Give me one moment in time
When I'm racing with destiny
And in that one moment of time
I will be
I will be
I will be free
I will be I will be free
SỐNG TẬN TÂM , TẬN LỰC VÀ TỎA SÁNG NHỮNG NGÀY THÁNG TRONG CUỘC ĐỜI ĐỂ ĐẠT ĐẾN ĐỈNH CỦA VINH QUANG . NGHE DANA WINNER HÁT CA KHÚC " ONE MOMENT IN TIME" VÀ NGHĨ VỀ CHÍNH MÌNH .
Dana Winner is the stage name of Chantal Vanlee (born in Hasselt, 10 February 1965). She is a Belgian singer who is famous especially in Flanders, South Africa and the Netherlands.
Biography[edit]
In 1990 she released her first single Op het dak van de wereld, (Dutch: "On the roof of the world"), a cover of The Carpenters' Top of the World from 1973. In 1993 she became really popular with Woordenloos (Dutch: "Without words"). However, it was only in 1995 that she released her only hit single so far to reach the Dutch Top 40, Westenwind. This was a cover of the former hit One Way Wind by the Volendam group The Cats.
After her first success, Dana Winner also became well known in Germany and South Africa. At the end of the 1990s, she began singing in other languages and did not release an album in Dutch between 2000 and 2006. It was also in 2006 that she got a permanent memento in Bornem, along the SIM-route.
Discography
(1989): Op Het Dak Van De Wereld...
(1991): Adios
(1993): Regenbogen
(1994): Mijn Paradijs
(1995): Regen Van Geluk
(1996): Waar Is Het Gevoel?
(1997): Wo Ist Das Gefühl?
(1997): Geef Me Je Droom
(1998): In Love With You
(1999): Yours Forever
(1999): Ergens In Mijn Hart
(1999): Mein Weg...
(2000): Licht En Liefde
(2001): Rainbows Of Love
(2001): Unforgettable
(2002): Unforgettable Too
(2003): One Way Wind
(2003): Märchenland Der Gefühle
(2005): Beautiful Life
(2005): Het Laatste Nieuws
(2006): Als Je Lacht
(2008): Tussen Nu En Morgen
(2010): Parels Uit De Noordzee
(2011): Kerst Met Dana Winner
(2016): Puur[1]
References[edit]
Jump up ^ "Dana Winner Discography at Discogs". Discogs.
(in Dutch) Official homepage https://en.wikipedia.org/wiki/Dana_Winner
------------------------------------------------------------------------------------------- Even in darkness light dawns for the upright, for those who are gracious and compassionate and righteous.
Psalm 112:4 Mục-đích của sự răn-bảo, ấy là sự yêu-thương, bởi lòng tinh-sạch, lương-tâm tốt và đức-tin thật mà sanh ra.
I Ti-mô-thê 1:5
"Io che amo solo te" Phát âm tiếng Ý: [ˈiːo ke ˈaːmo ˈsoːlo te] (nghĩa Việt "Tôi yêu bạn") là một bài hát được sáng tác và biểu diễn bởi Sergio Endrigo do Luis Bacalov sắp xếp. Một trong những ca khúc thuộc loại top-hit hay nhất của Endrigo .Bài hát này được phát hành vào mùa hè năm 1962 nhưng đạt đến đỉnh thành công chỉ vào cuối năm ấy , tác phẩm cũng đạt được đạt vị trí thứ hai trong cuộc thi hit-parade Ý và bán được hơn 650.000 bản.
Theo Endrigo, bài hát này được lấy cảm hứng từ tình yêu của anh dành cho một nữ thư ký, cả âm nhạc và lời bài hát được sáng tác chỉ trong khoảng hai mươi phút. Đây có thể xem như một bài thánh ca cho tình yêu thuần khiết và đạt đến độ trung thực hầu như tuyệt đối . Năm 1974 bài hát được sử dụng bởi Ủy ban "Bỏ phiếu Thuận" cho cuộc trưng cầu dân ý về quyền ly dị ở Ý.
Bài hát này sau đó cũng đã được hát lại rất nhiều lần bởi một số nghệ sĩ, như Mina, Ornella Vanoni, Gianna Nannini, Rita Pavone, Massimo Ranieri, Nicola Di Bari, Franco Simone, Marco Mengoni, Claudio Baglioni và Fiorella Mannoia. "Io che amo solo te" cũng được đặt tên cho một bộ phim năm 2015, Io che amo solo te, khi đó bài hát do nữ danh ca Alessandra Amoroso biểu diễn .
Vài dòng về tác giả ca khúc IO CHE AMO SOLO TE (I LOVE ONLY YOU) - Sergio Endrigo
Sergio Endrigo (Pola, sinh 15 tháng 6 năm 1933 - Rome, mất 7 tháng 9 năm 2005) là một ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Ý.
Ông đã giành được giải thưởng Liên hoan Sanremo năm 1968 với tác phẩm nổi tiếng "Canzone Per Te", sau đó Sergio Endrigo tiếp tục hoàn thành tác phẩm đoạt giải lần thứ hai vào năm 1969 là "Lontano dalle occhi" và lần thứ ba vào năm 1970 với ca khúc "L'arca di Noè"; Trong sự nghiệp của mình, Sergio Endrigo đã cộng tác với một số nhà văn và nhà thơ như Gianni Rodari, Pier Paolo Pasolini, Vinicius de Moraes và Giuseppe Ungaretti cùng với các nhạc sĩ như Toquinho và Luis Bacalov.
C'è gente che ha avuto mille cose
Tutto il bene, tutto il male del mondo
Io ho avuto solo te
E non ti perderò, non ti lascerò
Per cercare nuove avventure
C'è gente che ama mille cose
E si perde per le strade del mondo
Io che amo solo te
Io mi fermerò e ti regalerò
Quel che resta della mia gioventù
Io ho avuto solo te
E non ti perderò, non ti lascerò
Per cercare nuove illusioni
C'e' gente che ama mille cose
E si perde per le strade del mondo
Io che amo solo te
Io mi fermerò e ti regalerò
Quel che resta della mia gioventù
**Bản tiếng Anh (English)
There are people who have had a thousand things
All the good, all the evil in the world
I only had you
And I will not lose you, I will not leave you
To look for new adventures
There are people who love a thousand things
And you lose on the streets of the world
I love only you
I will stop and I will give you
What's left of my youth
I only had you
And I will not lose you, I will not leave you
To look for new illusions
There are people who love a thousand things
And you lose on the streets of the world
I love only you
I will stop and I will give you
What's left of my youth
**Bản tiếng Việt
Có những người sở hữu hàng nghìn thứ
Tất cả những điều tốt lành, cả điều ác trên thế giới
Tôi chỉ có mình em
Và tôi sẽ không đánh mất em , tôi sẽ không bỏ em ở lại
Để tìm kiếm những cuộc phiêu lưu mới
Có những người yêu cả nghìn thứ
Và em lạc dấu mình trên các con đường trần thế
Tôi chỉ yêu em
Tôi sẽ dừng lại và tôi sẽ cho em
Những gì còn sót lại của tuổi trẻ mình
Tôi chỉ có em
Và tôi sẽ không đánh mất em, tôi sẽ không bỏ em ở lại
Để tìm kiếm những ảo tưởng mới
Có những người yêu cả nghìn thứ
Và em lạc dấu mình trên các con đường trần thế
Tôi chỉ yêu em
Tôi sẽ dừng lại và tôi sẽ cho em
Những gì còn sót lại của tuổi trẻ mình
------------------------------------------------------------------------------------------- Even in darkness light dawns for the upright, for those who are gracious and compassionate and righteous.
Psalm 112:4 Mục-đích của sự răn-bảo, ấy là sự yêu-thương, bởi lòng tinh-sạch, lương-tâm tốt và đức-tin thật mà sanh ra.
I Ti-mô-thê 1:5
wxMaxima 0.8.5
-
I have released wxMaxima version 0.8.5. There are no major changes in this
release. One of the cool things added are two new translations (Greek an
Japanes...
The Day in Photos – November 5, 2019
-
[image: Hindu women worship the Sun god in the polluted waters of the river
Yamuna during the Hindu religious festival of Chatth Puja in New Delhi,
India, ...
Bài tập B24.Tích phân học toán 12.docx
-
Để có thêm nguồn tư liệu cho HS học tập thi HK 2023 MÔN TOÁN, ÔN TẬP TRONG
LÚC HỌC TOÁN TRONG LỚP, EBOOKTOAN SƯU TẬP CÁC FILE TOÁN DOCX ĐỂ PHỤC VỤ CÁC
TH...
Subcooled Reflux And Energy Usage
-
Hi,
I'm a young engineer currently working on some optimisation of destillation
columns in the recovery section of a polymer plant. These columns work...
VERBATIM, Verbatim
-
By Erin McKean, editor of VERBATIM. VERBATIM: The Language Quarterly began
as a simple six-page pamphlet in 1974, a project launched by lexicographer
Laure...
The Orbit of Kepler 16b
-
[image: The Orbit of Kepler 16b]NASA's Kepler space telescope recently made
the news by finding a planet that orbits a double-star system, a situation
that...
Clínica Llanes: Tu Salud, Nuestra Prioridad
-
Clínica medica Llanes Ubicada en la Calle José Purón Sotres, 3, en Llanes,
Asturias, Clínica Llanes es un centro médico privado que ofrece una amplia
gam...
Find All Wolfram News in One Place—The Wolfram Blog
-
This is the final post here at the Wolfram|Alpha Blog. Approximately six
and a half years ago our launch team started the Wolfram|Alpha blog just
prior to ...