Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn phiêu lưu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn phiêu lưu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014

NANH TRẮNG - JACK LONDON .


NANH TRẮNG - JACK LONDON .









Nanh Trắng (nguyên tác tiếng Anh: White Fang) (1906) là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Mỹ   Jack London. Tiểu thuyết này đã được đăng từng kỳ lần đầu tiên trên Tạp chí Outing từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1906.

Giới thiệu cốt truyện

Nanh Trắng là một câu truyện về cuộc hành trình của một con chó sói lai chó nhà để trở thành một kẻ được khai hóa trong lãnh thổ Yukon của Canada trong thời kỳ đổ xô đi tìm vàng Klondike cuối thế kỷ 19. Nanh Trắng là một tiểu thuyết đồng hành (có cốt truyện và hoàn cảnh gần tương tự) với một tiểu thuyết nổi tiếng khác của cùng tác giả là Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call of the Wild) kể về một chú chó tên Buck bị những người đi tìm vàng bắt làm chó kéo xe và đã bị bản năng hoang dã biến thành một chú chó hoang hung dữ.
Tác phẩm này mang đặc thù phong cách văn xuôi chính xác của Jack London và cách sử dụng giọng văn và phối cảnh sáng tạo của ông. Phần lớn nội dung tiểu thuyết được viết từ lối nhìn của động vật, cho phép Jack London khảo sát cách mà loài vật nhìn nhận thế giới của chúng và cách mà chúng nhìn nhận loài người. Nanh Trắng khảo sát thế giới bạo lực của dã thú, và thế giới không kém phần bạo lực của nhân loại được-xem-là-văn-minh. Cuốn sách cũng đề cập đến những chủ đề phức tạp hơn: luân lý và sự cứu chuộc.
Nanh Trắng đã được chuyển thể thành phim nhiều lần, bao gồm bộ phim năm 1991.

Bản dịch tiếng Việt

Nanh Trắng, Bảo Hưng dịch, Quỳnh Hải Hà hiệu đính, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997

TẬP 6  http://phimvang.com/node/7953/3nsb7GQtBRDUbx7bigfLng


TẬP 7  http://phimvang.com/node/7953/yqmtStoJXuAnEle_fAAysw












 ------------------------------------------------------------------------------------------- 

 Chúng ta phải biết và chúng ta sẽ biết . 

 David Hilbert .

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

NHỮNG CUỘC PHIÊU LƯU CỦA TOM SAWYER - MARK TWAIN .

NHỮNG CUỘC PHIÊU LƯU CỦA TOM SAWYER - MARK  TWAIN



Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

1. TÁC PHẨM .

Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer là một quyển tiểu thuyết được nhà văn Mark Twain viết với bút pháp độc đáo, miêu tả tâm lý, cử chỉ, hành động của một chú bé sống tại một ngôi làng nghèo bên sông Mississippi. Tác giả đã miêu tả xuất sắc tính cách, tâm lý, hành động của chú bé thông minh, nghịch ngợm nhưng dũng cảm và có một tấm lòng nhân hậu giàu tình nghĩa.

a. Cốt truyện .

Vào những năm 1840, cậu bé tinh nghịch và giàu trí tưởng tượng Tom Sawyer sống với người cô Polly và anh họ trong phố Mississippi River của St. Petersburg, Missouri. Sau khi trốn học vào ngày thứ sáu và làm bẩn quần áo mình khi đánh nhau, Tom bị phạt phải sơn hàng rào vào thứ bảy. Đầu tiên, Tom thất vọng vì bị mất ngày nghỉ. Tuy nhiên, sau đó cậu đã rất thông minh khi khuyến khích các bạn phải trao đổi rất nhiều "kho báu" để đổi lấy quyền được làm công việc của mình. Sau đó, cậu nhận ra rằng để làm cho ai đó ao ước một điều gì, chỉ cần làm nó khó có thể đạt được. Cậu đổi những "kho báu" mà mình đạt được bằng cách lừa các bạn sơn bằng những tấm vé để nghe kinh thánh vào ngày chủ nhật. Cậu nhận được đủ vé để vào nghe kinh thánh. Tuy nhiên, cậu để vuột mất vinh quang khi trả lời sai câu hỏi về các môn đệ của David và Goliath.

Tom yêu Becky Thatcher - một cô gái mới trong phố. Cậu khuyến khích cô có thể "đính hôn" với cậu chỉ bằng cách hôn mình. Becky hôn Tom. Nhưng tình yêu của họ sụp đổ khi Becky biết Tom trước đó đã "đính hôn" với một cô gái khác - Amy Lawrence. Một thời gian ngắn sau khi bị Becky xa lánh, Tom đồng hành cùng Huckleberry Finn - con trai của một kẻ say rượu - đến nghĩa địa vào đêm để thử tìm ra "phương thuốc" cho căn bệnh mụn cóc từ một con mèo chết. Tại nghĩa địa, họ chứng kiến vụ giết bác sĩ Robinson được thực hiện bởi một kẻ bản xứ Injun Joe. Quá sợ hãi, Tom và Huck đã chạy thục mạng và thề một lời thề máu không nói cho bất kì ai về những gì họ đã thấy. Injun Joe đã đổ tội cho Muff Potter - một kẻ say rượu không may - về tội ác trên. Tom rất lo lắng và cảm thấy tội lỗi. Tom, Huck và Joe Harper - một người bạn của Tom - chạy đến một hòn đảo để trở thành những tên cướp biển. Khi đang bơi và tận hưởng tự do mới mẻ, các cậu nhận ra mọi người đang tìm kiếm xác họ. Tom lẻn về nhà một đêm để quan sát các thay đổi. Sau một lúc hối hận về nỗi khổ của những người thân yêu, Tom nảy ra ý tưởng xuất hiện vào đám tang của chính mình để làm mọi người kinh ngạc. Cậu cũng bảo Joe và Huck làm như vậy. Sự trở lại của họ sẽ ngập tràn trong sự vui mừng. Họ sẽ trở thành người hùng và là sự ghen tị của các bạn.

Trở lại trường, Tom nhận được sự yêu mến của Becky vì đã nhận trách nhiệm cho cuốn sách mà cô xé rách. Ngay sau đó, Muff Potter ra tòa. Tom đã vượt qua nỗi sợ hãi và ra làm chứng chống lại Injun Joe. Muff Potter trắng án nhưng Injun trốn qua cửa sổ của tòa án.

Mùa hè đến, Tom và Huck đi tìm kho báu trong một ngôi nhà bị ma ám. Sau khi lên tầng trên, họ nghe thấy một tiếng động phía dưới. Nhìn xuống cái hố tầng dưới, họ thấy Injun Joe đang giả dạng là một người Tây Ban Nha điếc và mù. Hắn và một kẻ đồng lõa bù xù đang lên kế hoạch để chôn kho báu mà chúng đánh cắp. Từ chỗ ẩn nấp của mình, Tom và Huck thích thú với cái ý nghĩ đào nó lên. Trong một sự trùng hợp hiếm có, Tom và Huck đã đào được một hột một đầy vàng. Khi chúng thấy dụng cụ của Tom và Huck, chúng bắt đầu nghi ngờ rằng có ai đó đã chốn vào căn nhà và định đánh cắp kho báu của chúng thay vì chôn nó như chúng dự định.

Huck bắt đầu theo dõi Injun Joe mọi đêm, cố tìm cơ hội để chiếm được số vàng. Trong khi đó, Tom có chuyến picnic đến McDougal’s Cave với Becky và các bạn cùng lớp. Trong cùng một đêm, Huck thấy Injun Joe và kẻ đồng lõa đang loay hoay với một chiếc hộp. Cậu đi theo và chợt nghe thấy chúng đang lên kế hoạch tấn công Widow Douglas - một cư dân ở St. Petersburg. Huck chạy đi tìm kiếm sự giúp đỡ nhằm ngăn chặn tội ác và cậu trở thành một anh hùng vô danh.

Tom và Becky lạc trong hang và sự vắng mặt của họ không được phát hiện cho tới sáng hôm sau. Người trong phố đổ xô đi tìm họ nhưng không có tác dụng. Tom và Becky hết thức ăn và nến và dần dần yếu đi. Tình hình càng trở nên tồi tệ trong khi Tom tìm lối ra, cậu phát hiện Injun Joe cũng đang ở trong hang để ẩn nấp. Cuối cùng, ngay lúc những người tìm kiếm bỏ cuộc, Tom tìm được lối ra. Cả phố ăn mừng và cha của Becky, Judge Thatcher, khóa cái hang lại, để mặc cho Injun Joe đến chết.

Một tuần sau, Tom dẫn Huck đến cái hang và tìm thấy hộp chứa vàng. Tiền trong đó sẽ được chia cho họ. Widow Douglas nhận Huck làm con nuôi khi Huck cố gắng trốn khỏi cuộc sống văn minh. Tom hứa với cậu, cậu có thể gia nhập "băng cướp" của mình nếu Tom trở lại. Huck đồng ý một cách miễn cưỡng.

b. Chuyện bên lề .

Trong cuốn tự truyện của mình, Mark Twain cho rằng Tom Sawyer là tác phẩm đầu tiên của ông mà bản thảo được đánh máy. Tuy nhiên theo nhà sử học nghiên cứu về đánh máy Darryl Rehr, tác phẩm đầu tiên được đánh máy của Twain là Cuộc sống trên dòng sông Mississippi. [1]

c. Phim chuyển thể .

Cuốn tiểu thuyết đã được chuyển thể thành trên dưới 20 bộ phim của nhiều quốc gia, trong đó có ba bản phim nổi bật của Mỹ vào các năm 1938, 1973, 1995 (tựa đề Tom and Huck).

Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Những cuộc phiêu lưu của_Tom_Sawyer



2. TÁC GIẢ  MARK  TWAIN .

Mark Twain
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain; 30 tháng 11, 1835 – 21 tháng 4, 1910)[2] là một nhà văn khôi hài, tiểu thuyết gia và là nhà diễn thuyết nổi tiếng của Mỹ. Ông sinh ra vào chính ngày sao chổi Halley xuất hiện năm 1835 và mất đúng vào lần sao chổi xuất hiện lần sau, năm 1910.

a. Cuộc đời của Mark Twain.

Mark Twain là nhà văn khôi hài bậc nhất của Hoa Kỳ, là tiểu thuyết gia rất sáng tạo và hấp dẫn , nơi sinh của ông thuộc về miền đất được coi là trái tim của Hoa Kỳ, gần vùng biên giới và ngay tại bờ sông Mississippi và con sông lớn này đã nối hai miền bắc và nam.

Mark Twain có tên thật là Sam Langhorne Clemens, chào đời vào ngày 30 tháng 11 năm 1835 tại Florida, thuộc tiểu bang Missouri, và là đứa con thứ sáu trong bảy người con.Cha của Sam là ông John Marshall Clemens là một luật sư, đã rời khỏi tiểu bang Virginia để sang định cư tại Missouri còn bà mẹ Jane Lampton Clemens là người từ tiểu bang Kentucky. Cha mẹ ông gặp nhau khi cha ông dời đến sống ở Missouri và họ cưới nhau vào năm 1823.Đây là một gia đình không giàu có nhưng cho các con được sống tự do, thoải mái. Vào thời kỳ đó, cả hai tiểu bang Missouri và Kentucky đều là tiểu bang duy trì chế độ nô lệ. Năm 1821, Missouri được nhận vào Liên Bang Hoa Kỳ.

Khi lên 4 tuổi tức là vào năm 1839, gia đình của Sam Clemens dọn về Hannibal, Missouri , một thị trấn cảng nằm về phía tây trên bờ sông Mississippi. Hannibal cách thành phố lớn Saint Louis 120 dặm về phía bắc. Dân số của thị xã này vào khoảng 1.000 người, một nửa là nô lệ , và những người da đen nào không có đủ giấy tờ đều bị bắt. Nhiều người nô lệ da đen bị bán cho các đồn điền thuộc phía Nam trong các tiểu bang như Louisiana, Georgia… Sam Clemens trải qua tuổi trẻ tại thị xã Hannibal, đã từng bơi lội trên sông, chơi đùa trong các cánh rừng hay trên các hòn đảo của dòng sông và đọc các cuốn truyện phiêu lưu mạo hiểm.

Mississippi là một dòng sông rất lớn, nối miền bắc với các thành phố phía nam như Memphis và New Orleans, và do con sông Ohio hội nhập lại, người dân có thể đi tới Cincinnati và các thành phố khác thuộc miền đông. Từ các phong cảnh, kinh nghiệm và kỷ niệm với dòng sông này, tác giả Mark Twain đã viết ra nhiều tác phẩm nổi tiếng.

Năm 1847, người cha qua đời khi ông 11 tuổi, Sam Clemens tới học nghề với người anh tên là Orion, người này có một nhà in và một tờ báo. Vào thời bấy giờ, thợ in không phải là một nghề kiếm nhiều tiền, Sam đã từng đi làm công tại nhiều thành phố như Keokuk hay New York, đã mơ tới xứ Nam Mỹ để đi tìm vàng, mơ tới các cách làm giàu nhanh chóng.

Sam Clemens học nghề lái tàu với ông Horace Bixby vào năm 1857 và ông đã ưa thích nghề mới này hơn tất cả các nghề khác đã từng làm trước kia. Vào thời kỳ đó, thuyền trưởng lái tàu trên sông là  người thường đứng sau bánh lái với nhiều phong cảnh đẹp của dòng sông đã hiện ra trước mắt, thời gian khác nhau trong ngày lại có các cảnh trí khác nhau, với các khúc sông quanh co chứa nhiều phong cảnh thay đổi từ mùa này sang mùa khác. Các kinh nghiệm và kỷ niệm của quãng đời học nghề lái tàu này đã được tác giả Mark Twain mô tả trong cuốn truyện "Đời sống trên dòng sông Mississippi" (Life on the Mississippi). Sam Clemens lấy được bằng lái tàu trên sông vào năm 1859 nhưng rồi Nội chiến Hoa Kỳ đã xảy ra, khiến cho việc lưu thông trên sông Mississippi bị chấm dứt.

b. Các cuộc du hành .

Trong thời Nội Chiến, Sam Clemens đã tham gia vào Lực Lượng Quân Sự Miền Nam nhưng sau ba tuần lễ, đã đào ngũ, trốn đi theo học nghề thợ mỏ bạc tại tiểu bang Nebraska, rồi lang thang từ thị xã này qua thành phố kia và cuối cùng tới tiểu bang Nebraska, định cư tại thị xã Virginia City. Sam Clemens bắt đầu viết bài cho tờ báo Territorial Enterprise của thị xã này.

Vào năm 1863, Sam Clemens dùng bút hiệu "Mark Twain", có nghĩa là "sâu 2 tầm", nguyên do từ các kỷ niệm lái tàu trên dòng sông Mississippi. Sau lần cãi nhau với chủ bút tờ báo, Mark Twain rời Nebraska và dọn qua tiểu bang California vào mùa xuân năm 1864.Từ năm 1865, danh tiếng đã tới với Mark Twain sau khi ông cho xuất bản cuốn truyện "Con ếch hay nhảy của quận hạt Calaveras" (the Jumping Frog of Calaveras County). Khi công ty Tàu Thủy Thái Bình Dương (the Pacific Steamboat Company) khánh thành tuyến đường thủy giữa thành phố San Francisco và các hải đảo Hawaii, thời bấy giờ còn được gọi là các đảo Sandwich (the Sandwich Islands), Mark Twain được tờ báo The Sacramento Union phái đi làm phóng sự. Cùng một loạt bài châm chọc các du khách. Mark Twain đã đưa lối văn đàm thoại (colloquial speech) vào cách hành văn Mỹ và nhờ các truyện ngắn, ông đã nổi danh là một nhà viết văn khôi hài (humorist), chuyên chế giễu các phong tục, tập quán và các định chế của xã hội đương thời . Ông được xếp hạng cùng với các nhà văn như Bret Harte, Artemus Ward và Petroleum V. Nasby. Đây là các nhà văn rất nổi tiếng về các câu chuyện dân gian, viết bằng giọng văn có chứa đựng các thổ ngữ và nhiều chi tiết hài hước.

Năm 1867, Mark Twain thực hiện một chuyến du lịch qua châu Âu và  Đất Thánh Palestine bằng con tàu thủy mang tên Quaker City. Các bức thư kể về chuyến du lịch này, gửi cho tờ báo Alta California tại San Francisco và tờ  New York Tribune tại thành phố New York, được gom lại và xuất bản vào năm 1869 thành cuốn truyện "Các kẻ ngây thơ ở nước ngoài" (The Innocents Abroad). Qua cuốn này, Mark Twain đã chế giễu sự điên khùng của nhiều du khách Mỹ vì đã phải băng qua đại dương để đi coi các ngôi mộ của những người đã chết trong khi còn rất nhiều thứ đang sống, đáng coi hơn tại Hoa Kỳ. Mark Twain cũng viết về các cảnh nhìn thấy một cách khôi hài , về các tập quán nghịch lý của các quốc gia mà ông đã đi qua và so sánh với Hoa Kỳ là một đất nước sống động, đang phát triển, trái ngược với châu Âu là một miền đất đang thoái hóa, suy tàn. Những tác phẩm này đã khiến ông nổi tiếng và được nhiều người tôn trọng, đồng thời các nhà văn Miền Tây Hoa Kỳ không còn bị coi thường như trước kia.

c. Kết hôn .

Mark Twain kết hôn vào năm 1870 với  Olivia Langdon, thuộc một gia đình giàu có và danh giá. Các kỷ niệm và cách tán tỉnh người đẹp của thời kỳ này được lưu dấu trong các bức thư mà Mark Twain viết cho Olivia và cho các bạn của cô nàng, rồi về sau thể hiện qua lối ve vãn của Tom đối với Becky trong tác phẩm "Tom Sawyer". Sau đám cưới 5 năm, Mark Twain rời gia đình về thành phố Elmira, thuộc tiểu bang New York, rồi dọn sang cư ngụ tại thành phố Hartford thuộc tiểu bang Connecticut vào năm 1871. Tại nơi sau này đã ra đời các người con của Mark Twain: con trai Langdon chết non vào năm 1872 do bệnh bạch hầu lúc 19 tháng tuổi, sau đó là ba cô con gái Susy, Clara và Jean, chào đời trong các năm từ 1872 tới 1880.Vào năm 1874, gia đình Mark Twain dọn về một căn nhà sang trọng 19 phòng tại Hartford.

Tại thành phố Hartford, Mark Twain đã làm quen được một số nhân vật trong giới văn học, trong số này có William Dean Howells là một tác giả danh tiếng và chủ nhiệm của tờ nguyệt san "The Atlantic Monthly". Howells đã sớm nhận ra tài năng hài hước của Mark Twain, ông đã khuyến khích nhà văn trẻ này phát triển biệt tài đó bằng cách mời Mark Twain cố vấn và trợ giúp cho tờ nguyệt san Atlantic.


d. Khó khăn về tài chính .

Vào thập niên 1880, Mark Twain đã thành lập và điều hành một công ty xuất bản cho riêng mình cũng như tìm cách đầu tư vào vài phạm vi thương mại khác, đặc biệt là việc chế tạo máy in do người phát minh tên là Paige. Trong các năm từ 1881 tới 1894, Mark Twain đã lỗ vốn gần 200,000 mỹ kim đầu tư vào thứ máy in kể trên, vì các thay đổi về kiểu mẫu, đặc tính đã đưa tới thất bại. Tháng 4 năm 1894, công ty ấn loát của Mark Twain phải tuyên bố phá sản rồi từ tháng 1 năm 1895, danh tiếng nhà văn bị ảnh hưởng vì không trả được nợ. Nhưng sau đó ông đã tìm cách phục hồi tài sản bằng cách đi diễn thuyết, có khi thu được 1,000 đô la Mỹ mỗi lần , đã từng thực hiện nhiều chuyến đi được quảng cáo rầm rộ, tới cả các thành phố xa xôi thuộc Ấn Độ, Nam Mỹ và châu Úc. Mark Twain kết bạn với các nhân vật danh tiếng, giàu có như Andrew Carnegie, William Rockfeller và được trao tặng các văn bằng danh dự tại Đại học Yale vào năm 1901, Đại học Missouri vào năm 1902 và Đại học Oxford vào năm 1907. Tác giả Mark Twain là một nhân vật quốc tế, thường mặc bộ âu phục màu trắng mang vẻ phô trương, hút thuốc xì gà, với các bài nói chuyện hàm chứa nhiều chỉ trích xã hội một cách cay đắng và các bài văn này về sau được phổ biến qua các tác phẩm "Người ngồi trong bóng tối" (The Person sitting in the Darkness, 1901) và "Độc Thoại của Vua Leopold" (King Leopold 's Soliloquy, 1905).

Sau khi đã phục hồi được các vấn đề tài chính vào năm 1898, Mark Twain lại gặp các thảm cảnh trong đời sống gia đình. Người con gái lớn nhất Susy qua đời vào năm 1896 vì bệnh viêm màng não trong khi cha mẹ và em Clara đang ở nước ngoài. Năm 1903, Mark Twain bán đi ngôi nhà thân thương tại Hartford đầy những kỷ niệm về Susy. Tới ngày 5 tháng 6 năm 1904, bà vợ  Olivia cũng lìa đời vì bệnh tim rồi người con gái út tên là Jean, trước kia mắc bệnh kinh phong, cũng chết vào ngày 24 tháng 12 năm 1909.

Mặc dù các khó khăn tài chính và thảm cảnh gia đình trong các năm cuối đời, Mark Twain vẫn thu xếp để viết văn. Các tác phẩm cuối đời của ông gồm "Người Mỹ đòi quyền lợi" (The American Claimant, 1892) viết về một nhân vật không thực tế là đại tá Mulberry Sellers. Cuốn tiểu thuyết này được căn cứ vào vở kịch không thành công mà tác giả đã soạn ra cùng với nhà phê bình William Dean Howells vào năm 1883. Một tiểu thuyết trinh thám khác có tên là "Bi Kịch của Pudd'nhead Wilson" (The Tragedy of Pudd'nhead Wilson, 1894) bàn tới thành kiến chủng tộc (racial prejudice), một vấn đề quan trọng của xã hội Mỹ. "Nhớ về Joan of Arc" (Personal Recollections of Joan of Arc, 1896) là một cuốn tiểu sử (biography) dựa vào các tài liệu lịch sử. Mark Twain cũng kể lại những kinh nghiệm trong các chuyến đi diễn thuyết tại nước ngoài vào năm 1895, 1896 qua cuốn tiểu thuyết "Theo Đường Xích Đạo" (Following the Equator, 1897) trong khi cuốn truyện ngắn "Kẻ tham nhũng tại Hadleburg" (The Man that Corrupted Hadleburg, 1899) đã chế giễu các nhà lãnh đạo tự phụ của một thành phố. Các tác phẩm của Mark Twain càng về sau, càng mất dần tính khôi hài của thời tuổi trẻ và bộc lộ cách nhìn bi quan hơn do tác giả nghi ngờ các loại tôn giáo, do tác giả nhận ra các động lực chính của con người là lòng ích kỷ.

e. Qua đời .

Đại Văn Hào Mark Twain qua đời vì bệnh tim vào ngày 21 tháng 4 năm 1910, để lại nhiều bản thảo kể cả một cuốn tự thuật lớn và dở dang. Bản thảo của một tác phẩm bi quan xuất bản vào năm 1916 có tên là "Người xa lạ bí mật" (The Mysterious Stranger) đã mô tả cuộc viếng thăm của quỷ Sa Tăng tới một ngôi làng thuộc nước Áo vào thời Trung Cổ.

Dù cho thất vọng trước cuộc đời, Đại Văn Hào Mark Twain vẫn nổi danh là một nhà văn khôi hài bởi vì ông đã nhìn thấy trong các hình ảnh rực rỡ và lãng mạn của xã hội, các tập quán và định chế giả hiệu, có gian ý, và ông đã dùng cách diễn tả quá đáng một cách hữu hiệu để công kích các thói đạo đức giả, các thái độ tự mãn của người đời, các bất công của xã hội. Ngoài các tác phẩm đặc sắc, một trong các đóng góp lớn lao của Đại Văn Hào Mark Twain là cách hành văn đặc biệt Mỹ, khác hẳn lối viết văn của các tác giả người Anh. Mark Twain là một trong các nhà văn Mỹ hạng nhất, một bậc thầy về ngôn ngữ theo hình thức tiêu chuẩn, chứa đựng thứ tiếng địa phương của Miền Tây Hoa Kỳ. Thể văn buông lỏng (loose rhythm of the language) trong các tác phẩm của Mark Twain đã cho người đọc cảm giác về lời nói thực sự (real speech) và lối hành văn hiện thực này đã ảnh hưởng tới nhiều nhà văn Mỹ khác, khiến cho Đại Văn Hào Ernest Hemingway đã có lần xác nhận rằng: "Tất cả nền văn chương hiện đại của Hoa Kỳ bắt nguồn từ … Huckleberry Finn".

f. Sự nghiệp sáng tác  .

Mark Twain là một nhà văn trào phúng nổi tiếng của Mỹ. Những tác phẩm của ông, với tính chất châm biếm sâu sắc, với những nét miêu tả tâm lý xã hội cực kỳ khéo léo, đã trở thành những vũ khí sắc bén đấu tranh chống sự áp bức thống trị , nhất là chống cái chính sách dã man phân biệt chủng tộc đối với người da đen ở Mỹ.

Con đường đến với văn học của Twain đến nay vẫn không khỏi khiến người ta ngạc nhiên, khởi đầu bằng một tác phẩm hài hước có tựa đề "The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County" (Con ếch nhảy trứ danh ở Calaveras). Dù ngày nay đọc lại, tác phẩm đó không thể kiếm nổi của độc giả một nụ cười nhưng lúc bây giờ, "Con ếch nhảy..." đã giúp ông trở nên nổi tiếng chỉ sau một đêm. Tiếp đó là những chuyến ngao du khắp đất nước với những buổi nói chuyện trước những cử tọa chật kín, ông đã khiến khán giả cười vỡ bụng bằng khiếu nói chuyện hài hước và thông minh của mình.

Mark Twain đã đưa lối văn đàm thoại vào cách hành văn Mỹ và nhờ các truyện ngắn, ông đã nổi danh là một nhà viết văn khôi hài, chuyên chế giễu các phong tục, tập quán và các định chế của xã hội đương thời.

Trong 20 năm trường sống tại thành phố Hartford hay tại Quarry Farm gần thành phố Elmira, New York, Mark Twain đã viết rất nhiều và các bài viết được phổ biến qua các tạp chí văn học xuất bản tại hai thành phố Boston và New York.

Sau cuốn "Sống thiếu thốn" (Roughing It) kể về cuộc đời của một người thợ mỏ và một nhà báo, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Mark Twain là "Thời Kỳ Vàng Son" (The Gilded Age, 1873). Tác giả đã viết cuốn này chung với Charles Dudley Warner, một người bạn và một nhà văn sống tại Hartford. Cuốn "Thời Kỳ Vàng Son" nói về các thập niên sau Cuộc Nội Chiến qua đó tác giả châm chọc tính ích kỷ và các cách kiếm tiền phổ thông của thời bấy giờ.

"Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer" (The Adventures of Tom Sawyer, 1876) được coi là hồi ký của Mark Twain và tác giả mô tả Tom Sawyer, anh bạn Huck Finn và tên gian ác Injun Joe cũng như làng St. Petersburg nhờ các kỷ niệm sống tại Hannibal khi trước.

"Đi nước ngoài" (A Tramp Abroad, 1880) được viết ra từ chuyến du lịch châu Âu của tác giả vào năm 1878. Cuốn truyện này kể lại các chuyến đi qua các nước Đức, Thụy Sỹ và Ý và qua đó, tác giả đã pha trộn các truyền thuyết, chuyện kể, chuyện khôi hài và các nhân vật địa phương để chế giễu nhẹ nhàng các sách du lịch và nền văn hóa tại châu Âu.

"Hoàng Tử và kẻ nghèo" (The Prince and the Pauper, 1882) dùng khung cảnh nước Anh vào năm 1550, mô tả sự trao đổi nhân dạng giữa Hoàng Tử Edward-6 của nước Anh và đứa trẻ nghèo hèn tên là Tom Canty. Cuốn truyện này đã làm vừa lòng một số độc giả thuộc vùng Tân Anh Cát Lợi nhưng một số người khác lại bất mãn vì họ ưa thích loại truyện đã xuất bản trước kia.

"Đời sống trên dòng sông Mississippi" (Life on the Mississippi, 1883) mô tả về lịch sử, truyền thuyết, khung cảnh, con người của các con tàu thủy, của các thành phố dọc theo con sông Mississippi. Tác giả Mark Twain đã kể rõ về những ngày lái tàu của mình khi trước từ chương 4 tới chương 17. Các chương này trước kia đã được phổ biến trên tờ nguyệt san Atlantic vào năm 1875 qua loạt bài "Thời xưa trên dòng sông Mississippi" (Old Times on the Mississippi).

"Các cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn" (The Adventures of Huckleberry Finn) được coi là tác phẩm danh tiếng nhất của Mark Twain, được xuất bản tại nước Anh vào năm 1884 và Hoa Kỳ vào năm 1885, và là phần tiếp của cuốn "Tom Sawyer". Cuốn truyện này mô tả các cuộc phiêu lưu của hai đứa trẻ trốn nhà, là Huck Finn và một em nô lệ da đen tên là Jim. Tom Sawyer cũng xuất hiện lại trong một số chương với trò khôi hài cố hữu. Trong truyện, Mark Twain đã dùng thứ ngôn ngữ hiện thực (realistic language) thêm vào là nhiều loại thổ ngữ (dialects) làm cho sống động các nhân vật. Các lối hành xử thiếu đạo đức, lời nói vô hạnh nhất thời của nhân vật Huck Finn và cách dùng văn phạm thiếu thận trọng của tác giả trong tác phẩm, đã làm cho một số độc giả bất mãn. Thư viện công lập Free Public Library đã cấm cuốn truyện này vào năm 1885. Ngoài ra, một số độc giả còn phản đối Mark Twain vì cho rằng ông đã chấp nhận chế độ nô lệ, lời văn mang tính kỳ thị và đã dùng chữ "nigger" (kẻ nô lệ dơ bẩn). Thực ra đối với thời bấy giờ, Mark Twain là một người tiến bộ về vấn đề chủng tộc và các chủ đề sâu xa viết về Huckleberry Finn đã bàn tới sự bình đẳng căn bản và khát vọng toàn cầu của mọi người thuộc mọi chủng tộc.

Cuối cùng, tác phẩm "Người Mỹ trong Triều Đình của Vua Arthur" (A Connecticut Yankee in King Arthur's Court, 1889) đã trình bày một nhân vật khác nhiều màu sắc. Đây là người đốc công trong xưởng kim loại từ Hartford, Connecticut, tên là Hank Morgan. Nhờ quỷ thuật, Morgan thấy mình được sống tại nước Anh vào khoảng năm 500 sau Công nguyên, nên đã quyết định cải tổ xã hội Anh bằng cách đưa vào đó các lợi ích về kinh tế, tri thức và đạo đức của các năm 1800. Nhưng trước các cải cách và hoạt động từ thiện, đám đông quần chúng ngu dốt, cố vấn do giới Hiệp Sĩ và Tu Sĩ mê tín, đã nổi lên lật đổ Nhà Vua nước Anh. Qua các sự kiện xảy ra trong truyện, tác giả đã gián tiếp chế nhạo các thái độ tôn kính của một số tác giả đối với các Hiệp Sĩ Bàn Tròn, đồng thời Mark Twain cũng đưa ra một số câu hỏi về giá trị của nền văn hóa đương thời tại Hoa Kỳ.

g. Đánh giá về Mark Twain .

Với những tiểu thuyết đặc sắc và những nhân vật sống động cống hiến cho nền văn học Mỹ, Mark Twain xứng đáng là vì tinh tú đầu tiên của nền văn học hiện đại nước này. Mark Twain tên thật là Samuel Langhorne Clemens. Như một ngôi sao với thứ ánh sáng rực rỡ  ngang qua bầu trời, Mark Twain đến nay vẫn được coi là ngôi sao sáng nhất trong giới những người cầm bút trên văn đàn Mỹ. Trong cuốn tiểu sử mới nhất có tựa đề Mark Twain: a Life (Mark Twain - một cuộc đời), tác giả Ron Powers viết: "Mark Twain đã làm thay đổi cách nghe nhìn của người Mỹ, ông chính là một Lincoln trong văn học". Ông đã trả lại cho nước Mỹ ngôn ngữ và giọng điệu của con người bản xứ nước này, không phải bằng lối giễu nhại hay châm biếm mà bằng thứ văn học tinh tế và đầy chất hài hước. Bố mẹ Clemens là cư dân bang Virginia nhưng ông được sinh ra tại Florida, trong một gia cảnh khá chật vật, túng thiếu. Năm 1839, gia đình ông chuyển đến sống tại Hannibal, thành phố nhỏ nằm cạnh dòng sông Mississippi. Cha mất sớm, nhà văn tương lai phải bỏ học và theo nghề lái tàu kiếm sống. Khi cuộc nội chiến bùng nổ, nhà văn bỏ tàu, bỏ sông nước trôi dạt theo cuộc sống phiêu lưu ở những dãy núi miền Tây nước Mỹ. Nhưng những ngày tháng lênh đênh trên tàu đã để lại cho ông những ấn tượng sâu sắc, trở thành nguồn cảm hứng để nhà văn viết nên những kiệt tác như "Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer" (The Adventures of Tom Sawyer -1876), "Cuộc sống trên sông Mississippi" (Life on the Mississippi - 1883) và "Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn" (The Adventures of Huckleberry Finn - 1884). Những mỏ vàng, mỏ bạc ở miền viễn Tây đã quyến rũ giấc mơ làm giàu của Clemens nhưng vận may không mỉm cười với ông. Nhà văn tương lai rách rưới và bụi bặm đến nỗi khi đến nộp đơn xin làm phóng viên ở một tòa soạn báo, Clemens trông giống một tên ma cà bông hơn là một người có khả năng cầm bút. Sau khi đã định hình được một phong cách báo chí cho riêng mình, cái tên cúng cơm Samuel Clemens được đổi thành Mark Twain. Bút danh này xưa nay vẫn gây tranh cãi trong giới học giả nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn. Có hai giả thuyết chính. Giả thuyết thứ nhất cho rằng, Mark Twain có nghĩa là "mark two" - chỉ mực nước khoảng 2 sải (tương đương với 3,7m) - một thuật ngữ mà những người dò sông biển thường dùng để báo tin cho nhau, chỉ đường đi an toàn. Giả thuyết thứ hai giải thích, bút danh này bắt nguồn từ những ngày lang bạt kỳ hồ ở miền Tây của nhà văn. Lúc đó, ông thường vào quán, gọi liền hai cút rượu và bảo người phục vụ đánh dấu "Mark twain" vào hóa đơn của mình. Nhưng trong một tài liệu, nhà văn viết: "Người thuyền trưởng già, dù chẳng giỏi giang và hay chữ gì nhiều nhưng ông thường sử dụng ký tự MARK TWAIN để thông tin về tình hình sông nước. Những thông tin này cực kỳ chính xác và có giá trị, nó có nghĩa là an toàn, không nguy hiểm...". Con đường đến với văn học của Twain đến nay vẫn không khỏi khiến người ta ngạc nhiên, khởi đầu bằng một tác phẩm hài hước có tựa đề "The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County" (Con ếch nhảy trứ danh ở Calaveras). Dù ngày nay đọc lại, tác phẩm đó không thể kiếm nổi của độc giả một nụ cười nhưng lúc bây giờ, "Con ếch nhảy... " đã giúp ông trở nên nổi tiếng chỉ sau một đêm. Tiếp đó là những chuyến ngao du khắp đất nước với những buổi nói chuyện trước những cử tọa chật kín, ông đã khiến khán giả cười vỡ bụng bằng khiếu nói chuyện hài hước và thông minh của mình.

h.  Tác phẩm .

Sống thiếu thốn (Roughing It)
The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County and Other Sketches (1867)
Các kẻ ngây thơ ở nước ngoài (Innocents Abroad, 1869)
Thời kỳ vàng son (The Gilded Age, 1873).
Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer (The Adventures of Tom Sawyer, 1876)
Đi nước ngoài (A Tramp Abroad, 1880)
Hoàng tử và kẻ nghèo (The Prince and the Pauper, 1882)
Đời sống trên dòng sông Mississippi (Life on the Mississippi, 1883)
Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn (The Adventures of Huckleberry Finn, 1884)
Tên Yankee từ Connecticut trong triều đình vua Arthur (A Connecticut Yankee in King Arthur's Court, 1889)
Người ngồi trong bóng tối (The Person sitting in the Darkness, 1901)
Độc thoại của vua Leopold (King Leopold 's Soliloquy, 1905)
Người Mỹ đòi quyền lợi (The American Claimant, 1892)
Bi kịch của Pudd'nhead Wilson (The Tragedy of Pudd'nhead Wilson, 1894) b
Theo đường xích đạo (Following the Equator, 1897)
Kẻ tham nhũng tại Hadleburg (The Man that Corrupted Hadleburg, 1899)
Người xa lạ bí mật (The Mysterious Stranger, 1916)

Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Mark_Twain



















-------------------------------------------------------------------------------------------

 Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống.

 Albert Einstein .

Thứ Tư, 5 tháng 2, 2014

Xem phim ngày Tết - Mr BEAN .


Xem phim ngày Tết - Mr BEAN .










 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống.

 Albert Einstein .

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

Xem phim ngày Tết - Hài VIỆT .

Xem phim ngày Tết - Hài VIỆT .




























 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống. 

 Albert Einstein .

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Xem phim ngày Tết - TINTIN PHIÊU LƯU KÝ .


Xem phim ngày Tết -  
TINTIN  PHIÊU LƯU KÝ . 





Nguồn :  http://tv.zing.vn/nhung-cuoc-phieu-luu-cua-tintin-phan-1








---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------








---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------








-------------------------------------------------------------------------------------------

Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống.  

Albert Einstein . 

Thứ Ba, 7 tháng 1, 2014

Kích-Tôn-Sơn bá tước - Monte Cristo - Alexandre Dumas .

Kích-Tôn-Sơn bá tước - Monte Cristo - Alexandre Dumas . 


nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Bá tước_Monte_Cristo

TÁC PHẨM .

Bá tước Monte Cristo (tiếng Pháp: Le Comte de Monte-Cristo, phát âm tiếng Việt: Môngtơ-crixtô) là một tiểu thuyết phiêu lưu của Alexandre Dumas cha. Cùng với một tác phẩm khác của ông là Ba chàng lính ngự lâm, tác phẩm thường được xem là tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của Dumas. Cuốn sách này đã được viết xong năm 1844. Giống như nhiều tiểu thuyết khác của ông, tiểu thuyết này đã được mở rộng từ cốt truyện do người giúp việc cho nhà văn Auguste Maquet cộng tác.

Câu chuyện xảy ra tại Pháp, Italia, các đảo trong Địa Trung Hải và Levant trong thời kỳ các sự kiện lịch sử trong năm 1815–1838 (ngay trước sự kiện Một trăm ngày dưới sự cai trị của Louis-Philippe của Pháp). Sự sắp đặt lịch sử là yếu tố cơ bản của cuốn sách. Câu chuyện chủ yếu liên quan đến các chủ đề công lý, sự báo thù, lòng từ bi, và lòng khoan dung, và được kể theo phong cách một câu chuyện phiêu lưu. Dumas lấy ý tưởng cho cuốn Bá tước Monte Cristo từ một câu chuyện thật mà ông tìm thấy trong một quyển hồi ký của một người đàn ông có tên Jacques Peuchet. Peuchet thuật lại câu chuyện của một người thợ đóng giày có tên Pierre Picaud, một người sống ở Paris năm 1807. Picaud đã hứa hôn với một người phụ nữ giàu có, nhưng bốn người bạn ghen ghét đã vu khống tố cáo ông làm gián điệp cho Anh. Ông đã bị tống vào ngục trong 7 năm. Trong thời gian ở tù, một người bạn tù lúc hấp hối đã tiết lộ cho ông một kho báu được giấu ở Milano. Khi Picaud được thả năm 1814, ông đã lấy được kho báu, trở về với một tên gọi khác và đến Paris và sống ở đó 10 năm và đã trả thù thành công đám bạn cũ đã vu khống kia. Nhưng sau khi trả thù được người cuối cùng đã vu khống mình, ông chợt nhận ra rằng trả thù sẽ chẳng có gì là tốt đẹp sau khi trả thù.

Nội dung


Câu chuyện bắt đầu với việc chiếc tàu Pharaon của hãng buôn Morrel cập cảng Marseille, người điều khiển con tàu là Edmond Dantès, một thanh niên 18 tuổi và là thuyền phó của tàu. Trong chuyến đi lần này, thuyền trưởng tàu là Leclère bị bệnh qua đời, trước khi mất, ông đã đưa cho Dantès một bức thư và dặn anh phải trao tận tay cho Napoléon Bonaparte lúc này đang ở đảo Elba. Dantès đã làm theo lời ông và sau đó Napoléon lại bảo anh trao một bức thư cho ngài Noitier ở Paris. Lúc trở về Marseille, Edmond được ông Morrel thăng chức thuyền trưởng, Edmond xin phép nghỉ 2 tuần để đi Paris trao bức thư và sau đó tổ chức lễ cưới với cô Mercédès xinh đẹp.

Danglars, một tên kế toán của tàu Pharaon, luôn ghen ghét Dantès, đã lập ra một kế hoạch để hãm hại anh. Hắn mời Fernand Mondego, anh họ của Mercédès, một người say mê nàng nhưng không được đáp lại, cùng với Caderousse, hàng xóm của Edmond đi uống rượu. Danglars viết một bức thư nặc danh tố giác Edmond cấu kết với Napoleon rồi xui Fernand gửi lên chính quyền.

Edmond bị bắt ngay trong lễ cưới. Người hỏi cung anh là phó biện lý Villefort. Lúc đầu, nhìn vẻ mặt lương thiện của Edmond, hắn định tha cho anh, nhưng khi thấy tên Noitier trên bức thư, hắn rất bàng hoàng và vội vàng đốt bức thư, sau đó hắn cho giam Edmond vào nhà tù If.Ở đây, Edmond may mắn gặp được cha Pharia-một người thông thái.Cha đã truyền cho chàng những kiến thức lịch sử, vật lý, ngoại ngữ và đặc biệt hơn cả là bí mật về kho báu.

Sau khi cha Pharia qua đời, Edmond đã vượt ngục thành công và sở hữu một số của cải khổng lồ.Ông bí mật đổi tên thành bá tước Monte Cristo và thâm nhập vào giới thượng lưu Paris.Bá tước đã lần lượt trả ơn những người đã giúp đỡ và trừng phạt thích đáng những kẻ tâm địa xấu xa đã từng hại mình.Bá tước Monte Cristo là câu chuyện thể hiện sâu sắc quy luật nhân quả ở đời:Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo.

Phim và TV

1914 : Le Comte de Monte-Cristo được dựng thành phim bởi André Ponctal
1928 : "Monte Cristo" được dựng thành phim bởi Henri Fescourt cùng với Jean Angelo, Lil Dagover, Gaston Modot, Mary Glory, Pierre Batcheff, Jean Toulout.
1934 : "Le Comte de Monte-Cristo" được dựng thành phim bởi Rowland V. Lee cùng với Robert Donat dans le rôle d'Edmond Dantès.
1943 : Le Comte de Monte-Cristo, được dựng thành phim bởi Robert Vernay, cùng với Pierre Richard-Willm, Michèle Alfa, Aimé Clariond, Marcel Herrand, Lise Delamare, Henri Bosc
1948 : Le Secret de Monte Cristo được dựng thành phim bởi Albert Valentin
1955 : Le Comte de Monte-Cristo, được dựng thành phim bởi Robert Vernay, cùng với Jean Marais, Lia Amada, Roger Pigaut, Jacques Castelot, Paolo Stoppa, Jean-Pierre Mocky
1961 : Le Comte de Monte-Cristo, được dựng thành phim bởi Claude Autant-Lara, cùng với Louis Jourdan, Yvonne Furneaux, Pierre Mondy, Bernard Dhéran, Claudine Coster, Yves Rénier, Mary Marquet
1968 : Sous le signe de Monte-Cristo, được dựng thành phim bởi André Hunebelle, cùng với Paul Barge, Claude Jade, Anny Duperey, Pierre Brasseur, Michel Auclair, Raymond Pellegrin
2002 : La Vengeance de Monte-Cristo, được dựng thành phim bởi Kevin Reynolds, cùng với Jim Caviezel, Guy Pearce, Dagmara Dominczyk, Richard Harris
1934: Count of Monte Cristo, directed by Rowland V. Lee
1940: The Son of Monte Cristo, directed by Rowland V. Lee
1946: The Return of Monte Christo, directed by Henry Levin
1975: Count of Monte Cristo, directed by David Greene
1998: The Count of Monte Cristo, television serial starring Gérard Depardieu
2002: Count of Monte Cristo, directed by Kevin Reynolds


Tác phẩm phỏng theo (sách)

1853 " A Mão do finado" Alfredo Hogan
1881: The Son of Monte Cristo, Jules Lermina
1869: The Countess of Monte Cristo, Jean Charles Du Boys, also 1934 và 1948
1946 The Wife of Monte Cristo
Kịch nói và nhạc kịch[sửa | sửa mã nguồn]
2000 Monte Cristo by Karel Svoboda (music) and Zdenek Borovec (lyrics), Prague
2003 The Count of Monte Cristo (Граф Монте-Кристо) by Alexandr Tumencev and Tatyana Ziryanova
2006 Monte Cristo - The musical by Jon Smith và Leon Parris
2008 Monte-Cristo by Roman Ignatyev (composer) and Yuli Kim (lyrics), Moscow
2009 The Count of Monte Cristo by Frank Wildhorn
2009 The Count of Monte Cristo, by Ido Ricklin
2010 The Count of Monte Cristo, Rock Opera by Pete Sneddon


Trên đài phát thanh

1938 - Orson Welles và the Mercury Theatre on the Air players (radio).
1939 - Orson Welles with Agnes Moorehead at Campbell Playhouse (radio)
1939 - Robert Montgomery on the Lux Radio Theater (radio)
1947 - Carleton Young (radio series)
1960s - Paul Daneman for Tale Spinners For Children series (LP) UAC 11044
1961 - Louis Jourdan for Caedmon Records (LP)
1987 - Andrew Sachs on BBC Radio

TÁC GIẢ .


Alexandre Dumas (24 tháng 7 năm 1802 – 5 tháng 12 năm 1870), còn được gọi Alexandre Dumas cha để phân biệt với con trai ông, ông là một nhà văn Pháp nổi tiếng. Những tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng của ông như là Ba chàng lính ngự lâm, Bá tước Monte Cristo giành được sự hâm mộ của độc giả khắp thế giới từ hơn một thế kỷ nay.

Alexandre Dumas sinh tại Villers-Cotterêts (Aisne). Ông là con trai của Tướng Dumas, vị tướng trong cuộc cách mạng Thomas Alexandre Davy de La Pailleterie. Cha Dumas chết khi Dumas mới được ba tuổi rưỡi, ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ. Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử tước Adolphe Ribbing de Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại.

Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Tử tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie-Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: kịch và tiểu thuyết lịch sử.

Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba chàng lính ngự lâm, còn được dịch Ba chàng ngự lâm pháo thủ (Trois Mousquetaires) và Bá tước Monte Cristo (Le Comte de Monte-Cristo) năm 1844.

Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt, cuốn Đại từ điển ăn uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con.

Dumas nức tiếng là người thay nhân tình như thay áo. Quả thật, ông cưới vợ chỉ một lần, gia đình này tan vỡ rất nhanh. Ông dan díu với 25 người đàn bà, có nhiều con hoang, mỗi con của một mẹ. Chỉ 3 con được công khai, trong đó con trai, cũng tên Alexandre Dumas, thường được gọi Alexandre Dumas con, trở nên một nhà văn lừng danh. Con gái thứ hai thì cuộc đời lỡ làng, con gái út – mà mẹ cô trẻ hơn Dumas đến gần 40 tuổi – thì chết cô đơn năm 1936 ở một làng quê trong nghèo khổ và không được ai biết đến là con gái cưng của một trong những vĩ nhân của nước Pháp. Mãi gần đây, người ta mới vỡ lẽ rằng Dumas đến với nhiều phụ nữ là do thương họ. Ông đồng thời chu cấp tiền nong đầy đủ cho vài người.

Dumas là người hết sức quý trọng tình bạn. Trừ Balzac và Musset, các nhà văn cùng thời đều chơi với ông, thân nhất là Victor Hugo, người đã đánh giá chính xác vai trò của ông ngay khi ông qua đời. Hugo viết: "Trong thế kỷ này, không ai được dân chúng yêu mến sâu rộng và thắm thiết bằng Alexandre Dumas. Các thành công của ông đều tầm cỡ hơn thành công nói chung nhiều. Đó là những đại thắng lợi. Đó là những ngọn đèn pha". Ông cũng là người đại lượng, năm 1831, do ghen tức với thành công của vở Antony của ông, Hugo cho người viết báo chê bai. Hai người giận nhau. Song năm 1834, ông chủ động giảng hoà.

Để hoàn toàn chủ động trong hoạt động sân khấu, ông bỏ ra một món tiền lớn để xây dựng Nhà hát kịch lịch sử của riêng ông. Khán giả rất nồng nhiệt, song không bù đắp nổi chi phí bỏ ra, nên cuối cùng nhà hát đóng cửa. Từ năm 1848, ông đã ra tờ báo đầu tiên. Sau đó, ông còn ra nhiều tờ báo nữa. Nhưng do quản lý kém, bị kiểm duyệt gây khó dễ, các tờ báo ấy tồn tại không bền, và ngốn của ông rất nhiều công sức và tiền bạc.

Ông cũng hai lần ứng cử vào Nghị viện đều thất bại, ứng cử vào Hội quốc ước thì chỉ được 261 phiếu, trong khi các đối thủ được 220.000, rồi phải sang Bỉ lưu vong năm 1851, sau cuộc đảo chính của Napoléon III.

Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: "trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời" (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti de la vie du passé), "nơi một nghĩa địa đẹp (Villers-Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh..." (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres)

Tác phẩm

Kịch

La chasse et l’amour, 1825
La noce et l’enterrement, 1826
Henri III et sa cour, 1829
Christine, ou Stockholm, Fontainebleau et Rome, 1830
Napoléon Bonaparte, ou trente ans de l’histoire de France, 1831
Antony, 1831
Charles VII chez ses grands vassaux, 1831
Teresa, 1831
La Tour de Nesle, 1832
Kean, 1836
Caligula, 1837
Mademoiselle de Belle-Isle, 1837
Des Demoiselles de Saint-Cyr, 1843
La jeunesse de louis XIV, 1854

Tiểu thuyết

Souvenirs d’Anthony, 1835
Chroniques de France Isabel de Bavière, 1835
La salle d’armes, 1838
Le capitaine Paul, 1838
Le capitaine Pamphile, 1839
Crimes célèbres, 1839-1841
Napoléon, 1840
Othon L’archer, 1840
Les Stuarts, 1840
Maître Adam Le calabrais, 1840
Les aventures de John Davys, 1840
Le maître d’armes, 1840-1841
Praxède, 1841
Nouvelles Impressions de Voyage (Midi de la France), 1841
Excursions sur les bords du Rhin, 1841
Souvenirs de voyage - Une année à Florence , 1841
Jehanne la pucelle 1429-1431, 1842
Le speronare, 1842
Le capitaine arena, 1842
Le Chevalier d'Harmental, 1842. Tiểu thuyết thành công đầu tiên.
Le Corricolo, 1843
Filles, lorettes et courtisanes, 1843
Georges, 1843
Sylvandire, 1844
Fernande, 1844
Les trois mousquetaires, 1844
Le château d’Eppstein, 1844
Cécile, 1844
Gabriel Lambert, 1844
Louis XIV et son siècle, 1844
Vingt ans après, 1845
La Guerre des Femmes (Những quận chúa nổi loạn), 1845
Bá tước Monte Cristo, 1845 – 1846
Une fille du régent, 1845
La Reine Margot (Hoàng hậu Mác gô), 1845
Les Médicis, 1845
Les frères corses, 1845
Le chevalier de Maison-Rouge, 1845-1846
La Dame de Monsoreau, 1846
Le bâtard de Mauléon, 1846
Joseph Balsamo, 1846, inspiré de la vie de Giuseppe Balsamo
Les deux Diane, 1846
Impressions de voyage, De Paris à Cadix, 1847
Les Quarante-cinq, 1847
Le Vicomte de Bragelonne (Cái chết của ba người lính ngự lâm), 1848
Les mille et un fantômes, 1849
Le Collier de la reine, inspiré de l'affaire du collier de la reine 1849
La femme au collier de velours, 1850
La Tulipe noire, (Hoa Tuy líp đen), 1850
Le trou de l’enfer, 1850
La colombe, 1850
Le Drame de Quatre Vingt Treize, 1851
Impression de voyage (en Suisse), 1851
Ange Pitou, 1851
Olympe de Clèves, 1851
La comtesse de Charny, 1853
Le pasteur d’Ashbourne, 1853
Isaac Laquedem, 1853
Les drames de la mer, 1853
Ingénue, 1853
La jeunesse de Pierrot, 1854
El salteador, 1855
Une vie d’artiste, 1854
Catherine Blum, 1854
Saphir, 1854
Vie et Aventures de la princesse de Monaco, 1854
Les Mohicans de Paris, 1854-1855
Souvenirs de 1830 à 1842, 1854
La dernière année de Marie Dorval, 1855
Marie Giovanni, journal d’une parisienne, 1855
Le page du duc de Savoir, 1855
Les grands hommes en robe de chambre, César, Henri IV, Richelieu, 1855 –1856
Madame du Deffand, 1856
Les compagnons de Jéhu, 1856
L’homme aux contes, 1857
Charles le Téméraire, 1857
Le meneur de loups, 1857
La dame de volupté, 1857
Les louves de Machecoul, 1858
De Paris à Astrakan, 1859
Jane, 1859
Histoire d’un cabanon et d’un chalet, 1859
La maison de glace, 1860
La route de Varennes, 1860
Mémoires de Garibaldi, 1860
Une aventure d’amour, 1860
Le père Gigogne, contes pour les enfants, 1860
La marquise d’Escoman, 1860
Une nuit à Florence sous Alexandre de Médicis, 1861
Les morts vont vite, 1861
Bric à Brac, 1861
La princesse Flora, 1863
La San-Felice, 1863
La boule de neige, 1863
Les Blancs et les Bleus1867
Les hommes de fer, 1867
La terreur prussienne, souvenirs dramatiques, 1868

Xuất bản sau khi ông qua đời

Le grand dictionnaire de cuisine, 1871
Création et rédemption, 1863
La fille du marquis, 1863
Le prince des Voleurs, 1863
Robin Hood le proscrit, 1863
L’île de feu, 1863
Le Chevalier de Sainte-Hermine. Tiểu thuyết cuối cùng của ông, xuất bản ban đầu dưới dạng bản thảo vào năm 1869, mới được tìm lại ở Thư viện Quốc gia Pháp và xuất bản lần đầu tiên dưới dạng tác phẩm hoàn chỉnh năm 2005.






Bản tiếng Anh .

http://www.gutenberg.org/files/1184/1184-h/1184-h.htm#linkC2HCH0117

http://www.gutenberg.org/ebooks/1184






-------------------------------------------------------------------------------------------

 Hướng Chân Thiện Mỹ
 Độc lập tư duy
 Hoài nghi hợp lý
 Tự do sáng tạo .

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran