5Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai-trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ-lùng, là Đấng Mưu-luận, là Đức Chúa Trời Quyền-năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình-an. 6Quyền cai-trị và sự bình-an của Ngài cứ thêm mãi không thôi, ở trên ngôi Đa-vít và trên nước Ngài, đặng làm cho nước bền-vững, và lập lên trong sự chánh-trực công-bình, từ nay cho đến đời đời. Thật, lòng sốt-sắng của Đức Giê-hô-va vạn-quân sẽ làm nên sự ấy!
1Lúc ấy, Sê-sa Au-gút-tơ ra chiếu-chỉ phải lập sổ dân trong cả thiên-hạ. 2Việc lập sổ dân nầy là trước hết, và nhằm khi Qui-ri-ni-u làm quan tổng-đốc xứ Sy-ri. 3Ai nấy đều đến thành mình khai tên vào sổ.
4Vì Giô-sép là dòng-dõi nhà Đa-vít, cho nên cũng từ thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê, lên thành Đa-vít, gọi là Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, 5để khai vào sổ tên mình và tên Ma-ri, là người đã hứa gả cho mình, đương có thai. 6Đang khi hai người ở nơi đó, thì ngày sanh đẻ của Ma-ri đã đến. 7Người sanh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc con mình, đặt nằm trong máng cỏ, vì nhà quán không có đủ chỗ ở.
8Vả, cũng trong miền đó, có mấy kẻ chăn chiên trú ngoài đồng, thức đêm canh-giữ bầy chiên. 9Một thiên-sứ của Chúa đến gần họ, và sự vinh-hiển của Chúa chói-lòa xung-quanh, họ rất sợ-hãi. 10Thiên-sứ bèn phán rằng: Đừng sợ chi; vì nầy, ta báo cho các ngươi một tin lành, sẽ là một sự vui-mừng lớn cho muôn dân; 11ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu-thế, là Christ, là Chúa. 12Nầy là dấu cho các ngươi nhìn-nhận Ngài: Các ngươi sẽ gặp một con trẻ bọc bằng khăn, nằm trong máng cỏ. 13Bỗng-chúc có muôn-vàn thiên-binh với thiên-sứ đó ngợi-khen Đức Chúa Trời rằng:
14Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao,
Bình-an dưới đất, ân-trạch cho loài người!
15Sau khi các thiên-sứ lìa họ lên trời rồi, bọn chăn chiên nói với nhau rằng: Chúng ta hãy tới thành Bết-lê-hem, xem việc đã xảy đến mà Chúa cho chúng ta hay. 16Vậy, họ vội-vàng đi đến đó, thấy Ma-ri, Giô-sép, và thấy con trẻ đang nằm trong máng cỏ. 17Đã thấy vậy, họ bèn thuật lại những lời thiên-sứ nói về con trẻ đó. 18Ai nấy nghe chuyện bọn chăn chiên nói, đều lấy làm lạ. 19Còn Ma-ri thì ghi-nhớ mọi lời ấy và suy-nghĩ trong lòng. 20Bọn chăn chiên trở về, làm sáng danh và ngợi-khen Đức Chúa Trời về mọi điều mình đã nghe và thấy y như lời đã bảo trước cùng mình.
21Đến ngày thứ tám, là ngày phải làm phép cắt-bì cho con trẻ, thì họ đặt tên là Jêsus, là tên thiên-sứ đã đặt cho, trước khi chịu cưu-mang trong lòng mẹ.
Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; . Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an.(Ê-sai 9:6)
[đọc Ê-sai 9:2-8)
Tôi đọc lời hứa của Đức Chúa Jesus trước khi Ngài thăng thiên: “Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma-thi-ơ 28:20b), tôi luôn tin chắc, biết rất rõ rằng, cho dù đó là lời Đức Chúa Jesus phán cùng các môn đệ Ngài khi xưa, nhưng cũng là lời Chúa hứa với tôi hôm nay và vẫn còn có hiệu lực trên đời sống của riêng tôi. Dẫu vậy, điều này vẫn để lại trong tôi một cảm giác mơ hồ cho dù tôi không mảy may nghi ngờ. Và rồi tôi đọc đến lời tuyên bố của một tiền bối hết sức từng trải: “… tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi” (Ga-la-ti 2:20). Mọi việc tôi đều tin và biết tất cả, nhưng không thể nói là đã hoàn toàn có kinh nghiệm thực tiễn để nhận biết có Chúa ở cùng mình. Cái mơ hồ đó đến hôm nay được đánh tan, để thay vào đó là một hạnh phúc vô biên khi biết lời hứa của Chúa là một thực tế không thể chối cải, vô cùng phước hạnh cho đời sống của một người thuộc về Chúa, và tôi chính là một cá nhận trong tập thể đó.
Tâm trí tôi như bừng sáng, giống như lời Chúa hôm nay được khởi đầu bằng câu “Dân đi trong nơi tối tăm đã thấy sự sáng lớn; và sự sáng đã chiếu trên những kẻ ở xứ thuộc về bóng của sự chết” (câu 2). Được nghe phân tích bốn danh xưng của Cứu Chúa là thấy sướng mê: “Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an”. Đó lại là món quà từ trời ban cho một người không có gì gọi là xứng đáng như tôi đây.
Đấng Mưu Luận Lạ Lùng. Chúa là Đấng lập kế hoạch, lên phương án, chỉ dẫn cho tôi phương cách để giải quyết mọi vấn đề xảy đến trong đời sống tôi. Tôi không tự giải quyết, mà thật ra tôi không đủ khả năng để giải quyết mọi nan đề, mọi khó khăn, mọi chướng ngại vật trong đời sống mình. Nhưng, bên tôi có một vị cố vấn siêu việt, giúp tôi thắng hơn bất cứ một trở ngại nào của đời này, cả của kẻ thống trị cõi đời này. Chúa của tôi phán rằng: “Ta đã bảo các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong ta. Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi! ” (Giăng 16:33).
Không ngừng lại ở việc chỉ bảo, nghĩa là không phải chỉ là lý thuyết, Người còn ra tay giải quyết cho tôi bằng năng lực vô đối của Người, bởi Ngài là Đức Chúa Trời Quyền năng. Hãy nghe lời phán của Đức Chúa Jesus: “Sự chi người ta không làm được, thì Đức Chúa Trời làm được” (Lu-ca 18:27).
Tất cả những điều đó không phải được thực hiện theo cách đáp ứng tình cảm như thế gian vẫn thường làm, nhưng Đức Chúa Trời làm những điều đó cho tôi bằng tình yêu thương của Cha dành cho con trong nhà Ngài, không phải chỉ trong giai đoạn, hay khi tôi là đứa con ngoan, giỏi giang. Điều quý báu mà Ngài dành hết mọi tình cảm cho tôi được gói gọn trong danh xưng “Cha Đời đời”.
Và thế là, trọn đời tôi sẽ sống với “Chúa Bình an”, Đấng có sự bình an, tạo ra và ban sự bình an kỳ diệu đó cho tôi, người được sống gần bên Ngài trong mọi hoàn cảnh phải trải qua, như tiền bối Đa-vít đã hát lên như vầy: “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, Tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào; vì Chúa ở cùng tôi; Cây trượng và cây gậy của Chúa an ủi tôi” (Thi thiên 23:4).
Thế thì, Chúa đòi hỏi điều gì ở tôi để đổi lại tôi được sống trong Chúa yên vui như thế? Chúa chỉ cần tôi tin Ngài và để Ngài cai quản toàn vẹn con người và đời sống tôi, quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Phải, trên ngai của lòng tôi, không còn có một thế lực nào khác kể cả cái tôi to đùng, Chúa sẽ toàn quyền hành động để tôi sống hạnh phúc, vui vẻ trong Chúa. Khi tôi chấp nhận bằng đức tin, và chỉ bằng đức tin thôi, Chúa sẽ ngự trong tôi với tất cả tình yêu thương mà Ngài luôn sẵn dành cho những kẻ thuộc về Ngài, những kẻ được gọi là con cái Chúa.
Thật là một tặng phẩm vô giá, và đó là điều tôi cần nhận biết để mở lòng đón nhận trong tinh thần thấu hiểu rằng: “Có một con trẻ sanh cho tôi (chúng ta), tức là một con trai ban cho tôi (chúng ta) ”. Chúa đã sanh ra vì tôi, và được ban cho tôi. Đó là ân sủng, ân điển chứ không phải là đổi chát tương xứng, hay đòi hỏi công đức gì nơi tôi. Cuộc đời tôi đẹp như vậy đó để cứ mỗi mùa Giáng Sinh, tôi lại được nhắc về ân điển lớn lao mà Đức Chúa Trời dành tặng tôi cùng với những ai vui lòng đón nhận chính Ngài bước vào đời sống mình.
Câu chuyện Giáng Sinh .
Khi cơn gió đông ùa nhanh qua khung cửa ,
Những sợi nắng vàng không se sắt trên da
Anh chợt nhớ mùa Giáng Sinh xưa cũ
Rạo rực niềm vui và hạnh phúc chan hòa .
Bước rộn ràng nàng thu trên góc phố
Một ít đắm say mơ mộng tuổi xuân thì ,
Với nụ hôn thơm bỡ ngỡ đón đông về
Cuộc sống bỗng chậm dần trong gió rét .
Để trở về anh trong êm đềm da diết
Niềm hạnh phúc ngọt ngào mong ước được xẻ chia .
Rồi những đói no thường nhật của ai kia ,
Đã xếp lại nhường niềm vui đang đến .
Quanh cây Nô-En lung linh ngọn nến
Nhiều hộp quà xinh vui ánh mắt em thơ ,
Bỗng thấy lòng anh mềm mại như tơ
Vang lên ca khúc mừng Giáng Sinh năm mới .
Anh đã làm gì khi niềm tin hấp hối ,
Khi trái tim anh chìm đắm nỗi hoang mang ?
Nhưng Thượng Đế-
đã từng được sinh ra ở chốn nghèo nàn
Không cả chỗ gối đầu - Ngài thành người trong máng cỏ .
Sứ điệp bình an được truyền từ quán trọ
Không phải chốn cao sang quyền quý trên đời .
Ân điển ban ra cho khắp cả loài người :
Giáng Sinh thật khi lòng anh yêu thương rộng mở . !
------------------------------------------------------------------------------------------- Even in darkness light dawns for the upright, for those who are gracious and compassionate and righteous.
Psalm 112:4 Mục-đích của sự răn-bảo, ấy là sự yêu-thương, bởi lòng tinh-sạch, lương-tâm tốt và đức-tin thật mà sanh ra.
I Ti-mô-thê 1:5
Trong bài học trước chúng ta học biết Chúa Jêsus là thần. Ngài là con Đức Chúa Trời. Trong câu chuyện giáng sinh, chúng ta học biết Đức Chúa Jêsus đã trở thành người- mặc lấy hình thể loài người. (Phi 2:5-8). Chúng ta tin rằng vì cớ tội lỗi của A-đam mọi người sanh ra sau đó đều mang bản tính tội lỗi của tổ tông truyền lại. Vậy làm thế nào mà Chúa Jêsus sinh ra mà không phải mang bản tính tội lỗi.
Thi 51:5 "Kìa tôi sinh ra trong sự gian ác..."
Thi 58:3 "Kẻ ác bị sai lầm từ trong tử cung, chúng nó nói dối lầm lạc từ khi mới lọt lòng mẹ "
Nếu Đấng Christ thừa hưởng bản tính tội lỗi thì Ngài là tội nhân và chết mất và tội lỗi mình, cho dù Đấng Christ sống một đời vô tội Ngài cũng không thể cứu rỗi được một linh hồn nào. Nếu Đấng Christ được sinh ra mà không mang bản tánh tội lỗi, thì làm thế nào có được như thế?
Đức Chúa Cha đã giải quyết nan đề này bằng việc mà ta gọi là sự Giáng sinh bởi nữ đồng trinh. Sự mầu nhiệm nầy cần được các cơ đốc nhân tin tưởng, tôn kính và tiếp nhận. Câu trả lời hợp lý duy nhất với nan đề này là bản tính tội lỗi được di truyền từ người Cha sang người con chứ không phải từ người mẹ sang người con. Chúa Jêsus không có cha là người vì Đức Thánh Linh chính là Cha Ngài. Bà Ma-ri là mẹ nhưng không truyền bản tính tội lỗi cho Hài nhi Jêsus.
Thật lạ lùng thay Đức Chúa Trời chúng ta là Đấng đã giải quyết nan đề nầy, ngõ hầu chúng ta có được Đấng Cứu thế có khả năng thực sự cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi qua sự Ngài hy sinh đền tội trên thập tự giá.
I. CỰU ƯỚC DỰ BÁO VỀ SỰ GIÁNG SINH BỞI NỮ ĐỒNG TRINH:
- Sáng 3:15 là lời hứa đầu tiên về Đấng cứu chuộc ban cho loài người sau khi tổ phụ chúng ta sa ngã.
- Sáng 12:1-3 Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham là cha của tuyển dân Y-sơ-ra-ên.
-Sáng 49:10 Phước hạnh nầy được ban cho qua chi phái Giu-đa.
- 2 Sa-mu-ên 7:8-16 Đấng cứu thế phải sanh ra trong dòng vua Đa-vít, là "con vua Đa-vít "
- Ê-sai 7:14 "Nầy một nữ đồng trinh sẽ chịu thai và sanh một con trai, và người ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên "Ma-thi-ơ 1:23.
- Ê-sai 9:6.
II. LỜI TIÊN NẦY ỨNG NGHIỆM TRONG LỊCH SỬ:
Ma-thi-ơ 1:18-25 tường thuật chuyện giáng sinh bời trinh nữ giống như Lu-ca 2:4-7, Ma-ri được hứa gả cho Giô-sép nhưng chưa thành hôn. Đấng Christ được sinh ra bởi một trinh nữ nhưng là một trinh nữ đã hứa gả ngõ hầu nàng có thể được thành hôn sau này để bảo vệ thanh danh của nàng.
Sự thọ thai của Ma-ri là hoàn toàn từ Đức thánh Linh chứ không do Giô-xép hoặc bất cứ ai khác. Đức Chúa Trời bảo đảm điều này để ban cho chúng ta một Đấng cứu thế toàn vẹn. Chúa đã khuyến khích Giô-xép cưới Ma-ri làm vợ để bảo vệ nàng khỏi sự nghiêm khắc của luật pháp (Lê-vi ký 20:10). Ma-thi-ơ 1:25 kể lại cho chúng ta biết rằng dầu Giô-xép và Ma-ri cưới nhau rồi nhưng họ không hề ăn ở với nhau như vợ chồng cho đến khi sinh Chúa Jêsus. Đức Chúa Trời quan tâm đặc biệt đó đưa câu Kinh thánh nầy với đầy chi tiết cần thiết, đẻ tỏ cho chúng ta biết rằng Đấng cứu thế không bị ô nhiễm bởi một người cha là người trần gian.
III. KINH THÁNH DẠY VỀ SỰ GIÁNG SINH BỞI TRINH NỮ:
Một số người cố gắng chủ trương rằng Phao-lô không dạy về việc Đấng Christ giáng sinh bởi trinh nữ. Đúng ra, Phao-lô không dùng lời diễn đạt như từ liệu nầy, nhưng Phao-lô đã biết về Đấng Christ phục sanh trong I Cô-rinh-tô 15:8 và thừa nhận Ngài là Đấng làm ứng nghiệm Ê-sai 7:14. Phao-lô đã viết trong Cô-lô-se 1:15-17 trình bày một bức tranh về sự cao cả của Chúa Jêsus Christ. Tiên tri Ê-sai đã tiên tri về việc Đấng Christ Giáng sinh bởi nữ đồng trinh từ 740 năm,trước khi việc nầy xảy ra. Ma-thi-ơ đã chép rõ ràng rằng Chúa Jêsus được sinh bởi nữ đồng trinh, thọ thai bởi Đức Thánh Linh Ma-thi-ơ 1:18,20,23. Lu-ca một bác sĩ y khoa, rất quan tâm đến hiện tượng nầy, mọi trẻ em đều có cha, ai là cha của hài nhi Jêsus?
Nếu cha của Ngài là người thường thì Ngài mang bản tính tội lỗi và chúng ta vẫn còn mang tội lỗi.
Lu-ca giải thích rất cẩn thận về sự thọ thai phi thường nầy trong Lu-ca 1:27,31,34,35.
Lu-ca 1:34 Ma-ri hỏi thiên sứ câu hỏi đầy tình cảm, làm thế nào tôi có con được khi tôi chưa lấy chồng? Điều nầy là lời tự thú của Ma-ri chưa hề chăn gối và nàng vẫn còn đồng trinh.
Lu-ca 1:35 Thiên sứ cẩn thận giải thích rằng Đức Thánh Linh sẽ là cha của Hài nhi Jêsus.
IV. MỤC ĐÍCH SỰ GIÁNG SINH BỞI TRINH NỮ:
1. Để giãi bày Cha. Giăng 1:18 Chúa Jêsus đến để giãi bày Cha cho chúng ta.
2. Để nối nhịp cầu đứt đoạn giữa Đức Chúa Trời và loài người. 1 Ti-mô-thê 2:5.
3. Để cứu vớt nhân loại Hê-bơ-rơ 2:14,16, đây là mục đích chính đưa Jêsus Giáng thế.
4. Để giải thoát toàn bộ công trình sáng tạo. Rô-ma 8:19-22 V.TẦM QUAN TRỌNG CỦA
V. TÍN LÝ GIÁNG SINH BỞI TRINH NỮ:
Ngày nay, các nhà thần học Tân phái và các nhà vô tín tấn công Giáo lý này, cũng như họ tấn công Giáo lý về sự hư hoại hoàn toàn của nhân loại,về Thần tánh Chúa Jêsus và về sự hà hơi của Thánh Kinh.
Nếu loài người hoàn toàn hư hoại thì họ mới cần một Đấng cứu thế để giải cứu họ. Đấng giải cứu này phải là người Thánh và có khả năng Chúa Jêsus chính là Chúa cứu thế duy nhất của nhân loại. Phương cách duy nhất để Chúa Jêsus trở thành người mà không mang bản tánh tội lỗi, ấy là Ngài phải được sanh ra bởi trinh nữ. Một trinh nữ là một thiếu nữ chưa hề ăn ở với một người đàn ông nào. Ma-ri vẫn là một trinh nữ cho đến sau khi sanh Chúa Jêsus. Sau đó, Ma-ri và Giô-xép đã sống với nhau như chồng và vợ.
Sự cứu rỗi gắn chặt với giáo lý này. Nếu Chúa Jêsus không sanh ra bởi trinh nữ, Ngài vẫn là tội nhân như chúng ta và không thể cứu chúng ta ra khỏi tội, chúng ta vẫn hư mất.
1. Đây là lẽ thật không thể chối bỏ. Đây là điều Kinh thánh dạy cách rõ ràng. Chúng ta tin nhận sự hà hơi của Thánh kinh và chúng ta tin rằng sự dạy dỗ này là tuyệt đối thật.
2. Đây là chân lý không thể thay đổi. Giáo lý này đứng vững với Thánh Kinh và không thay đổi theo thời gian,theo tư tưởng hay theo lý thuyết của loài người (Hê-bơ-rơ 13:8).
3. Đây là một lẽ thật cần kíp. Giáo lý này thiết cho kế hoạch cứu rỗi. Một Cứu Chúa không sinh ra bởi trinh nữ không thể cứu được một linh hồn nào.
4. Đây là một Lẽ thật không thể nhận biết hết được. Đây là một mầu nhiệm kín dấu trong Đức Chúa Trời. Có thể nói sự sống và sự sinh sản cũng là một sự mầu nhiệm. Làm thế nào một cây truyền sự sống vào hạt của nó ngày nay vẫn còn là sự mầu nhiệm đối với chúng ta. I Cô-rinh-tô 4:1 là Cơ đốc nhân chúng ta là những người quản lý "các sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời."
5. Đây là Lẽ thật vô điều kiện. Tôi tin rằng Lẽ thật phải được mỗi chúng ta thừa nhận vô điều kiện. Rô-ma 10:9, chúng ta phải thừa nhận Jêsus là Chúa, và nếu Ngài không sinh bởi trinh nữ Ngài không thể là Chúa Cứu thế vì Ngài phá bỏ lời tiên tri trong Kinh thánh.
6. Đây là Lẽ thật hữu ích, vì Đức Chúa Trời toàn năng bây giờ đã nhập thể với đủ tư cách một con người, vả lại là người vô tội, không mang bản tính tội lỗi, một người có thể cứu vớt người khác. Em-ma-nu-ên nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Điều này đã thành hiện thực vì Đức Chúa Trời đã đến sống trên quả đất với chúng ta.
7. Đây là Lẽ thật không thể loại bỏ được, vì hằng năm chúng ta đều nhắc đến qua Lễ Giáng sinh. Chúng ta phải không ngừng dạy dỗ Lẽ thật này cho thế giới ngày nay.
VI. Ý NGHĨA SỰ GIÁNG SINH BỞI TRINH NỮ :
Chúa Jêsus Christ không phải là một con ma, Ngài là người thật bằng xương bằng thịt. Phi 2:7 Ngài trở thành anh cả chúng ta. Chúa Jêsus cũng là Đức Chúa Trời vì Ngài đầu thai bởi Thánh Linh. Jêsus Christ là vô tội vì Ngài sanh bởi trinh nữ không mang bản tính sa ngã hư hoại của con người. Ngài không nhiễm nguyên tội.
VII. NHỮNG SỰ CHỐNG ĐỐI GIÁO LÝ NẦY :
1. Giáo lý này chỉ tìm thấy được trong vài câu Kinh thánh. Thật ra một câu Kinh thánh xác định cũng đủ, nhưng ở đây cả Ê-sai, Ma-thi-ơ và Lu-ca đều xác quyết.
2. Chính Chúa Jêsus không hề tự tuyên bố Ngài sanh ra bởi trinh nữ. Đúng ra, Chúa ngụ ý trong Giăng 6:51 "Ta là bánh từ trời xuống."
3. Các khoa học gia không chấp nhận việc này vì nó ngược lại với quy luật sinh học. Chúa Jêsus không đến bằng sự thụ thai bình thường mà bằng một phép lạ.
4. Những người khác chống lại giáo lý này vì cho rằng nó mầu nhiệm quá. Thật ra, sự sống là một phép lạ, kỳ diệu mầu nhiệm.
5. Các thần học gia hiện đại không thừa nhận tín lý này. Điều này không làm thay đổi sự thật vì Kinh thánh đã dạy đến bằng lời tiên tri và bằng lịch sử có thật.
KẾT LUẬN:
Chúng ta tạ ơn Đức Chúa Trời ví Ngài đã tìm cách đưa Đấng Cứu thế vào thế gian mà không nhiễm nguyên tội tổ tông. Hãy dạy giáo lý mãi mỗi lần đến lễ Giáng sinh.
Câu hỏi ôn:
1. Tại sao Chúa Jêsus không nhiễm bản tính tội lỗi? (Thi 51:5).
2. Lời hứa đầu tiên về Chúa Cứu thế trong Kinh thánh được chép ở đâu?
3. Lời tiên tri Cựu ước về sự sanh bởi trinh nữ ở đâu?
4. Lời tiên tri này ứng nghiệm ra sao?
5. Bốn mục đích sự sanh bởi trinh nữ là gì?
6. Hậu quả việc từ khước thần tánh Đấng Christ và sự giáng sinh bởi trinh nữ của Ngài?
7. Tại sao mầu nhiệm này không thể hiểu cách trọn vẹn?
8. Sợi dây nối liền sự sống động giữa thần tánh Đấng Christ và sự ra đời bời trinh nữ của Ngài là gì?
9. Khía cạnh thực tế của giáo lý này đối với chúng ta ngày nay ra sao?
10. Tại sao các nhà tân phái cố chối bỏ giáo lý này?
oooOoooOoooOoooOooo
------------------------------------------------------------------------------------------- Even in darkness light dawns for the upright, for those who are gracious and compassionate and righteous.
Psalm 112:4 Mục-đích của sự răn-bảo, ấy là sự yêu-thương, bởi lòng tinh-sạch, lương-tâm tốt và đức-tin thật mà sanh ra.
I Ti-mô-thê 1:5
Vài Nét Về Tác Phẩm Ich habe genug (BWV 82) là một cantata do Johann
Sebastian Bach (1685-1750) sáng tác. Bản thánh nhạc này được trình bày
lần đầu tiên vào ngày 2/2/1727 tại Leipzig, Đức quốc. Tựa đề Ich habe genugtạm dịch sang tiếng Việt là Con Thỏa Lòng.
Nội dung của bài thánh ca lấy ý từ Phúc Âm Lu-ca 2:29-32, diễn tả tâm
trạng thỏa lòng của Simeon khi gặp Hài Nhi Jesus; do đó, trong tiếng
Việt bài thánh ca này được gọi là Bài Ca Của Simeon. Tác Giả
Johann Sebastian Bach là một nhạc sĩ trong thế kỷ 18. Ông được xem
là nhạc sĩ hàng đầu của nhạc Baroque và là một trong những nhạc sĩ vĩ
đại nhất từ xưa đến nay.
Johann Sebastian Bach sáng tác nhiều thể loại nhạc khác nhau. Phần
lớn các tác phẩm của Bach là thánh nhạc. Một số tác phẩm của Bach như The Passion According to St. John, The Passion According to St. Matthew, và Mass in B Minor được các nhà nghiên cứu ghi nhận là những tác phẩm nhạc cổ điển hay nhất từ xưa cho đến nay. Bối Cảnh Sáng Tác
Johann Sebastian Bach là một tín hữu Tin Lành yêu mến Chúa. Bach nhận
biết tài năng của mình đến từ Chúa và ông quyết định dùng tài năng đó
để tôn ngợi Chúa.
Năm 1723, Johann Sebastian Bach nhận lời làm giám đốc âm nhạc cho
giáo khu St. Thomas của Giáo hội Tin Lành Lutheran tại thành phố
Leipzig. Một trong những trách nhiệm của Bach, một nhạc trưởng trong
nhà thờ, là hướng dẫn ca đoàn hát thờ phượng Chúa trong các lễ thờ
phượng hằng tuần.
Thông thường, các nhạc trưởng chỉ chọn thánh ca đã được viết sẵn, cải
soạn hòa âm, rồi tập cho ban hát và dàn nhạc. Trong trường hợp của
Bach, ông không chỉ dùng những thánh ca đã có sẵn, nhưng Bach đã sáng
tác rất nhiều cantata mới để minh họa cho bài giảng của mục sư
trong giờ thờ phượng hằng tuần. Trong vài năm đầu làm nhạc trưởng tại
Leipzig, Johann Sebastian Bach đã sáng tác hơn 300 cantatas.
Năm 1750, Johann Sebastian Bach về với Chúa. Sau khi Bach qua đời,
một số người thời đó, vì thiếu hiểu biết, cho rằng nhạc của Bach đã lỗi
thời; do đó rất nhiều tác phẩm của Bach bị thiêu hủy. Các sáng tác của
Johann Sebastian Bach sau đó bị lãng quên một thời gian khá lâu.
Đến cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19, một số nhạc sĩ thuộc thế
hệ sau như Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791), Ludwig van Beethoven
(1770-1827), Frédéric FrançoisChopin (1810-1849), Robert
Schumann (1810-1856), và Felix Mendelssohn (1809-1847) có dịp tiếp xúc
với nhạc của Bach. Họ cảm nhận được vẻ đẹp và hiểu được giá trị trong
những tác phẩm của Bach. Các nhạc sĩ này công nhận rằng Johann Sebastian
Bach không phải chỉ lỗi lạc trong việc biên soạn và sáng tác cho đàn
organ, nhưng ông là bậc thầy và chính là người đã đặt nền móng cho nghệ
thuật hòa âm của nhạc cổ điển. Động lực khiến Bach thực hiện những điều
đó vì ông muốn dùng những cấu trúc âm nhạc và giai điệu đẹp nhất để tôn
kính Chúa.
Đến giữa thế kỷ thứ 19, một số tác phẩm của Johann Sebastian Bach
được giới thiệu trở lại với công chúng. Sau đó, Hội Những Người Yêu
Nhạc Bach được thành lập. Trong suốt 160 năm qua, các nhà nghiên cứu đã
sưu tầm tìm lại những tác phẩm của Johann Sebastian Bach. Đến nay,
khoảng hơn 200 cantatas mà Bach đã viết cho các chương trình thờ phượng
hằng tuần đã được tìm lại; hơn 100 cantatas khác vẫn còn thất lạc.
Lời của bài thánh ca trong nguyên văn tiếng Đức và bản dịch trong tiếng Anh như sau: Lời Ca
1. Arie Ich habe genug,
Ich habe den Heiland,
das Hoffen der Frommen,
Auf meine begierigen Arme genommen;
Ich habe genug!
Ich hab ihn erblickt,
Mein Glaube hat Jesum ans Herze gedrückt;
Nun wünsch ich, noch heute mit Freuden
Von hinnen zu scheiden.
2. Rezitativ Ich habe genug.
Mein Trost ist nur allein,
Daß Jesus mein
und ich sein eigen möchte sein.
Im Glauben halt ich ihn,
Da seh ich auch mit Simeon
Die Freude jenes Lebens schon.
Laßt uns mit diesem Manne ziehn!
Ach! möchte mich von meines Leibes Ketten
Der Herr erretten;
Ach! wäre doch mein Abschied hier,
Mit Freuden sagt ich, Welt, zu dir:
Ich habe genug. 3. Arie Schlummert ein, ihr matten Augen,
Fallet sanft und selig zu!
Welt, ich bleibe nicht mehr hier,
Hab ich doch kein Teil an dir,
Das der Seele könnte taugen.
Hier muß ich das Elend bauen,
Aber dort, dort werd ich schauen
Süßen Friede, stille Ruh. 4. Rezitativ Mein Gott! wenn kömmt das schöne: Nun!
Da ich im Friede fahren werde
Und in dem Sande kühler Erde
Und dort bei dir im Schoße ruhn?
Der Abschied ist gemacht,
Welt, gute Nacht! 5. Arie Ich freue mich auf meinen Tod,
Ach, hätt’ er sich schon eingefunden.
Da entkomm ich aller Not,
Die mich noch auf der Welt gebunden.
1. Aria I have enough,
I have taken the Savior,
the hope of the righteous,
into my eager arms;
I have enough!
I have beheld Him,
my faith has pressed Jesus to my heart;
now I wish, even today with joy
to depart from here. 2. Recitative I have enough.
My comfort is this alone,
that Jesus might be mine
and I His own.
In faith I hold Him,
there I see, along with Simeon,
already the joy of the other life.
Let us go with this man!
Ah! if only the Lord might rescue me
from the chains of my body;
Ah! were only my departure here,
with joy I would say, world, to you:
I have enough. 3. Aria Fall asleep, you weary eyes,
close softly and pleasantly!
World, I will not remain here any longer,
I own no part of you
that could matter to my soul.
Here I must build up misery,
but there, there I will see
sweet peace, quiet rest. 4. Recitative My God! When will the lovely ‘now!’ come,
when I will journey into peace
and into the cool soil of earth,
and there, near You, rest in Your lap?
My farewells are made,
world, good night! 5. Aria I delight in my death,
ah, if it were only present already!
Then I will emerge from all the suffering
that still binds me to the world.
Nội Dung Bài Ca Của Simeon là một cantata mà Bach đã viết vào
dịp kỷ niệm lễ Thanh Tẩy của Mary vào năm 1727. Bài cantata này được
trình bày lần đầu tiên vào ngày 2/2/1727 tại Leipzig, đúng 40 ngày sau
lễ giáng sinh năm 1726.
Lý do bài thánh ca được trình diễn đúng 40 ngày sau lễ giáng sinh vì
theo Thánh Kinh Cựu Ước, sau khi một phụ nữ Do Thái sinh con, người đó
phải làm lễ thanh tẩy. Nếu sinh con trai thì lễ thanh tẩy diễn ra 40
ngày sau khi sinh xong. Sách Lê-vi ký trong Thánh Kinh Cựu Ước chương
12 chép như sau:
Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nếu một phụ nữ mang thai và sinh con trai, người ấy sẽ bị ô uế
bảy ngày như trong thời kỳ kinh nguyệt. Ðến ngày thứ tám, phải làm phép
cắt bì cho đứa trẻ. Thời kỳ cho máu của nàng được thanh tẩy là ba mươi
ba ngày. Trong thời gian này, nàng không được phép đụng vào một vật
thánh nào, và cũng không được phép vào nơi thánh, cho đến khi thời kỳ
thanh tẩy đã mãn. Còn nếu người phụ nữ sinh con gái, người ấy sẽ bị ô uế hai tuần
như trong thời kỳ kinh nguyệt, và thời kỳ để cho máu nàng được thanh tẩy
là sáu mươi sáu ngày. Khi thời kỳ thanh tẩy của nàng đã xong, dù sinh con trai hay con
gái, nàng phải mang đến cho thầy tế lễ tại cửa Lều Hội Kiến một con
chiên dưới một tuổi để dâng làm của lễ thiêu, và một con bồ câu con,
hoặc một con chim gáy, để dâng làm của lễ chuộc tội. Thầy tế lễ sẽ dâng con vật hiến tế ấy trước mặt Đức Giê-hô-va và
làm lễ chuộc tội cho nàng; bấy giờ nàng sẽ được sạch vì huyết đã xuất
ra. Ðó là luật lệ về người phụ nữ sinh con trai hoặc con gái. Nếu nàng không đủ khả năng dâng một chiên con, nàng có thể mang
đến hai con chim gáy, hoặc hai con bồ câu con; một con sẽ được dâng làm
của lễ thiêu, và con kia sẽ được dâng làm của lễ chuộc tội. Tư tế sẽ làm
lễ chuộc tội cho nàng, và nàng sẽ được sạch.”
Phúc Âm Lu-ca 2:22-35 chép rằng sau khi những ngày thanh tẩy theo
luật định đã mãn, Mary và Joseph đem Hài Nhi Jesus lên Jerusalem để dâng
cho Đức Chúa Trời. Lúc này, Hài Nhi đã được 40 ngày.
Tại đền thờ, họ gặp cụ Simeon, là một người đạo đức và công chính,
luôn trông đợi sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Cụ Simeon được Đức Thánh
Linh cho biết cụ sẽ không chết trước khi gặp Đấng Cứu Thế.
Theo sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, cụ Simeon đã gặp Joseph và Mary
khi họ mang Hài Nhi Jesus đến Đền Thờ để làm các thủ tục theo luật lệ ấn
định. Cụ Simeon thỏa lòng vì mơ ước của mình được Chúa thực hiện. Cụ
bồng Hài Nhi trên tay, dâng lời tôn ngợi Đức Chúa Trời như sau: Lạy Chúa! Theo như lời Ngài đã hứa, bây giờ xin cho tôi tớ Ngài
qua đời bình an; bởi vì chính mắt con đã thấy ơn cứu rỗi của Ngài mà
Ngài đã chuẩn bị trước mặt mọi dân tộc – là ánh sáng soi đường cho các
dân ngoại, và là vinh quang của Israel – dân Ngài.
Lời ngợi ca của Simeon bày tỏ sự thỏa nguyện, và đó chính là chủ đề
của bản cantata mà Johann Sebastian Bach đã sáng tác. Tựa đề của bài
cantata này trong tiếng Đức “Ich habe genug” – tạm dịch là “Con Thỏa Lòng.” Vì nội dung của cantata dựa trên lời ngợi ca của Simeon, nên tác phẩm này trong tiếng Việt được gọi là Bài Ca Của Simeon. Bố Cục
Cantata Ich habe genug được chia làm 5 phần:
Aria: Ich habe genug
Recitativo:Ich habe genug! Mein Trost ist nur allein
Aria:Schlummert ein, ihr matten Augen
Recitativo:Mein Gott! wenn kömmt das schöne: Nun!
Aria:Ich freue mich auf meinen Tod
Phần mở đầu của cantata là aria Con Thỏa Lòng. Chủ đề
chính của cantata được viết trong cung Đô thứ (Cm) thể hiện tình cảm sâu
lắng nhẹ nhàng. Tiếng kèn oboe và đàn dây quyện vào nhau thật hài hòa,
giai điệu trầm lắng nhưng không u sầu; nhịp điệu thong thả của aria diễn
tả tâm trạng của một người thoả nguyện sẵn sàng về với Chúa: không ưu
tư, không trăn trở, không nuối tiếc.
Lời thánh ca nói rằng: Con thỏa lòng vì con đã gặp Cứu Chúa, là niềm
hy vọng của sự công chính. Con được ôm Ngài trong vòng tay háo hức của
con. Con thỏa lòng vì con được bồng ẵm Ngài; đức tin của con ôm chặt
Ngài trong tim con; và giờ đây, con mong ước, với niềm vui, được lìa cõi
trần nầy.
Trong phần thứ hai, chủ đề Con Thỏa Lòng được thể hiện
bằng một giai điệu mới trong cung Si giáng trưởng. Bài recitativo đầu
tiên của cantata này rất ngắn nhưng rất súc tích.
Bach đã khéo léo trích dẫn các phân đoạn Kinh Thánh liên hệ để viết
lời cho recitativo đầu tiên trong cantata này. Lời thánh ca nói rằng chỉ
một mình Đấng Yên Ủi làm con thỏa lòng (II Cô-rinh-tô 1:2-7). Con thỏa
lòng vì Chúa Jesus thuộc về con và con thuộc về Ngài (Nhã Ca 2:16;
6:3). Như Simeon, với đức tin, con giữ chặt Ngài và đón nhận niềm vui
của cuộc đời mới. Thêm vào đó, trong lời ca “Chúng ta hãy cùng đi với
Ngài,” Bach khéo léo mô phỏng mong ước của Sứ đồ Phao Lô được rời khỏi
trần gian khổ đau, về sống bên Chúa trên thiên đàng, để trình bày tâm
trạng tương tự của Simeon, và của nhiều người yêu mến Chúa, là mong ước
được về với Chúa. Lời thánh ca viết: “Và nếu chỉ có mình Chúa có thể
cứu con khỏi xiềng xích của thân thể con; thì con phải nói rằng: Thật là
vui khi được rời khỏi đây. Thế gian ơi! Với ngươi, ta đã đủ rồi.”
Bài aria, trong phần thứ ba của cantata, là một bài hát ru: “Hỡi
những đôi mắt mỏi mòn, hãy ngủ đi! Hãy nhắm mắt êm ái, dịu dàng. Thế
gian ơi! Ta sẽ không còn ở đây nữa đâu. Ta không mắc nợ ngươi chút nào
có thể ảnh hưởng đến linh hồn của ta. Ở đây, ta phải vun góp những bất
hạnh, nhưng nơi đó, ta sẽ tìm thấy sự yên nghỉ bình an ngọt ngào.” Lời
thánh ca thể hiện tâm trạng thỏa lòng của một người đã thực hiện xong
những gì mình cần làm trên đời này và sẵn sàng nhắm mắt lìa cõi đời để
về với Chúa. Bach trích dẫn câu Kinh Thánh I Tê-sa-lô-ni-ca 4:14 để mô
tả cái chết của người tin Chúa là sự ngủ yên trong Chúa.
Phần thứ tư của cantata tiếp tục với một recitativo. Lời thánh ca
viết: “Lạy Chúa! Khi nào Đấng Yêu Thương sẽ đến – là lúc con sẽ bước
vào nơi an bình và vào miền đất lạnh; được ở bên Ngài và nghỉ an bên
cạnh Ngài. Thế gian ơi! Ta đã chào giã biệt bóng đêm.”
Bài aria kết thúc trong phần cuối của cantata có vài nét tương đồng
với bài aria mở đầu; tuy nhiên bài aria kết thúc có giai điệu nhanh hơn
và sống động hơn. Lời thánh ca viết rằng: “Tôi vui sướng về cái chết của
mình dường như nó đã xảy ra rồi! Và rồi, tôi sẽ vượt mọi khổ đau đã
ràng buộc tôi với thế giới này.”
Toàn bộ tác phẩm kéo dài khoảng 25 phút. Mời bạn đọc lắng nghe tấm
lòng của một người sau bao năm trông mong, đã được thỏa nguyện vì gặp
được Chúa.
-Bậc thềm tiến vào thánh đường của trí tuệ là biết sự ngu dốt
của chính mình. The doorstep to the temple of wisdom is a
knowledge of our own ignorance. Benjamin Franklin
------------------------------------------------------------------------------------------- -Bậc thềm tiến vào thánh đường của trí tuệ là biết sự ngu dốt
của chính mình. The doorstep to the temple of wisdom is a
knowledge of our own ignorance. Benjamin Franklin
Có một lịch sử lâu đời về các nghi lễ và kỳ nghỉ Giáng sinh mà những Cơ Đốc nhân ngày nay thường tiến hành theo tập quán nhưng thật ra đã trải qua một quá trình tiến hóa . Phong tục tặng quà, hát thánh ca , và ông già Noel Santa Claus từng là những biểu tượng rất xa xưa và là truyền thống lễ Giáng sinh , nhưng những điều đó đã không phải từng luôn luôn là một phần trong việc kỷ niệm ngày lễ. Trong thực tế, đã có một khoảng thời gian lễ Giáng sinh đã bị các nhà thờ cấm đoán . Vì vậy, làm thế nào mà chúng ta biết được rằng lễ Giáng sinh đã đến được với nhân loại như ngày nay ?
Ngảy đông chí .
Các tu sĩ của tôn giáo cổ Celt tổ chức lễ kỷ niệm mùa đông của họ vào ngày ngắn nhất trong năm (21 tháng 12 - ngảy đông chí ) khi họ đã trải qua những tháng mùa đông tồi tệ nhất và bắt đầu chờ đợi những giờ phút ban ngày dài hơn . Các linh mục Celtic sẽ cắt cây tầm gửi và chúc lành cho họ. Quả của cây tầm gửi là biểu tượng của cuộc sống trong những tháng mùa đông tối tăm.
Vào ngày đông chí La Mã, còn gọi là Saturnalia, những người đàn ông tham gia ăn mặc như phụ nữ còn giới chủ nhân ăn mặc như người hầu. Các cuộc diễu hành , trang hoàng nhà cửa với cây xanh , thắp nến , và tặng quà cho nhau là những nghi thức phổ biến . Họ tổ chức lễ mừng sao Thổ, được xem là vị thần của nông nghiệp trong hơn một tháng. Trong cùng khoảng thời gian họ sẽ ăn mừng lễ Juvenalia ,với mục đích tôn vinh thiếu nhi .
Ngày 25 tháng 12, người La Mã sẽ tôn vinh Mithra, thần mặt trời bất khả chinh phục , được cho là sinh ra từ một tảng đá.
Thuật ngữ Yule đến từ chữ "houl", có nghĩa là bánh xe thay đổi theo thời tiết mùa vụ , theo truyền thống người Na uy ở Bắc Âu. Trong lễ kỷ niệm này, những người đàn ông sẽ mang về nhà những khúc gỗ lớn để đốt lửa trại . Họ sẽ dự tiệc và ăn mừng cho đến lúc lửa tàn - đôi khi kéo dài đến 12 ngày.
Mỗi tia lửa bắn ra có biểu tượng cho một con lợn hoặc con bê có thể được sinh ra trong năm mới.
Sự can thiệp của Đức Giáo Hoàng .
Vào thế kỷ thứ 4, Giáo hoàng Julius đệ I ra chỉ dụ rằng ngày 25 tháng 12 sẽ là ngày Giáng sinh, còn được gọi là Lễ Thánh đản . Trước khi có tuyên bố này, lễ Phục Sinh được xem là ngày lễ đầu tiên của Kitô giáo . Tuyên bố của Julius đệ I là một nỗ lực của Giáo Hội nhằm mục đích Kitô hóa các thánh lễ ngoại giáo khác như Saturnalia - lễ thần mặt trời.
Thời trung cổ (400AD-1400AD)
Bắt đầu từ thời kỳ này mà ngày nay chúng ta có được 12 ngày lễ Giáng sinh, được tổ chức từ 25 Tháng mười hai đến 6 Tháng một (lễ Hiển Linh).
Người ta giữ lại các truyền thống ngoại giáo như trang trí nhà cửa với cây xanh , tổ chức các lễ hội và biến thành một phần của truyền thống Giáng sinh bằng cách gán cho chúng ý nghĩa Kitô giáo.
Trước 529 AD, ngày 25 tháng 12 đã được công bố là một kỳ nghỉ dân sự, và 12 ngày của lễ Giáng sinh cũng đã được công bố bắt đầu từ năm 567 AD. Sự kiện này sau đó dẫn đến thuật ngữ "Twelfth Night" mà bất kỳ trẻ em Kitô giáo nào cũng biết rõ từ các bài học về văn hào W. Shakespeare. Đêm thứ mười hai được tổ chức vào ngày 06 tháng 1, và là một ngày lễ lớn như Giáng sinh cho đến cuối những năm 1800.
Thế kỷ 17 - 18
Lễ Giáng sinh đã im lặng suốt trong thời gian này, khi các tấm gương khắt khe về đạo đức , sự tuân thủ nghiêm ngặt trong việc cầu nguyện và Kinh Thánh Tân Ước đã rất được coi trọng . Trước năm 1644, hoạt động Giáng sinh đã bị cấm ở Anh do có niềm tin cho rằng lễ Giáng sinh đã được liên kết quá chặt chẽ với những người ngoại giáo thờ thần mặt trời Saturnalia.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau cuộc Cách mạng Hoa Kỳ , những người Mỹ bắt đầu không chấp nhận các phong tục Anh quốc. Ngay cả lễ Giáng sinh cũng đã không được cử hành long trọng khi Quốc hội đang họp vào ngày 25 tháng 12 năm 1789.
Triều đại Victoria (1837-1901)
Chúng ta có thể cảm ơn những người ở thời đại này đã mang lại cho chúng ta lễ Giáng Sinh ngày nay. Tầng lớp trung lưu ở Anh và Mỹ bắt đầu ăn mừng và lý tưởng hóa lễ Giáng sinh như chúng ta đã thấy trong các tiểu thuyết của triều đại này từ Irving đến Dickens. Các kỳ nghỉ không còn đại diện cho một lễ hội hóa trang hoang dã như trước kia nữa , mà đã hướng về sự bình an , gia đình, và những hoài niệm .
Ở thời kỳ này mọi người thường sử dụng các tấm thiệp ngày Valentines để trao tặng cho nhau và trang trí những cây Giáng sinh. Hầu hết các phong tục mới mẻ đã du nhập từ Mỹ. Trước năm 1870 lễ Giáng sinh đã được công bố là một ngày lễ liên bang tại Hoa Kỳ.
Lễ Giáng sinh thời hiện đại
Ngày nay lễ Giáng sinh được tổ chức trên toàn thế giới. Trong khi trước đây các quan điểm của Giáo Hội lo lắng rằng việc cử hành Giáng sinh đã quá gắn liền với nghi lễ ngoại giáo , thì bây giờ sự lo lắng lại hướng về tính chất quá thương mại hóa và thế tục hóa. Tuy nhiên, với sự trung dung, thật dễ nhớ rằng đây là một ngày để ăn mừng ngày sinh của Chúa cứu thế đồng thời cũng để kỷ niệm những gì Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện - tình yêu dành cho nhau .
Chàng thợ mộc trẻ mang tên Giô-sép, đối với tôi, cũng là một ngôi sao sáng điểm tô cho khung trời đêm giáng sinh thêm lấp lánh, dù Thánh Kinh chẳng ghi lại một lời nói nào của chàng. Tôi không dám có sự phân biệt hồ đồ trong lãnh vực đức tin, nhưng nếu so với nhiều đức tin nổi bật, thì đây lại là một đức tin trầm lặng, không nói ra thì chẳng ai biết. Một con người rất bình thường, với một đức tin rất bình thường, lại có một chỗ trong chương trình lớn của Đức Chúa Trời tiến hành cho cả nhân loại.
Đó là một người được giáo dục trong môi trường đức tin để có một đời sống với cách hành xử hòa bình đáng khâm phục. Câu 19 của Phúc Âm đoạn 1 này viết: “Giô-sép chồng người, là người có nghĩa, chẳng muốn cho người mang xấu, bèn toan đem để nhẹm”. Chàng không những là “con cháu Đa-vít” nhưng là một hậu bối biết kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời để yêu người lân cận như yêu chính mình. Đứng trước một biến cố kín giấu, đến thời điểm đó chỉ có Ma-ri và chàng trao đổi với nhau, trên nền tảng đức tin trầm lặng, Giô-sép đã có một quyết định không phải ai cũng có thể chấp nhận. Đó là cách tốt nhất chàng có thể làm cho người mà chàng thương yêu, với tâm trạng chưa biết nhiều về kế hoạch huyền nhiệm của Chúa Giê-hô-va; cho đến khi gặp thiên sứ của Chúa trong giấc chiêm bao, lắng nghe lời giải trình trực tiếp ơn cứu rỗi mà bấy lâu nay chàng chỉ được truyền dạy qua các lời tiên tri.
Lời tiên tri được ban truyền từ xa xưa trong quá khứ được thiên sứ của Chúa nhắc lại cho Giô-sép với những giải thích rõ ràng, với mệnh lệnh chuẩn xác, với trọng trách được chỉ định trong bảo đảm tuyệt đối. Tất cả xua tan đi mối nghi ngờ rối rắm trong lòng Giô-sép, chàng nhìn biết nhiệm vụ mà Chúa Giê-hô-va đặt trên vai mình; và tình yêu dành cho Ma-ri đã thoát ra khỏi đám mây mù phiền muộn, lại tiếp tục rạng rỡ trong con tim trầm lặng. Không còn thắc mắc, chẳng cần phải hỏi han thêm, đức tin trầm lặng đó đã được Lời của Chúa khai phóng, Giô-sép ghi nhận không sót một lời những gì Chúa phán với chàng qua giấc chiêm bao đêm đó. Đức tin của Giô-sép đã được nâng lên, chàng chấp nhận dấn thân vì Danh Chúa Em-ma-nu-ên.
“Khi Giô-sép thức dậy rồi, thì làm y như lời thiên sứ của Chúa đã dặn, mà đem vợ về với mình; song không hề ăn ở với cho đến khi người sanh một trai, thì đặt tên là Jêsus” (câu 24, 25). Không giải thích, không một chút khoe khoang, chẳng cần thêm ý kiến hay kêu gọi một sự ủng hộ nào khác, chàng trai trẻ với một đức tin trầm lặng đã thuận phục theo ý Chúa để làm trọn mọi điều Chúa giao phó. Đức tin trầm lặng đi những bước trưởng thành, không còn làm theo ý mình cho là phải, nhưng hết lòng hết sức hết ý làm theo ý muốn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời Chí Nhân Chí Ái. Không còn là thể hiện tình yêu theo cảm tính, nhưng mặc lấy tình yêu thương từ thiên thượng để sống và nuôi dưỡng Tình Yêu.
Đức tin trầm lặng cũng có chỗ trong công việc nhà Chúa.
DẠ KHÚC Ta đợi chờ em , trong màn đêm hiu quạnh Tiếng cung đàn , dìu dặt họa lời thơ Làn gió thoảng , đưa hương bên lầu vắng Réo rắt khúc ca , từ những nẻo xa mờ
Chim muông giao hòa - điệu tình ca muôn thuở Ríu rít lao xao - như hơi thở thầm thì Vang từ xa xăm , bao lời ta đắm đuối Của một người ôm tha thiết mối tình si
Trên cành lá gió xạc xào lời hát Như tim ta rộn rã biết yêu người Gió hãy mang những tâm sự khúc nôi Em có hay chăng mối tình ta câm nín
Đừng e ấp than van khi nụ yêu đang chín . Trái tim này luôn nồng cháy nỗi hân hoan , Xin yêu người muôn kiếp với thời gian Thì xin mãi không rời xa nhau nhé .
Khi trái tim biết yêu , Nỗi han hoan trần thế . Tôi vẫn mong chờ chờ em mãi người ơi .
Bản Dạ khúc của Franz Schubert (tiếng Đức: Ständchen) được viết lời bởi Ludwig Rellstab. Bản này có số thứ tự 4, nằm trong quyển 1 của tập Schwanengesang (Bài ca thiên nga). Đây là tuyển tập bài hát được sưu tầm sau khi tác giả Schubert qua đời, trong danh sách tác phẩm của nhà soạn nhạc nó có số thứ tự D 957. Franz Liszt là người sau này đã chuyển thể các tác phẩm trong tập Schwanengesang cho độc tấu piano.
Dạ khúc (Serenade) là một thể loại ca khúc để hát vào buổi tối, đặc biệt cho giọng nữ. Ở phương Tây thể loại ca khúc này gọi là "Serenade" và nó rất được nhiều nhạc sĩ ưa chuộng, sáng tác... cho nên Dạ khúc không chỉ riêng một tác phẩm riêng biệt của một nhạc sĩ nào cả. Nhiều nhạc sĩ đã sáng tác trên chủ đề này, nhưng có lẽ được biết đến và ưa chuộng nhiều nhất (cho mãi đến ngày hôm nay)[cần dẫn nguồn] vẫn là Serenade của nhạc sĩ thiên tài người Áo Franz Schubert.
Franz Schubert chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi 31 năm nhưng đã kịp để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ ở nhiều thể loại. Schubert còn được mệnh danh là "Vua Lied" vì ông sáng tác rất nhiều lied (số nhiều: Lieder), theo tiếng Đức nghĩa là đoản ca, có giá trị. Có lẽ lied của Schubert được nhiều người yêu thích nhất[cần dẫn nguồn] là lied có tên "Ständchen" này. "Ständchen" đã được dịch sang rất nhiều ngôn ngữ và được chuyển soạn cho nhiều nhạc cụ khác chơi dưới cái tên "Serenade" và cái tên phổ biến nhất là "Serenade của Schubert"
Bài Dạ Khúc bất hủ mà Franz Schubert sáng tác là để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu trộm nhớ. Ở châu Âu ngay từ thời trung cổ các chàng trai thường có lối tỏ tình bằng cách mượn âm nhạc, ban đêm đến đứng dưới cửa lầu "người đẹp" tự thể hiện bằng tiếng đàn và giọng hát của chính mình. Những bài nhạc lãng mạn này gọi là "serenade". Serenade thời Trung cổ và Phục hưng được biểu diễn không theo một hình thức đặc biệt nào, ngoại trừ nó được một người hát tự đệm bằng nhạc cụ có thể mang theo được (guitar, mandolin...).
Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ một bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng, Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái tim cho Schubert.
Những lời nỉ non, thổn thức của ca từ quyện với một giai điệu lãng mạn, quyến rũ, bản Dạ Khúc Schubert là một thông điệp tình yêu chuyển tải bẳng âm nhạc tuyệt vời, một bài lied hoàn hảo cho kẻ tỏ tình trong đêm.
Nhưng hơn thế, nhạc phẩm "Dạ Khúc" của Schubert là một bức tranh toàn bích, sâu lắng... mang dáng dấp hơi thở không chỉ của thời đại ông mà của muôn mọi thời đại. Nhạc sỹ thiên tài đã nói lên tiếng lòng mình trong thời khắc đêm về, ngoài niềm khắc khoải thường tình về tình yêu đôi lứa, còn như thân phận con người nhỏ nhoi đầy bất trắc trước mênh mông vũ trụ. Bài nhạc có giai điệu rất đẹp, trữ tình, lai láng nhưng không trầm mặc, buồn nhưng vẫn phảng phất đâu đó niềm hy vọng và hoài bão hướng thiện (tác dụng bởi việc chuyển cung từ thứ sang trưởng ở đoạn kết). Schubert như nói lên tiếng lòng của muôn người, muôn thế hệ...
Trong lời dịch của ông, nhạc sỹ Phạm Duy đã cố gắng phác thảo tất cả những cung bậc trải nghiệm hết sức tinh tế về cảm xúc mà giai điệu bản Serenade khơi gợi nơi người thính giả. Lời dịch của ông tuy hy sinh sự chính xác của ngôn từ nhưng giàu tính thẩm mỹ của cảm nhận âm nhạc, một cảm nhận ông muốn hướng dẫn người thưởng ngoạn cũng cảm nhận như ông.
Franz Schubert
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Franz Peter Schubert (31 tháng 1 năm 1797 - 19 tháng 11 năm 1828) là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông đã sáng tác 600 Lieder, 9 bản giao hưởng trong đó có bản giao hưởng nổi tiếng "Unfinished Symphony" cùng các thể loại nhạc nghi lễ, nhạc thính phòng và solo piano. Ông được biết đến với các tác phẩm có giai điệu nhẹ nhàng và du dương.
Dù Schubert có khá nhiều người bạn ngưỡng mộ các nhạc phẩm của ông (như thầy giáo của ông Antonio Salieri, và ca sĩ nổi tiếng Johann Michael Vogl), tuy nhiên âm nhạc của Schubert thời đó không được thừa nhận rộng rãi nếu không muốn nói là rất hạn chế. Schubert chưa bao giờ đảm bảo được một công việc ổn định và thường xuyên phải nhờ đến sự ủng hộ của bạn bè và gia đình trong phần lớn sự nghiệp.
Schubert mất sớm, năm 31 tuổi, do hậu quả của bệnh thương hàn là thứ bệnh không chữa được thời đó. Vài thập kỷ sau khi Schubert qua đời, các tác phẩm của ông mới khẳng định được tên tuổi của mình, một phần nhờ công lao phổ biến của các nhạc sĩ cùng thời như Franz Liszt, Robert Schumann, Felix Mendelssohn.
Franz Peter Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Viên, nước Áo. Bố ông, Franz Theodor Schubert, là thầy giáo nổi tiếng trong giáo khu, mẹ ông là người hầu của một gia đình giàu có trước khi lấy bố ông. Ông là một trong số 14 người con trong gia đình mà phần lớn đều chết yểu. Bố Schubert cũng là một nhạc sĩ, tuy không nổi danh nhưng là người thầy đầu tiên truyền dạy cho Schubert những hiểu biết về âm nhạc.
Schubert bắt đầu được cha dạy nhạc khi lên 5, một năm sau ông theo học trường Himmelpfortgrund và bắt đầu chính thức theo học âm nhạc. Năm 7 tuổi ông học với Michael Holzer, nhạc công organ và trường dàn đồng ca của nhà thờ địa phương.
Năm 1808 ông vào trường Stadtkonvikt với suất học bổng trong dàn đồng ca. Tại đây ông bắt đầu làm quen với các bản overture và giao hưởng của Mozart. Cùng thời gian đó ông còn thỉnh thoảng đến xem các vở opera, làm quen với các tác phẩm của các nhạc sĩ khác kém quan trọng hơn. Tất cả cá điều này tạo nên nền tảng âm nhạc vững chắc trong ông. Tại trường Stadtkonvikt ông cũng tạo dựng các mối quan hệ mà sau này sẽ cùng ông đi hết cuộc đời.
Thỉnh thoảng Schubert được giao chỉ huy dàn nhạc, Antonio Salieri, nhạc sĩ đối thủ của Mozart, cũng là nhạc sĩ hàng đầu đương thời bắt đầu chú ý đến tài năng trẻ, bỏ công đào tạo Schubert về lí thuyết âm nhạc và kĩ năng sáng tác. Thể loại nhạc thính phòng ghi dấu đặc biệt trong giai đoạn này, bản thân gia đình Schubert đã là một dàn nhạc thính phòng 5 người thường xuyên trình tấu với nhau trong các dịp lễ và các ngày chủ nhật. Trong thời gian ở Stadtkonvikt ông cũng kịp sáng tác nhiều tác phẩm thính phòng, một số ca khúc nghệ thuật, và bản giao hưởng số 1.
Cuối năm 1813, ông rời Stadtkonvikt trở về quê học làm thầy giáo. Năm 1814 ông trở thành giáo viên tại trường của bố ông. Ông cũng tiếp tục học với Salieri cho đến năm 1817.
Năm 1814, ông làm quen với Therese Grob, con của một nhà sản xuất lụa trong vùng đồng thời là một ca sĩ soprano đã trình tấu một số tác phẩm của ông như Salve Regina, Tantum Ergo, Mass in F. Mối quan hệ tình cảm cũng phát triển phức tạp và có nhiều khả năng Schubert muốn kết hôn với Grob nhưng vì nhiều lí do sự việc đã không thành. Năm 1816 ông gửi Grob một tập tác phẩm mà gia đình bà còn giữ đến đầu thế kỉ 20.
Năm 1815 là năm Schubert tập trung vào sáng tác, ông viết đến 9 tác phẩm cho nhà thờ, 140 ca khúc nghệ thuật (lieder), một bản giao hưởng.
Phong cách sáng tác
Giai đoạn Âm nhạc Cổ điển - Trường phái cổ điển Vienna (1730 -1820) khép lại với những tên tuổi lừng lẫy như Haydn, Mozart, Beethoven để mở ra một giai đoạn mới - giai đoạn Âm nhạc Lãng mạn (1800 - 1910) Những nhà soạn nhạc thời kì Lãng mạn thường lấy cảm hứng từ văn học, hội họa hay từ những nguồn ngoài thế giới âm nhạc. Vì vậy, âm nhạc chương trình được phát triển rất mạnh mẽ và dẫn đến sự ra đời của thể loại thơ giao hưởng.Các bài thơ trong thế kỉ 18 và 19 là cơ sở đề hình thành nên các bài hát nghệ thuật mà trong đó các nhà soạn nhạc dùng âm nhạc để khắc họa hình ảnh và tâm trạng của lời ca. Sự huy hoàng của âm nhạc lãng mạn lan toả suốt thế kỷ XIX với rất nhiều nhà soạn nhạc ưu tú như Mendelssohn, Schumann, Chopin, Liszt hay Tchaikovsky nhưng trong đó người khai phá và là "nhân vật vĩ đại" đầu tiên chính là Franz Schubert. Schubert sáng tác đủ các thể loại âm nhạc: giao hưởng, Sonat, nhạc thính phòng, bài hát. Schubert là người đầu tiên đưa bài hát đến tầm khái quát cao, đồng thời giữ được vẻ tự nhiên ban đầu của nó. Schubert trở nên bất tử qua 600 bài hát mà ông sáng tác (nên giao hưởng và opera của ông bị khuất lấp, bị rơi vào lãng quên lúc sinh thời). Sau khi Schubert qua đời, các tác phẩm của ông mới khẳng định được tên tuổi của mình, một phần nhờ công lao phổ biến của các nhạc sĩ cùng thời như Franz Liszt, Robert Schumann, Felix Mendelssohn. Schubert được coi là ánh bình minh của chủ nghĩa lãng mạn trong âm nhạc Ông được xếp vào hàng các nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của nhân loại.
“Khi tôi muốn ca hát về tình yêu thì tình yêu lại biến thành
đau khổ, nhưng khi tôi chỉ muốn hát về đau khổ thì đau khổ lại hoá thành
tình yêu.” - Franz Schubert
Sự
phát triển của con người và xã hội luôn liên tục và âm nhạc cũng không
đứng ngoài qui luật đó. Bối cảnh lịch sử những năm cuối thế kỷ XVIII,
đầu thế kỷ XIX tại châu Âu có những biến động đáng kể tạo nên những thay
đổi lớn về chính trị, kinh tế và nghệ thuật. Hoà mình vào dòng chảy đó,
âm nhạc cổ điển cũng có những chuyển mình cho phù hợp với qui luật tự
nhiên. Giai đoạn Cổ điển Vienna khép lại với những tên tuổi lừng lẫy như
Haydn, Mozart, Beethoven để mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn Lãng mạn
mà sự huy hoàng của nó lan toả suốt thế kỷ XIX với rất nhiều nhà soạn
nhạc ưu tú như Mendelssohn, Schumann, Chopin, Liszt hay Tchaikovsky
nhưng trong đó người khai phá và là “nhân vật vĩ đại” đầu tiên chính là
Franz Schubert.
Franz
Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Himmelpfortgrund, một làng
nhỏ ở ngoại ô Vienna trong một gia đình có nguồn gốc Bohemia. Cha của
Schubert là một thầy giáo làng chơi được violin và cello, mẹ ông vốn là
đầu bếp. Cha mẹ Schubert có cả thảy 15 người con nhưng 10 người trong số
họ đã chết ngay từ khi còn nhỏ, chỉ còn lại 5 người. Schubert có 3
người anh trai Ignaz (1785), Ferdinand (1794), Karl (1796) và một cô em
gái Theresia (1801). Chính người cha và anh trai Ignaz đã dạy cho
Schubert những bài học âm nhạc đầu tiên.
Lớn
lên trong một gia đình mà mọi thành viên đều có niềm đam mê âm nhạc lớn
lao nhưng lại có nền kinh tế tỷ lệ nghịch với niềm đam mê đó, thời thơ
ấu của Schubert là những chuỗi ngày ông không thể nào quên cho đến cuối
cuộc đời. Luôn sống trong cảnh nghèo đói, những kí ức tuổi thơ buồn bã
thường xuyên xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm của Schubert sau này.
Năm 1804, khi mới 7 tuổi, Schubert được gửi tới nhà thờ Lichtenthal ở
Vienna để học chơi đàn organ. Năm 1808, để gia đình giảm bớt một miệng
ăn, Schubert tới học ở trường nội trú Convict nơi có nhà soạn nhạc nổi
tiếng Antonio Saliari - người cùng thời với Mozart làm hiệu trưởng. Tuy
được miễn hoàn toàn học phí cũng như tiền ăn, tiền trọ nhưng cuộc sống
hà khắc nơi đây thật quá sức chịu đựng của một cậu bé mới 10 tuổi. Trong
thời gian 5 năm sống tại đây, Schubert còn phải chịu đựng sự ghẻ lạnh
của những người bạn học vốn là con của những gia đình giàu có. Cũng
trong thời gian này, Schubert ban đầu chơi ở bè violin 2 sau đó chuyển
lên bè violin 1 trong dàn nhạc của trường. Những sáng tác đầu tiên của
cậu bé cũng bắt đầu xuất hiện trong đó nổi tiếng nhất là bản Fantasia
cho 2 Piano (1810).
Rời
truờng nội trú năm 16 tuổi, để san sẻ gánh nặng cho gia đình, Schubert
định đi đăng lính nhưng vì cận thị quá nặng, bị quân đội từ chối, ông
đành nghe theo lời cha đi làm thầy giáo tại Annegasse. Tuy công việc khá
nhàm chán không làm thoả mãn nhà soạn nhạc trẻ vốn đầy hoài bão, ước mơ
nhưng vì thực tế cuộc sống Schubert đành phải tạm bằng lòng với bản
thân. Trong thời gian 3 năm dạy học, Schubert đã sáng tác được 2 tứ tấu
đàn dây, những bản giao hưởng đầu tiên, một vài Piano sonata, Mass số 1
giọng Fa trưởng. Tác phẩm Mass số 1 giọng Pha trưởng lần đầu tiên được
vang lên vào tháng 10 năm 1814 tại nhà thờ Lichtenthan với giọng hát
chính do ca sĩ trẻ Therese Grob đảm nhiệm, người mà Schubert đem lòng
yêu mến. Sau này Schubert đã ngỏ lời cầu hôn nhưng bị gia đình cô gái từ
chối và từ đó Schubert luôn mang trong mình vết thương lòng sâu sắc
cũng như không bao giờ nghĩ đến chuyện lấy vợ nữa.
Thời
gian này các tác phẩm của Schubert xuất hiện với số lượng thật đáng
kinh ngạc. Năm 1814, Schubert hoàn thành vở opera đầu tiên Des Teufels Lustschloss
D.84 cũng như 17 lied trong đó có những bài nổi tiếng như “Der Taucher”
D.77/111 hay “Gretchen am Spinnrade” D.118 (dựa theo thơ của Goethe).
Một năm sau, 145 lied và 4 vở opera khác ra đời, những con số thật ấn
tượng. Có cảm giác không phải Schubert sáng tác mà những bài hát tuôn
trào dưới tay ông như một dòng thác.
Schubert
chuyển đến dạy học tại trường Laibach ở Slovenia vào năm 1816. Hàng
loạt các tác phẩm nổi tiếng được ông sáng tác vào thời gian này. Tiêu
biểu có các lied “Erlkonig” (Chúa rừng), “Gesange des Harfners”, giao
hưởng số 4 “Tragic” giọng Đô thứ D.417, giao hưởng số 5 giọng Si giáng
trưởng D.485. Tháng 6 năm 1816, Schubert bắt tay vào viết bản cantata
“Prometheus”.
Một
năm trước đó, trong một lần đến thăm Linz, Schubert gặp Franz von
Schober - một chàng trai trẻ rất đáng mến và họ trở thành những người
bạn thân nhất của nhau. Là con một gia đình khá giả, chính Schober là
người giúp đỡ Schubert nhiệt tình nhất trong cuộc sống sau này. Nghe
theo lời khuyên của Schober, Schubert đã rời bỏ nghề dạy học để thành
một nhà soạn nhạc tự do, điều mà Schubert luôn khao khát. Năm 1817, trở
lại Vienna thời gian đầu, Schubert sống tại nhà của Schober. Tại đây
Schubert gặp Johann Michael Vogl, giọng nam trung nổi tiếng nhất Vienna
thời bấy giờ. Sự cộng tác giữa họ đã tạo nên những buổi hoà nhạc rất ấn
tượng thu hút được nhiều sự chú ý mà công chúng Vienna hồi đó gọi là
Schubertiaden. Tuy nhiên điều này cũng không che giấu được thực tế là
chàng trai 20 tuổi Franz Schubert vẫn rất khó khăn trong việc khẳng định
vị trí của mình. Các nhà xuất bản chỉ trả cho Schubert những khoản
nhuận bút rất thấp khi in ấn các tác phẩm của ông và Schubert vẫn phải ở
nhờ nhà bạn.
Với
bản tính vui vẻ, thích giao thiệp Schubert kết giao được rất nhiều bạn
bè và một người trong số đó Anselm Huttenbrenner đã giới thiệu ông đến
làm việc tại lâu đài của công tước Esterhazy - nơi mà Haydn vĩ đại đã
từng sống. Thời gian đầu tại đây Schubert còn cảm thấy hạnh phúc nhưng
dần dần nỗi buồn xâm chiếm ông và trong vòng chưa đầy một năm ông đã trở
về Vienna.
Mùa
hè năm 1819, một niềm vui nhỏ đến với Schubert. Trong chuyến lưu diễn
cùng với Vogl tại Upper, Áo, các lied của ông được đón giới yêu âm nhạc
nơi đây rất yêu thích trong đó nổi bật có lied “Die Forelle” (Cá hồi) và
Ngũ tấu Piano giọng La trưởng D.667 còn có tên khác là Ngũ tấu “Cá
hồi”. Năm 1820, Schubert hoàn thành Piano Sonata giọng La trưởng, D.664,
tác phẩm thính phòng xuất sắc Tứ tấu đàn dây giọng Đô thứ Quartettsatz
D.703, âm nhạc cho vở kịch Die Zauberharfe D.64 và vở opera DieZwillingsbrüder D.647.
Lúc
này Schubert đã trở nên nổi tiếng nhưng sự nghèo khó vẫn không chịu
buông tha ông. Các nhà xuất bản chỉ chịu trả cho Schubert những khoản
tiền ít ỏi để in những tác phẩm của ông. Thường xuyên phải nhịn đói, đã
có lần để đổi lấy một bữa ăn Schubert phải sáng tác một bài hát tặng ông
chủ quán.
Năm
1822 sự nghiệp âm nhạc của Schubert có một bước ngoặt vĩ đại. Ông sáng
tác bản giao hưởng số 8 giọng Si thứ “Bỏ dở” D.759 nổi tiếng. Không hiểu
vì lý do gì bản giao hưởng chỉ có 2 chương thay vì 4 chương như thông
thường. Nếu như những tác phẩm được sáng tác trong thời gian đầu của
Schubert còn mang hơi hướng của trường phái cổ điển Vienna thì đến bản
giao hưởng này đã cho thấy một ngôn ngữ thể hiện hoàn toàn khác vượt qua
những qui tắc khắt khe, chặt chẽ để đến với những sáng tạo, tìm tòi mới
tạo lập nên một trường phái mới: Trường phái lãng mạn mà sau này đã lan
rộng ra khắp châu Âu trong suốt thế kỷ XIX trong đó Franz Schubert
chính là “người vĩ đại đầu tiên”. Tổng phổ tác phẩm này bị thất lạc
trong hơn 60 năm kể từ ngày được Schubert viết chỉ được tìm thấy một
cách tình cờ trong ngăn kéo tại nhà Anselm Huttenbrenner. Cùng trong năm
1822 này, Schubert hoàn thành bản Mass giọng La giáng trưởng D.678 và
tác phẩm nổi tiếng Wanderer fantasy cho Piano D760 (sau này Liszt đã
phối khí lại cho Piano và dàn nhạc). Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì bản
nhạc này dựa trên lied “Der Wanderer” của Schubert.
Toàn
bộ các sáng tác của Schubert đều mang đậm màu sắc trữ tình, trữ tình
đến mức nhiều nhà phê bình sau này không lý giải được và họ phải thốt
lên: “chất trữ tình đầy đậm đà như mặt nước của con sông Rhein trôi êm
đềm”. Phải chăng cuộc sống nghèo khổ lại là nguồn cảm hứng bất tận và âm
nhạc là người bạn sẻ chia mọi nỗi buồn đau?
Năm 1823, vở opera Rosamude, furstin von Cypern (Rosamude, hoàng tử đảo Cyprus) và tập bài hát đầu tiên Die Schöne Müllerin
D. 795 (Con gái ông chủ cối xay xinh đẹp) dựa theo thơ của Wilhelm
Müller ra đời. Các tác phẩm của Schubert luôn xuất hiện với số lượng
đáng kinh ngạc cho thấy ông quả là một con người thật phi thường. Một
năm sau, Schubert sáng tác 2 bản Tứ tấu đàn dây giọng La thứ và Rê thứ
“Death and the maiden” (Thần chết và trinh nữ) cũng như Octet giọng Fa
trưởng D.803. Trong lần trở lại nhà công tuớc Esterhazy để dạy học cho 2
con gái của công tước, ông viết “Divertissement a l'Hongroise” D.818
sau khi bị những giai điệu dân ca Hungary chinh phục. Thời gian này, đời
sống của Schubert có khá hơn nhưng ông lại có những nỗi bực bội khác.
Trong một bức thư cho bạn, Schubert viết: “Tôi cảm thấy rất mệt mỏi. Sự
tự do của tôi đang bị đánh cắp. Tôi sẽ trở về và không bao giờ quay trở
lại đây nữa”. Schubert là như vây, luôn coi trọng tự do và không để
những việc đời thường làm ảnh hưởng đến công việc sáng tác của mình.
Trong
thời kỳ mà sự ổn định tạm thời về kinh tế xen lẫn với sự suy sụp về sức
khoẻ, Schubert vẫn không ngừng sáng tác, âm nhạc đối với ông như một
niềm an ủi. Từ năm 1825 đến 1826, hàng loạt các tác phẩm quan trọng ra
đời như Piano Sonata giọng La thứ, Op. 42; giọng Rê trưởng, Op. 53 và
bản giao hưởng cuối cùng của ông bản giao hưởng số 9 giọng Đô trưởng
(the Great) D.944. Bản nhạc này cũng bị thất lạc như bản số 8 nhưng được
Robert Schumann tìm thấy vào năm 1839 trong đống giấy tờ còn sót lại
của Schubert. Mendelssohn đã lần đầu tiên chỉ huy bản giao hưởng này
nhân dịp kỷ niệm mười năm ngày mất của Schubert.
Năm
1827, Beethoven - người mà Schubert luôn kính phục trong suốt cuộc đời
mất. Như dự báo được số phận của mình, Schubert lao vào sáng tác như để
chạy đua với thời gian. Tập bài hát thứ 2 Winterreise D. 911
(Hành trình mùa đông) cũng dựa theo thơ của Müller ra đời và cùng với
tập thứ nhất là những viên ngọc vô giá trong kho tàng thanh nhạc của
nhân loại. Bốn Impromtu cho piano, D.899, Trio giọng Si giáng trưởng và
Fantasia cho violin và piano, D934 ra đời trong thời gian này cũng là
những tác phẩm ưu tú.
Mười bốn lied trong tập liên khúc thứ 3 và cũng là tập cuối cùng Schwanengesang D.957
(Bài ca thiên nga) được Schubert viết vào năm 1828. Sáu bài trong số đó
là dựa vào thơ của Heinrich Heine. Các tác phẩm cuối cùng của Schubert
là 3 Piano Sonata cuối cùng cũng như Ngũ tấu cho dàn dây giọng Đô trưởng
D.956 cho 2 violin, viola và 2 cello.
Giữa
lúc sức sáng tạo đang dồi dào nhất, sức khoẻ của Schubert ngày càng trở
nên xấu hơn. Ông luôn phải vật lôn với căn bệnh thương hàn và do chữa
bệnh bằng thuỷ ngân (cách chữa bệnh phổ thông thời đó) nên bệnh tình
ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Schubert bị suy sụp hoàn toàn vào
tháng 10 năm 1828 sau khi trở về Vienna từ Eisentadt, nơi ông đi thăm mộ
của Haydn. Trong bức thư cuối cùng Schubert viết cho Schober ngày 12
tháng 11, ông đã thể hiện sự tuyệt vọng của mình: “Tôi đang ốm. Mười một
ngày nay tôi hầu như không ăn uống được gì. Tôi đi không vững nữa”.
Schubert qua đời ngày 19 tháng 11 năm 1828. Và thể theo nguyện vọng lúc
cuối đời của ông, mộ của Schubert được đặt cạnh mộ của Beethoven tại
nghĩa trang Walhring. Vào năm 1888, hai ngôi mộ này được chuyển đến
nghĩa trang Zentralfriedhof bên cạnh Johann Strauss cha và Johannes
Brahms.
Chỉ
sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng Schubert đã để lại cho đời một khối
lượng tác phẩm thật đồ sộ. Chín bản giao hưởng (bản giao hưởng số 7 bị
thất lạc), khoảng 10 vở opera, 15 tứ tấu đàn dây, 8 Mass, gần 20 piano
sonata, 500 tiểu phẩm cho nhiều nhạc cụ và hơn 600 lied, những con số
khổng lồ khiến chúng ta ngày nay vẫn chưa hết kinh ngạc. Thật tiếc nuối
cho Schubert và cho tất cả những người yêu âm nhạc, ở độ tuổi 31, Bach
và Haydn chưa có tác phẩm nổi tiếng còn Beethoven thì chỉ vừa mới hoàn
thành bản giao hưởng số 1. Sự ngọt ngào trong đau khổ của Schubert đã
thổi vào nền âm nhạc thế kỷ XIX những ngọn gió nhẹ trong lành, tươi mát
mãi cho đến tận bây giờ...
Cobeo (nhaccodien.info) tổng hợp
View: 10994 - Nguồn: nhaccodien.info - Cập nhật lần cuối: 09:09 18/10/2011
The Best of Franz Peter Schubert (31 January 1797 -- 19 November 1828)
In a short lifespan of less than 32 years, Schubert was a prolific composer, writing some 600 Lieder, ten complete or nearly complete symphonies, liturgical music, operas, incidental music and a large body of chamber and solo piano music. Appreciation of his music while he was alive was limited to a relatively small circle of admirers in Vienna, but interest in his work increased significantly in the decades immediately after his death. Felix Mendelssohn, Robert Schumann, Franz Liszt, Johannes Brahms and other 19th-century composers discovered and championed his works. Today, Schubert is ranked among the greatest composers of the early Romantic era and, as such, is one of the most frequently performed composers of the early nineteenth century.
1.Symphony No. 5 (Excerpt) 0:00
2.Ellens Gesang 3, Op. 52/6, D 839, "Ave Maria" 5:22
3.Impromptu In G Flat, D 899 10:12
4.German Dance No. 1 In C, D 90 15:38
5.String Quintet In C Major D. 956 - II. Adagio (Excerpt) 19:29
6.Symphony No. 9 In C Major Great D. 944 - III. Scherzo, Allegro vivace (Excerpt) 24:13
7.Standchen 28:09
8.Piano Quintet In A, Op. 114, D 667, "Trout" (Excerpt) 31:30
9.Moment Musical No. 3 In F Minor, Op. 94, D 780 34:36
10.Impromptus, Op. 90, D 899 - #4 In A Flat 36:21
11.Symphony No. 3 In D, D 200 - Allegretto 43:08
12.Menuet (From "3 Small Pieces") 47:43
13.Piano Sonata In A, D 664 (Excerpt) 50:22
14.Tantum Ergo In E Flat, D 962 54:45
15.Mass No. 6 In E-Flat Major D. 950 - III. Credo: Et in carnatus est 1:00:23
16.Symphony No. 8 In B Minor, D 759, "Unfinished" - 2. Andante Con Moto 1:06:16
wxMaxima 0.8.5
-
I have released wxMaxima version 0.8.5. There are no major changes in this
release. One of the cool things added are two new translations (Greek an
Japanes...
The Day in Photos – November 5, 2019
-
[image: Hindu women worship the Sun god in the polluted waters of the river
Yamuna during the Hindu religious festival of Chatth Puja in New Delhi,
India, ...
Bài tập B24.Tích phân học toán 12.docx
-
Để có thêm nguồn tư liệu cho HS học tập thi HK 2023 MÔN TOÁN, ÔN TẬP TRONG
LÚC HỌC TOÁN TRONG LỚP, EBOOKTOAN SƯU TẬP CÁC FILE TOÁN DOCX ĐỂ PHỤC VỤ CÁC
TH...
Subcooled Reflux And Energy Usage
-
Hi,
I'm a young engineer currently working on some optimisation of destillation
columns in the recovery section of a polymer plant. These columns work...
VERBATIM, Verbatim
-
By Erin McKean, editor of VERBATIM. VERBATIM: The Language Quarterly began
as a simple six-page pamphlet in 1974, a project launched by lexicographer
Laure...
The Orbit of Kepler 16b
-
[image: The Orbit of Kepler 16b]NASA's Kepler space telescope recently made
the news by finding a planet that orbits a double-star system, a situation
that...
Clínica Llanes: Tu Salud, Nuestra Prioridad
-
Clínica medica Llanes Ubicada en la Calle José Purón Sotres, 3, en Llanes,
Asturias, Clínica Llanes es un centro médico privado que ofrece una amplia
gam...
Find All Wolfram News in One Place—The Wolfram Blog
-
This is the final post here at the Wolfram|Alpha Blog. Approximately six
and a half years ago our launch team started the Wolfram|Alpha blog just
prior to ...