Cập nhật lúc
01:30, Thứ tư, 18/07/2012 (GMT+7)
LTS - Ngày 2-7-2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã ký các
lệnh công bố 13 đạo luật và hai nghị quyết, đã được Quốc hội nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam Khóa XIII, thông qua tại kỳ họp thứ ba vừa qua. Từ số
báo hôm nay, Báo Nhân Dân trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc toàn văn
một số luật nói trên. Dưới đây là toàn văn Luật Biển Việt Nam, được Quốc
hội khóa XIII thông qua ngày 21-6-2012.
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết
số 51/2001/QH10;
Quốc hội ban hành Luật Biển Việt Nam.
CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ÐỊNH CHUNG
Ðiều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật
này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa,
quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền,
quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt
Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.
Ðiều 2. Áp dụng pháp luật
1.
Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của
luật khác về chủ quyền, chế độ pháp lý của vùng biển Việt Nam thì áp
dụng quy định của Luật này.
2. Trường hợp quy định của Luật này
khác với quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Ðiều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1.
Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền
và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật
Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển năm 1982.
2. Vùng biển quốc tế là tất cả các
vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các quốc gia
khác, nhưng không bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
3.
Tàu thuyền là phương tiện hoạt động trên mặt nước hoặc dưới mặt nước bao
gồm tàu, thuyền và các phương tiện khác có động cơ hoặc không có động
cơ.
4. Tàu quân sự là tàu thuyền thuộc lực lượng vũ trang của một
quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài thể hiện rõ quốc tịch của quốc gia
đó, do một sĩ quan hải quân phục vụ quốc gia đó chỉ huy, người chỉ huy
này có tên trong danh sách sĩ quan hay trong một tài liệu tương đương;
được điều hành bởi thủy thủ đoàn hoạt động theo các điều lệnh kỷ luật
quân sự.
5. Tàu thuyền công vụ là tàu thuyền chuyên dùng để thực hiện các công vụ của Nhà nước không vì mục đích thương mại.
6. Tài nguyên bao gồm tài nguyên sinh vật và tài nguyên phi sinh vật thuộc khối nước, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
7. Ðường đẳng sâu là đường nối liền các điểm có cùng độ sâu ở biển.
Ðiều 4. Nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển
1.
Quản lý và bảo vệ biển được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp
luật Việt Nam, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước
quốc tế khác mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2.
Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo
và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển.
3. Nhà nước
giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng
các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật
Biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế.
Ðiều 5. Chính sách quản lý và bảo vệ biển
1.
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo
vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng
biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển
kinh tế biển.
2. Xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch quản lý, sử dụng, khai thác, bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo
một cách bền vững phục vụ mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh.
3. Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư
lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công
nghệ vào việc sử dụng, khai thác, phát triển kinh tế biển, bảo vệ tài
nguyên và môi trường biển, phát triển bền vững các vùng biển phù hợp với
điều kiện của từng vùng biển và bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh;
tăng cường thông tin, phổ biến về tiềm năng, chính sách, pháp luật về
biển.
4. Khuyến khích và bảo vệ hoạt động thủy sản của ngư dân
trên các vùng biển, bảo hộ hoạt động của tổ chức, công dân Việt Nam
ngoài các vùng biển Việt Nam phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, pháp luật quốc tế, pháp
luật của quốc gia ven biển có liên quan.
5. Ðầu tư bảo đảm hoạt
động của các lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên biển, nâng
cấp cơ sở hậu cần phục vụ cho các hoạt động trên biển, đảo và quần đảo,
phát triển nguồn nhân lực biển.
6. Thực hiện các chính sách ưu
tiên đối với nhân dân sinh sống trên các đảo và quần đảo; chế độ ưu đãi
đối với các lực lượng tham gia quản lý và bảo vệ các vùng biển, đảo và
quần đảo.
Ðiều 6. Hợp tác quốc tế về biển
1. Nhà nước đẩy
mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ chức quốc tế và khu
vực trên cơ sở pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, bình đẳng, các bên cùng có lợi.
2. Nội dung hợp tác quốc tế về biển bao gồm:
a) Ðiều tra, nghiên cứu biển, đại dương; ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ;
b) Ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống và cảnh báo thiên tai;
c) Bảo vệ đa dạng sinh học biển, hệ sinh thái biển;
d) Phòng chống ô nhiễm môi trường biển, xử lý chất thải từ hoạt động kinh tế biển, ứng phó sự cố tràn dầu;
đ) Tìm kiếm, cứu nạn trên biển;
e) Phòng, chống tội phạm trên biển;
g) Khai thác bền vững tài nguyên biển, phát triển du lịch biển.
Ðiều 7. Quản lý nhà nước về biển
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về biển trong phạm vi cả nước.
2.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố ven biển trực
thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện
quản lý nhà nước về biển.
CHƯƠNG II
VÙNG BIỂN VIỆT NAM
Ðiều 8. Xác định đường cơ sở
Ðường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã
được Chính phủ công bố. Chính phủ xác định và công bố đường cơ sở ở
những khu vực chưa có đường cơ sở sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội
phê chuẩn.
Ðiều 9. Nội thủy
Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam.
Ðiều 10. Chế độ pháp lý của nội thủy
Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh thổ đất liền.
Ðiều 11. Lãnh hải
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển.
Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.
Ðiều 12. Chế độ pháp lý của lãnh hải
1.
Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và
vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
2. Tàu thuyền
của tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh
hải Việt Nam. Ðối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua
không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam.
3. Việc đi qua không gây hại của tàu
thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng hòa bình, độc
lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Các phương tiện bay
nước ngoài không được vào vùng trời ở trên lãnh hải Việt Nam, trừ trường
hợp được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
5. Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt Nam.
Ðiều 13. Vùng tiếp giáp lãnh hải
Vùng
tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt
Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải.
Ðiều 14. Chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải
1.
Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các
quyền khác quy định tại Ðiều 16 của Luật này đối với vùng tiếp giáp lãnh
hải.
2. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh
hải nhằm ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế,
y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.
Ðiều 15. Vùng đặc quyền kinh tế
Vùng
đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt
Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính
từ đường cơ sở.
Ðiều 16. Chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện:
a)
Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài
nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích
kinh tế;
b) Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo
nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển,
bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
2.
Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp,
ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật này và
điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia
và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
3.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác
tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc
tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng
được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của
Chính phủ Việt Nam.
4. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng
đất dưới đáy biển được thực hiện theo quy định tại Ðiều 17 và Ðiều 18
của Luật này.
Ðiều 17. Thềm lục địa
Thềm lục địa là vùng
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt
Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo
và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa.
Trong
trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200
hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường
cơ sở.
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá
200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài
không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính
từ đường đẳng sâu 2.500 mét (m).
Ðiều 18. Chế độ pháp lý của thềm lục địa
1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên.
2.
Quyền chủ quyền quy định tại khoản 1 Ðiều này có tính chất đặc quyền,
không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai
thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ
Việt Nam.
3. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa.
4.
Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng
biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo
quy định của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ
quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt
Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
5.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác
tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm
lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của
pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam.
Ðiều 19. Ðảo, quần đảo
1. Ðảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.
Quần
đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng nước
tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với
nhau.
2. Ðảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Ðiều 20. Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo, quần đảo
1.
Ðảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế
riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa.
2. Ðảo đá không thích hợp cho đời sống
con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa.
3. Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, quần
đảo được xác định theo quy định tại các điều 9, 11, 13, 15 và 17 của
Luật này và được thể hiện bằng hải đồ, bản kê tọa độ địa lý do Chính phủ
công bố.
Ðiều 21. Chế độ pháp lý của đảo, quần đảo
1. Nhà nước thực hiện chủ quyền trên đảo, quần đảo của Việt Nam.
2.
Chế độ pháp lý đối với vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, quần đảo được
thực hiện theo quy định tại các điều 10, 12, 14, 16 và 18 của Luật này.
CHƯƠNG III
HOẠT ÐỘNG TRONG VÙNG BIỂN VIỆT NAM
Ðiều 22. Quy định chung
1.
Tổ chức, cá nhân hoạt động trong vùng biển Việt Nam phải tôn trọng chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và
lợi ích quốc gia của Việt Nam, tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam
và pháp luật quốc tế có liên quan.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ
quyền và lợi ích hợp pháp của tàu thuyền, tổ chức, cá nhân hoạt động
trong vùng biển Việt Nam phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và
điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên.
Ðiều 23. Ði qua không gây hại trong lãnh hải
1. Ði qua lãnh hải là việc tàu thuyền nước ngoài đi trong lãnh hải Việt Nam nhằm một trong các mục đích sau:
a)
Ði ngang qua nhưng không đi vào nội thủy Việt Nam, không neo đậu lại
trong một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu ở bên ngoài nội thủy Việt
Nam;
b) Ði vào hoặc rời khỏi nội thủy Việt Nam hay đậu lại hoặc
rời khỏi một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu ở bên ngoài nội thủy
Việt Nam.
2. Việc đi qua lãnh hải phải liên tục và nhanh chóng,
trừ trường hợp gặp sự cố hàng hải, sự cố bất khả kháng, gặp nạn hoặc vì
mục đích phải cứu giúp người, tàu thuyền hay tàu bay đang gặp nạn.
3.
Việc đi qua không gây hại trong lãnh hải không được làm phương hại đến
hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn trên biển.
Việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải Việt Nam bị coi là
gây phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự
an toàn xã hội nếu tàu thuyền đó tiến hành bất kỳ một hành vi nào sau
đây:
a) Ðe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam;
b)
Ðe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của quốc gia khác; thực hiện các hành vi trái với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên
hợp quốc;
c) Luyện tập hay diễn tập với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kỳ hình thức nào;
d) Thu thập thông tin gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam;
đ) Tuyên truyền nhằm gây hại đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam;
e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện bay lên tàu thuyền;
g) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện quân sự lên tàu thuyền;
h)
Bốc, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu thuyền trái với
quy định của pháp luật Việt Nam về hải quan, thuế, y tế hoặc xuất nhập
cảnh;
i) Cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển;
k) Ðánh bắt hải sản trái phép;
l) Nghiên cứu, điều tra, thăm dò trái phép;
m) Làm ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống thông tin liên lạc hoặc của thiết bị hay công trình khác của Việt Nam;
n) Tiến hành hoạt động khác không trực tiếp liên quan đến việc đi qua.
Ðiều 24. Nghĩa vụ khi thực hiện quyền đi qua không gây hại
1.
Khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, tổ
chức, cá nhân nước ngoài có nghĩa vụ tuân thủ quy định của pháp luật
Việt Nam về nội dung sau đây:
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông;
b) Bảo vệ thiết bị và hệ thống bảo đảm hàng hải, thiết bị hay công trình khác;
c) Bảo vệ đường dây cáp và ống dẫn;
d) Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển;
đ) Hoạt động đánh bắt, khai thác và nuôi trồng hải sản;
e) Gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển;
g) Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn;
h) Hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh.
2.
Thuyền trưởng tàu thuyền nước ngoài chạy bằng năng lượng hạt nhân hoặc
chuyên chở chất phóng xạ, chất độc hại hoặc nguy hiểm, khi đi trong lãnh
hải Việt Nam có nghĩa vụ sau đây:
a) Mang đầy đủ tài liệu kỹ thuật liên quan tới tàu thuyền và hàng hóa trên tàu thuyền, tài liệu về bảo hiểm dân sự bắt buộc;
b)
Sẵn sàng cung cấp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam
mọi tài liệu liên quan đến thông số kỹ thuật của tàu thuyền cũng như của
hàng hóa trên tàu thuyền;
c) Thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng
ngừa đặc biệt đúng theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên áp dụng
đối với các loại tàu thuyền này;
d) Tuân thủ quyết định của cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam về việc áp dụng biện pháp phòng ngừa đặc
biệt, kể cả cấm không được đi qua lãnh hải Việt Nam hoặc buộc phải rời
ngay khỏi lãnh hải Việt Nam trong trường hợp có dấu hiệu hoặc bằng chứng
rõ ràng về khả năng gây rò rỉ hoặc làm ô nhiễm môi trường.
Ðiều 25. Tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại
1.
Chính phủ quy định về việc công bố tuyến hàng hải và phân luồng giao
thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại nhằm bảo đảm
an toàn hàng hải.
2. Tàu thuyền nước ngoài chở dầu hoặc chạy bằng
năng lượng hạt nhân hoặc chuyên chở chất phóng xạ, chất độc hại hay
nguy hiểm khi đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam có thể bị
buộc phải đi theo tuyến hàng hải quy định cụ thể cho từng trường hợp.
Ðiều 26. Vùng cấm và khu vực hạn chế hoạt động trong lãnh hải
1.
Ðể bảo vệ chủ quyền, quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia hoặc an
toàn hàng hải, bảo vệ tài nguyên, sinh thái biển, chống ô nhiễm, khắc
phục sự cố, thảm họa môi trường biển, phòng chống lây lan dịch bệnh,
Chính phủ thiết lập vùng cấm tạm thời hoặc vùng hạn chế hoạt động trong
lãnh hải Việt Nam.
2. Việc thiết lập vùng cấm tạm thời hoặc vùng
hạn chế hoạt động trong lãnh hải Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Ðiều
này phải được thông báo rộng rãi trong nước và quốc tế trong "Thông báo
hàng hải", theo tập quán hàng hải quốc tế, chậm nhất là 15 ngày trước
khi áp dụng hoặc thông báo ngay sau khi áp dụng trong trường hợp khẩn
cấp.
Ðiều 27. Tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài đến Việt Nam
1.
Tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài chỉ được đi vào nội
thủy, neo đậu tại một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu trong nội
thủy hoặc công trình cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam ở bên ngoài
nội thủy Việt Nam theo lời mời của Chính phủ Việt Nam hoặc theo thỏa
thuận giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với quốc gia mà tàu mang
cờ.
2. Tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài khi ở
trong nội thủy, cảng, bến hay nơi trú đậu trong nội thủy hoặc các công
trình cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam ở bên ngoài nội thủy Việt
Nam phải tuân thủ quy định của Luật này, quy định khác của pháp luật có
liên quan và phải hoạt động phù hợp với lời mời của Chính phủ Việt Nam
hoặc thỏa thuận với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Ðiều 28. Trách nhiệm của tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam
Tàu
quân sự của nước ngoài khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam mà có
hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam thì lực lượng tuần tra, kiểm soát
trên biển của Việt Nam có quyền yêu cầu tàu thuyền đó chấm dứt ngay hành
vi vi phạm, rời khỏi lãnh hải Việt Nam ngay lập tức nếu đang ở trong
lãnh hải Việt Nam. Tàu thuyền vi phạm phải tuân thủ các yêu cầu, mệnh
lệnh của lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam.
Trường
hợp tàu quân sự, tàu thuyền công vụ của nước ngoài hoạt động trong vùng
biển Việt Nam mà có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật
quốc tế có liên quan thì quốc gia mà tàu mang cờ phải chịu trách nhiệm
về mọi thiệt hại do tàu thuyền đó gây ra cho Việt Nam.
Ðiều 29. Hoạt động của tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam
Trong
nội thủy, lãnh hải Việt Nam, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác
của nước ngoài phải hoạt động ở trạng thái nổi trên mặt nước và phải
treo cờ quốc tịch, trừ trường hợp được phép của Chính phủ Việt Nam hoặc
theo thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ của quốc gia mà tàu
thuyền đó mang cờ.
Ðiều 30. Quyền tài phán hình sự đối với tàu thuyền nước ngoài
1.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, lực lượng tuần tra, kiểm
soát trên biển có quyền tiến hành các biện pháp để bắt người, điều tra
đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài sau khi rời khỏi nội
thủy và đang đi trong lãnh hải Việt Nam.
2. Ðối với tội phạm xảy
ra trên tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam nhưng
không phải ngay sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam, lực lượng tuần tra,
kiểm soát trên biển có quyền tiến hành bắt người, điều tra trong các
trường hợp sau đây:
a) Hậu quả của việc phạm tội ảnh hưởng đến Việt Nam;
b) Việc phạm tội có tính chất phá hoại hòa bình của Việt Nam hay trật tự trong lãnh hải Việt Nam;
c)
Thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc viên chức lãnh sự của
quốc gia mà tàu thuyền mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam;
d) Ðể ngăn chặn hành vi mua bán người, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy.
3.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành bất kỳ
biện pháp nào trên tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam
để bắt giữ người hay điều tra việc phạm tội đã xảy ra trước khi tàu
thuyền đó đi vào lãnh hải Việt Nam nếu như tàu thuyền đó xuất phát từ
một cảng nước ngoài và chỉ đi trong lãnh hải mà không đi vào nội thủy
Việt Nam, trừ trường hợp cần ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm môi trường biển
hoặc để thực hiện quyền tài phán quốc gia quy định tại điểm b khoản 1
Ðiều 16 của Luật này.
4. Việc thực hiện biện pháp tố tụng hình sự
phải phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Ðiều 31. Quyền tài phán dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài
1.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được buộc tàu thuyền nước
ngoài đang đi trong lãnh hải phải dừng lại hoặc thay đổi hành trình chỉ
vì mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự đối với cá nhân đang ở trên
tàu thuyền đó.
2. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không
được tiến hành các biện pháp bắt giữ hay xử lý về mặt dân sự đối với tàu
thuyền nước ngoài đang đi trong vùng biển Việt Nam, trừ nội thủy, trừ
trường hợp việc thi hành các biện pháp này liên quan đến nghĩa vụ đã cam
kết hay trách nhiệm dân sự mà tàu thuyền phải đảm nhận trong khi đi qua
hoặc để được đi qua vùng biển Việt Nam.
3. Lực lượng tuần tra,
kiểm soát trên biển có thể áp dụng các biện pháp bắt giữ hay xử lý tàu
thuyền nước ngoài nhằm mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự nếu tàu
thuyền đó đang đậu trong lãnh hải hoặc đi qua lãnh hải sau khi rời khỏi
nội thủy Việt Nam.
Ðiều 32. Thông tin liên lạc trong cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam
Tổ
chức, cá nhân và tàu thuyền khi ở trong các cảng, bến hay nơi trú đậu
trong nội thủy hay trong công trình cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt
Nam ở bên ngoài nội thủy Việt Nam chỉ được tiến hành thông tin liên lạc
theo đúng các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có
liên quan.
Ðiều 33. Tìm kiếm, cứu nạn và cứu hộ
1. Trường
hợp người, tàu thuyền hoặc phương tiện bay gặp nạn hoặc nguy hiểm trên
biển cần sự cứu giúp thì phải phát tín hiệu cấp cứu theo quy định và khi
điều kiện cho phép phải thông báo ngay cho cảng vụ hàng hải hay trung
tâm phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải Việt Nam hay nhà chức trách địa
phương nơi gần nhất biết để được giúp đỡ, hướng dẫn cần thiết.
2.
Khi nhận biết tình trạng người, tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm hay
nhận được tín hiệu cấp cứu của người, tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm
cần được cứu giúp, mọi cá nhân, tàu thuyền khác phải bằng mọi cách tiến
hành cứu giúp người, tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm nếu điều kiện
thực tế cho phép và không gây nguy hiểm đến tàu thuyền, những người đang
ở trên tàu thuyền của mình và kịp thời thông báo cho cá nhân, tổ chức
liên quan biết.
3. Nhà nước bảo đảm sự giúp đỡ cần thiết theo quy
định của pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế có liên quan và trên
tinh thần nhân đạo để người và tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm trên
biển có thể nhanh chóng được tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục hậu quả.
4.
Trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, Nhà nước có đặc quyền trong việc
thực hiện các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ người và tàu thuyền
gặp nạn hoặc nguy hiểm cần sự cứu giúp.
5. Lực lượng có thẩm quyền
có quyền huy động cá nhân, tàu thuyền đang hoạt động trong vùng biển
Việt Nam tham gia tìm kiếm, cứu nạn nếu điều kiện thực tế cho phép và
không gây nguy hiểm cho cá nhân, tàu thuyền đó.
Việc huy động và
yêu cầu quy định tại khoản này chỉ được thực hiện trong trường hợp khẩn
cấp và chỉ trong thời gian cần thiết để thực hiện công tác tìm kiếm, cứu
nạn.
6. Việc cứu hộ hàng hải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng
cứu hộ hàng hải theo thỏa thuận giữa chủ tàu thuyền hoặc thuyền trưởng
tàu thuyền tham gia cứu hộ với chủ tàu thuyền hoặc thuyền trưởng của tàu
thuyền gặp nạn, phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp
luật quốc tế có liên quan.
7. Tàu thuyền nước ngoài vào vùng biển
Việt Nam thực hiện việc tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai,
thảm họa theo đề nghị của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân
theo các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Ðiều 34. Ðảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển
1. Ðảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển bao gồm:
a)
Các giàn khoan trên biển cùng toàn bộ các bộ phận phụ thuộc khác đảm
bảo hoạt động bình thường và liên tục của các giàn khoan hoặc các thiết
bị chuyên dùng để thăm dò, khai thác và sử dụng biển;
b) Các loại báo hiệu hàng hải;
c) Các thiết bị, công trình khác được lắp đặt và sử dụng ở biển.
2.
Nhà nước có quyền tài phán đối với các đảo nhân tạo và thiết bị, công
trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam,
bao gồm cả quyền tài phán theo các quy định của pháp luật về hải quan,
thuế, y tế, an ninh và xuất nhập cảnh.
3. Các đảo nhân tạo, thiết
bị, công trình trên biển và các bộ phận kèm theo hoặc phụ thuộc có vành
đai an toàn 500 mét (m) tính từ điểm nhô ra xa nhất của đảo, thiết bị,
công trình hoặc các bộ phận đó, nhưng không có lãnh hải và các vùng biển
riêng.
4. Không xây dựng đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên
biển cũng như không thiết lập vành đai an toàn xung quanh đảo nhân tạo,
thiết bị, công trình trên biển ở nơi có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử
dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải
quốc tế.
5. Khi hết hạn sử dụng, thiết bị, công trình trên biển
phải được tháo dỡ khỏi vùng biển Việt Nam, trừ trường hợp được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cho phép. Ðối với phần còn lại của
thiết bị, công trình trên biển chưa kịp tháo dỡ hoàn toàn vì lý do kỹ
thuật hoặc được phép gia hạn thì phải thông báo rõ vị trí, kích thước,
hình dạng, độ sâu và phải đặt các tín hiệu, báo hiệu hàng hải và nguy
hiểm thích hợp.
6. Thông tin liên quan tới việc thiết lập đảo
nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển, việc thiết lập vành đai an
toàn xung quanh và việc tháo dỡ một phần hay toàn bộ thiết bị, công
trình trên biển phải được cung cấp chậm nhất là 15 ngày trước ngày bắt
đầu thiết lập hoặc tháo dỡ đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển
cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và được thông báo rộng
rãi trong nước và quốc tế.
Ðiều 35. Gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển
1.
Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân
phải tuân thủ mọi quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế
có liên quan đến việc gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển.
2.
Khi vận chuyển, bốc, dỡ các loại hàng hóa, thiết bị có khả năng gây hại
đối với tài nguyên, đời sống của con người và ô nhiễm môi trường biển,
tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải sử dụng thiết bị và các biện pháp
chuyên dụng theo quy định để ngăn ngừa và hạn chế tối đa thiệt hại có
thể xảy ra cho người, tài nguyên và môi trường biển.
3. Tàu
thuyền, tổ chức, cá nhân không được thải, nhận chìm hay chôn lấp các
loại chất thải công nghiệp, chất thải hạt nhân hoặc các loại chất thải
độc hại khác trong vùng biển Việt Nam.
4. Tàu thuyền, tổ chức, cá
nhân vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có
liên quan làm ảnh hưởng đến tài nguyên và môi trường biển trong vùng
biển, cảng biển, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam thì bị xử lý theo quy
định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; nếu gây thiệt hại thì phải làm
sạch, khôi phục lại môi trường và bồi thường theo quy định của pháp
luật.
5. Tổ chức, cá nhân hoạt động trên các vùng biển Việt Nam có
nghĩa vụ nộp thuế, phí, lệ phí và các khoản đóng góp về bảo vệ môi
trường biển theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Ðiều 36. Nghiên cứu khoa học biển
1.
Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học
trong vùng biển Việt Nam phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền của Việt Nam, chịu sự giám sát của phía Việt Nam, bảo đảm cho các
nhà khoa học Việt Nam được tham gia và phải cung cấp cho phía Việt Nam
các tài liệu, mẫu vật gốc và các kết quả nghiên cứu liên quan.
2.
Khi tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam,
tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ những quy định sau đây:
a) Có mục đích hòa bình;
b)
Ðược thực hiện với phương thức và phương tiện thích hợp theo quy định
của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan;
c) Không
được gây cản trở đối với các hoạt động hợp pháp trên biển theo quy định
của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan;
d) Nhà
nước Việt Nam có quyền tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học của nước
ngoài trong vùng biển Việt Nam và có quyền được chia sẻ các tài liệu,
mẫu vật gốc, sử dụng và khai thác các kết quả khoa học thu được từ các
hoạt động nghiên cứu, khảo sát đó.
Ðiều 37. Quy định cấm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam
Khi
thực hiện quyền tự do hàng hải, tự do hàng không trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, tổ chức, cá nhân không được tiến hành
các hoạt động sau đây:
1. Ðe dọa chủ quyền, quốc phòng, an ninh của Việt Nam;
2. Khai thác trái phép tài nguyên sinh vật, đánh bắt hải sản trái phép;
3. Khai thác trái phép dòng chảy, năng lượng gió và tài nguyên phi sinh vật khác;
4. Xây dựng, lắp đặt, sử dụng trái phép các thiết bị, công trình nhân tạo;
5. Khoan, đào trái phép;
6. Tiến hành nghiên cứu khoa học trái phép;
7. Gây ô nhiễm môi trường biển;
8. Cướp biển, cướp có vũ trang;
9. Các hoạt động bất hợp pháp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế.
Ðiều 38. Cấm tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí, chất nổ, chất độc hại
Khi
hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không
được tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí hoặc chất nổ, chất độc
hại cũng như các loại phương tiện thiết bị khác có khả năng gây hại đối
với người, tài nguyên và ô nhiễm môi trường biển.
Ðiều 39. Cấm mua bán người, mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy
1.
Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân
không được mua bán người, vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép các
chất ma túy.
2. Khi có căn cứ về việc tàu thuyền, tổ chức, cá nhân
đang mua bán người hoặc vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép các
chất ma túy thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam có
quyền tiến hành khám xét, kiểm tra, bắt giữ, dẫn giải về các cảng, bến
hay nơi trú đậu của Việt Nam hoặc dẫn giải, chuyển giao đến các cảng,
bến hay nơi trú đậu của nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
hoặc điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên để xử lý.
Ðiều 40. Cấm phát sóng trái phép
Khi
hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không
được phát sóng trái phép hoặc tuyên truyền, gây phương hại cho quốc
phòng, an ninh của Việt Nam.
Ðiều 41. Quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài
1.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền truy đuổi tàu thuyền
nước ngoài vi phạm các quy định của pháp luật Việt Nam nếu tàu thuyền
này đang ở trong nội thủy, lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam.
Quyền truy đuổi được tiến hành sau khi lực lượng tuần tra, kiểm
soát trên biển đã phát tín hiệu yêu cầu tàu thuyền vi phạm hay có dấu
hiệu vi phạm pháp luật dừng lại để tiến hành kiểm tra nhưng tàu thuyền
đó không chấp hành. Việc truy đuổi có thể được tiếp tục ở ngoài ranh
giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam nếu được tiến
hành liên tục, không ngắt quãng.
2. Quyền truy đuổi cũng được áp
dụng đối với hành vi vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia
của Việt Nam, vi phạm trong phạm vi vành đai an toàn và trên các đảo
nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa Việt Nam.
3. Việc truy đuổi của các lực lượng tuần
tra, kiểm soát Việt Nam chấm dứt khi tàu thuyền bị truy đuổi đi vào lãnh
hải của quốc gia khác.
CHƯƠNG IV
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
Ðiều 42. Nguyên tắc phát triển kinh tế biển
Phát triển kinh tế biển bền vững, hiệu quả theo các nguyên tắc sau đây:
1. Phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
2. Gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn trên biển;
3. Phù hợp với yêu cầu quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển;
4. Gắn với phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương ven biển và hải đảo.
Ðiều 43. Phát triển các ngành kinh tế biển
Nhà nước ưu tiên tập trung phát triển các ngành kinh tế biển sau đây:
1. Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên, khoáng sản biển;
2. Vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, phương tiện đi biển và các dịch vụ hàng hải khác;
3. Du lịch biển và kinh tế đảo;
4. Khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản;
5. Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ về khai thác và phát triển kinh tế biển;
6. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển.
Ðiều 44. Quy hoạch phát triển kinh tế biển
1. Căn cứ lập quy hoạch phát triển kinh tế biển bao gồm:
a) Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia;
b) Ðịnh hướng chiến lược phát triển bền vững và chiến lược biển;
c) Ðặc điểm, vị trí địa lý, quy luật tự nhiên của các vùng biển, vùng ven biển và hải đảo;
d)
Kết quả điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường biển; thực trạng và
dự báo nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển
của cả nước, của vùng và của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc
trung ương;
đ) Giá trị tài nguyên và mức độ dễ bị tổn thương của môi trường biển;
e) Nguồn lực để thực hiện quy hoạch.
2. Nội dung quy hoạch phát triển kinh tế biển bao gồm:
a) Phân tích, đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và hiện trạng khai thác, sử dụng biển;
b) Xác định phương hướng, mục tiêu và định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển;
c)
Phân vùng sử dụng biển cho các mục đích phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh; xác định các vùng cấm khai thác, các vùng khai thác
có điều kiện, khu vực cần bảo vệ đặc biệt cho mục đích quốc phòng, an
ninh, bảo vệ môi trường, bảo tồn hệ sinh thái và đảo nhân tạo, các thiết
bị, công trình trên biển;
d) Xác định vị trí, diện tích và thể hiện trên bản đồ các vùng sử dụng mặt biển, đáy biển, đảo;
đ)
Xác định cụ thể các vùng bờ biển dễ bị tổn thương như bãi bồi, vùng bờ
biển xói lở, rừng phòng hộ, đất ngập nước, cát ven biển, xác định vùng
đệm và có các giải pháp quản lý, bảo vệ phù hợp;
e) Giải pháp và tiến độ thực hiện quy hoạch.
3.
Chính phủ xây dựng phương án tổng thể phát triển các ngành kinh tế biển
quy định tại Ðiều 43 của Luật này và tổ chức thực hiện việc lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng biển của cả nước trình Quốc hội xem xét, quyết
định.
Ðiều 45. Xây dựng và phát triển kinh tế biển
1. Nhà
nước có chính sách đầu tư xây dựng, phát triển các khu kinh tế, cụm công
nghiệp ven biển, kinh tế các huyện đảo theo quy hoạch, bảo đảm hiệu
quả, phát triển bền vững.
2. Việc giao các khu vực biển nhất định
cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển được thực hiện
theo quy định của Chính phủ.
Ðiều 46. Khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế trên các đảo và hoạt động trên biển
1.
Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới hậu cần biển,
phát triển kinh tế các huyện đảo; có chính sách ưu đãi để nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của dân cư sinh sống trên các đảo.
2. Nhà
nước khuyến khích, ưu đãi về thuế, vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ
chức, cá nhân đầu tư khai thác tiềm năng và thế mạnh phát triển trên các
đảo.
3. Nhà nước khuyến khích, ưu đãi về thuế, vốn, tạo điều kiện
thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tăng cường hoạt động ngư nghiệp và các
hoạt động khác trên biển, đảo; bảo vệ hoạt động của nhân dân trên biển,
đảo.
4. Chính phủ quy định chi tiết Ðiều này.
CHƯƠNG V
TUẦN TRA, KIỂM SOÁT TRÊN BIỂN
Ðiều 47. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển
1.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển bao gồm các lực lượng có thẩm
quyền thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các lực lượng tuần tra,
kiểm soát chuyên ngành khác.
2. Lực lượng dân quân tự vệ của các
tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương, lực lượng bảo vệ của cơ
quan, tổ chức đóng ven biển và các lực lượng khác có trách nhiệm tham
gia tuần tra, kiểm soát trên biển khi được cơ quan có thẩm quyền huy
động.
Ðiều 48. Nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển
1. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có nhiệm vụ sau đây:
a) Bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển, đảo của Việt Nam;
b) Bảo đảm việc tuân thủ pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
c) Bảo vệ tài sản nhà nước, tài nguyên và môi trường biển;
d) Bảo vệ, giúp đỡ, tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ đối với người, tàu thuyền hoạt động trên các vùng biển, đảo của Việt Nam;
đ) Xử lý hành vi vi phạm pháp luật trên các vùng biển, đảo của Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Phạm vi trách nhiệm cụ thể của các lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Nhà nước bảo đảm những điều kiện cần thiết để các lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Ðiều 49. Cờ, sắc phục và phù hiệu
Khi
thi hành nhiệm vụ, tàu thuyền thuộc lực lượng tuần tra, kiểm soát trên
biển phải được trang bị đầy đủ quốc kỳ Việt Nam, số hiệu, cờ hiệu; cá
nhân thuộc lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển được trang bị đầy đủ
quân phục, trang phục của lực lượng cùng với các dấu hiệu đặc trưng khác
theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG VI
XỬ LÝ VI PHẠM
Ðiều 50. Dẫn giải và địa điểm xử lý
vi phạm
1.
Căn cứ vào quy định của pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm,
lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển ra quyết định xử lý vi phạm tại
chỗ hoặc dẫn giải người, tàu thuyền vi phạm vào bờ hoặc yêu cầu cơ quan
hữu quan của quốc gia mà tàu mang cờ, quốc gia nơi tàu đó đến để xử lý
vi phạm.
2. Khi dẫn giải vào bờ để xử lý, người và tàu thuyền vi
phạm phải được áp giải về cảng, bến hay nơi trú đậu gần nhất được liệt
kê trong danh mục cảng, bến hay nơi trú đậu đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam công bố theo quy định của pháp luật.
Trường
hợp vì yêu cầu bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của người trên tàu
thuyền, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể quyết định dẫn
giải người và tàu thuyền vi phạm đó đến cảng, bến hay nơi trú đậu gần
nhất của Việt Nam hoặc của nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Ðiều 51. Biện pháp ngăn chặn
1.
Cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam;
tàu thuyền được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm có thể bị tạm giữ
nhằm ngăn chặn việc vi phạm pháp luật hoặc để bảo đảm việc xử lý theo
pháp luật.
2. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam người có hành vi vi
phạm pháp luật, việc tạm giữ tàu thuyền được thực hiện theo quy định của
pháp luật.
Ðiều 52. Thông báo cho Bộ Ngoại giao
Khi tiến
hành bắt, tạm giữ, tạm giam người có hành vi vi phạm pháp luật, hoặc tạm
giữ tàu thuyền nước ngoài, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển hoặc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho Bộ
Ngoại giao để phối hợp xử lý.
Ðiều 53. Xử lý vi phạm
Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm các quy định của Luật này thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm
hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp
luật; cá nhân vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật.
CHƯƠNG VII
ÐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Ðiều 54. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013.
Ðiều 55. Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong luật.
Luật
này đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII,
kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21 tháng 6 năm
2012.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Ðã ký: NGUYỄN SINH HÙNG
Nguồn :
http://www.nhandan.com.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/chinh-tri/2.670/lu-t-bi-n-vi-t-nam-1.358327
****************************************************************
09:46-13/07/2012
Chấm và vạch trong Biển Đông: nhìn nhận từ Luật chứng cứ bản đồ .
Erik FRANCKX* và Marco BENATAR** Đại họcVrije Brussel, Bỉ efranckx@vub.ac.be và mbenatar@vub.ac.be
|
Đường lưỡi bò do Trung Quốc tự vẽ
Ngày
07 tháng 5 năm 2009, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) phản đối đệ
trình của Việt Nam và đệ trình chung của Malaysia-Việt Nam gửi Ủy ban
Ranh giới thềm lục địa (CLCS). Để hậu thuẫn cho các yêu sách của mình,
Trung Quốc (TQ) đã kèm một bản đồ có vẽ một đường hình chữ U nhiều chấm
bao trùm phần lớn Biển Đông vào công hàm phản đối.
Bài nghiên cứu này là đưa ra một phân tích về mặt pháp lý quốc tế bản đồ nói trên.
I. BẢN ĐỒ TRUNG QUỐC
A. Nền tảng
Nguồn gốc của đường chữ U bắt đầu từ các hoạt động của Uỷ ban thẩm tra
Bản đồ Đất và Nước của Trung Hoa Dân Quốc (THDQ), thành lập vào năm
1933. Trách nhiệm của Uỷ ban này bao gồm việc khảo sát và đặt tên các
đảo ở Biển Đông và in ra các bản đồ cho thấy các đảo này thuộc chủ quyền
của TQ. [1]
Đường nhiều chấm được chuẩn nhận chính thức đầu tiên phát xuất từ sau
cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Tờ bản đồ đang bàn do Sở lãnh thổ và
Ranh giới Bộ Nội vụ THDQ in ra vào tháng 12 năm 1946. [2] Trên bản đồ này, đường chữ U gồm 11 vạch liên tục bao kín phần lớn Biển Đông và các thể địa lý giữa đại dương. [3]
Bắt đầu từ ranh giới Trung-Việt, hai vạch đầu tiên đi qua Vịnh Bắc Bộ.
Vạch thứ ba và thứ tư của đường này phân cách bờ biển Việt Nam với các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tương ứng. Vạch thứ năm và thứ sáu trên
đường đứt đoạn đi qua Bãi cạn James (4° N), thể địa lý biển cực nam mà
TQ và THDQ tuyên bố chủ quyền. Di chuyển theo hướng đông bắc, hai vạch
tiếp theo nằm giữa quần đảo Trường Sa phía này, và Borneo (Indonesia,
Malaysia, và Brunei) và Philippines (tỉnh Palawan), phía kia. Vạch thứ
chín, thứ mười, và thứ mười một phân cách Philippines với THDQ. [4] Sau khi loại Quốc dân Đảng khỏi Trung Hoa đại lục, CHNDTH cũng phát hành bản đồ vẽ với cùng các vạch trên. [5]
Như vậy, từ đó trở đi, ở hai phía của eo biển Đài Loan đều thấy có bản
đồ đường chữ U xuất hiện. Một trong thay đổi đặc biệt cần lưu ý: từ năm
1953, bản đồ Biển Đông TQ chỉ vẽ 9 thay vì 11 vạch (2 vạch ở Vịnh Bắc Bộ
đã bị xoá). [6]
B. Công hàm TQ gửi Tổng thư ký LHQ (ngày 07 tháng 5 năm 2009)
Ở cấp độ quốc tế, tranh cãi xung quanh đường 9 chấm đã rộ lên trước Liên
Hợp Quốc (LHQ) vào năm 2009 liên quan tới đệ trình chung của
Malaysia-Việt nam[7] và đệ trình riêng của Việt Nam[8]
cho CLCS. CLCS đưa ra khuyến nghị cho các nước ven biển có nhu cầu xác
lập ranh giới bên ngoài thềm lục địa vượt quá 200 hải lý (nm). [9]
Thời gian đệ trình của các chính phủ Việt Nam và Malaysia có thể được
giải thích bởi thời hạn chót của họ là vào tháng 5 năm 2009. [10] Để đáp trả các đệ trình này, trong cùng ngày TQ đã chính thức gửi Tổng thư ký LHQ hai công hàm riêng biệt có kèm bản đồ đó [11], bằng cách này lần đầu tiên xác nhận đường chữ U, ở cấp quốc tế trong một tranh chấp cấp nhà nước, [12] với phản ứng giống hệt nhau sau đây:
TQ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông và các
vùng biển lân cận, và được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán trên
các vùng biển liên quan cũng như biết đáy biển và lòng đất dưới biển
(xem bản đồ kèm theo). Lập trường nêu trên đượcChính phủ TQ nhất quán
thể hiện, và được cộng đồng quốc tế biết đến rộng rãi. [13]
Đọc Công hàm này, một học giả Đài Bắc suy ra một số khẳng định của TQ:
1. Chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông và vùng biển tiếp giáp chúng
(bản đồ kèm theo cho thấy các thể địa lý biển sau đây trong đường đứt
khúc theo tên: quần đảo Tây Sa, [14] quẩn đảo Nam Sa, [15] quần đảo Trung Sa, [16] và quẩn đảo Đông Sa[17]).
2. Quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển liên quan bao gồm đáy biển và tầng đất dưới đáy biển của chúng.
3. Tính nhất quán của vị thế chính thức của TQ về các yêu sách biển và lãnh thổ ở Biển Đông.
4. Sự nhận biết của các nước bên thứ ba liên quan đến yêu sách của TQ về biển và lãnh thổ ở Biển Đông.
5. Đường chữ U mô tả những yêu sách của TQ về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán. [18]
Tuy nhiên, dường như công bằng để nói rằng giải thích chính thức của TQ
trích dẫn trên, theo như ý nghĩa chính xác của bản đồ đính kèm, vẫn còn
là mơ hồ. Cụ thể, bản chất pháp lý chính xác của các khu vực biển bao
bọc bởi đường 9-chấm-vẫn còn mờ mịt, mặc dù có việc "làm rõ" của TQ.
Điểu này được thể hiện rõ ràng bởi các phản ứng đang dạng mà họ gây ra
tại các hội nghị chuyên ngành được tổ chức kể từ đó. [19]
Theo hiểu biết của chúng tôi, cho đến nay chỉ có một nước là Philippines thực hiện nỗ lực giải thích.[20]
TQ nhanh chóng trả lời với một công hàm mới, một lần nữa công hàm này
chẳng làm cho rõ ràng hơn bao nhiêu. Trong công hàm mới này, đề ngày 14
tháng 4 năm 2011, TQ nêu rằng “chủ quyền và các quyền và quyền tài phán
liên quan của TQ trong Biển Đông” được hỗ trợ bằng “chứng cứ lịch sử và
pháp lý phong phú”'.[21]
Điều rõ ràng trong tài liệu ngoại giao mới này là sự thiếu vắng của bất
kỳ đề cập nào tới bản đồ trên. Từ sự thiếu vắng này, chúng ta có thể
suy ra sự từ bỏ đường 9 chấm hay không? Chắc chắn, không thể giả định có
một sự quay ngoắt (volte-face) một cách hời hợt. Hơn nữa, dù họ đang
chủ trương làm dịu đi các quan ngại về tự do hàng hải ở Biển Đông, [22]
ví như can thiệp gần đây của TQ đối với tàu thuyền Việt Nam và
Philippines mà thôi cho thấy các yêu sách quá đáng của họ như trên bản
đồ vẫn còn nguyên vẹn.
II. CÁC YÊU SÁCH
Công hàm ngày 07 tháng 5 năm 2009 của TQ, dù là có thể mới trong các
khía cạnh vể biển của nó nhưng chỉ lặp lại những khẳng định tương tự như
đã đưa ra trong quá khứ liên quan đến các thể địa lý. [23]
Hơn nữa, nhiều học giả chủ yếu của TQ và Đài Loan đã đề ra các cách
giải thích riêng của họ về đường 9 chấm. Giữa sự rối rắm này, người ta
chỉ có thể chắc chắn một điều là các khẳng định TQ về Biển Đông không
vượt quá ranh giới này. [24] Những quan điểm và giá trị pháp lý của các khẳng định này sẽ được thảo luận sau đây.
A. Yêu sách lịch sử
1. Thực hành Nhà nước (State practice)
Mặc dù các khẳng định kiểu này dường như không là nét đặc biệt trong
chính sách chính thức của TQ, Đài Bắc có truyền thống ủng hộ lập trường
này đối với đường chữ U khá mạnh, như có thể thấy trong một loạt các
tuyên bố. Ví dụ, trong năm 1991 tại một trong những Hội thảo về Biển
Đông, một đại diện Văn phòng Kinh tế và Thương mại Đài Bắc ở Jakarta
(Indonesia) tuyên bố:
Biển Đông là một vùng nước thuộc thẩm quyền của THDQ. THDQ có quyền và
đặc quyền trong Biển Đông. Bất kỳ hoạt động nào trong Biển Đông phải có
sự chấp thuận của Chính phủ THDQ. [25]
Hướng dẫn Chính sách cho Biển Đông năm 1993 (chuẩn nhận bởi Bộ trưởng Hành Chánh) lưu ý rằng:
Trên cơ sở lịch sử, địa lý, luật pháp quốc tế, và nhiều sự kiện, quần
đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa, bãi cạn Macclesfield, và quần đảo
Pratas luôn là phần lãnh thổ cố hữu của THDQ. Chủ quyền của nước THDQ
đối với chúng không còn chút nghi ngờ nào. Khu vực Biển Đông trong ranh
giới vùng nước lịch sử là khu vực biển thuộc thẩm quyền của nước THDQ,
THDQ sở hữu tất cả các quyền và lợi ích trong đó. [26]
Trong năm 1994, Bộ trưởng Bộ Hành Chánh, Trương Kim Ngọc (Chang
King-yu), nói rằng “các vùng biển được bao bọc bởi đường chữ U ở Biển
Đông là vùng nước lịch sử của chúng ta và THDQ được hưởng tất cả các
quyền trong đó” (nhấn mạnh thêm). [27]
Chính sách của Đài Bắc được suy luận xa hơn từ các phản đối đã thực hiện
chống lại cách ứng xử của các nước ven biển trong khu vực. Đáp trả với
việc Malaysia chiếm đóng hai thể địa lý tại quần đảo Trường Sa và việc
Philippines quyết địnhsáp nhập bãi cát ngầm Scarborough trên bản đồ của
họ, Đài Bắc tuyên bố:
Biển Đông là một vùng nước của THDQ. THDQ có tất cả các quyền và đặc
quyền trong vùng Biển Đông. Bất kỳ hoạt động nào (kể cả việc thảo luận
về hợp tác chung hoặc Quy tắc ứng xử, vv) trong Biển Đông phải có sự
chấp thuận của Chính phủ THDQ. (nhấn mạnh thêm) [28]
Một số chuyên gia đã cóp nhặt nhiều lập luận pháp lý cho tuyên bố mong manh này. [29] Ví dụ, Triệu Quốc Tài (Guocai Zhao) nhận xét:
TQ sở hữu quyền lịch sử các hòn đảo, đá ngầm, bãi cát ngầm, các bãi cạn,
và các vùng nước trong đường 9 chấm. Biển Đông được coi là vùng nước
lịch sử của TQ, điều đó được thừa nhận phổ quát vào thời điểm đó. Cho
đến nay điều này đã kéo dài nửa thế kỷ. [30]
2. Phân tích pháp lý
Việc xem xét các bài viết học thuật về các tuyên bố lịch sử liên quan
đến các khu vực biển làm phát sinh rất nhiều nhầm lẫn về thuật ngữ. Các
khái niệm thích hợp như quyền lịch sử / sở hữu lịch sử, các vùng nước
lịch sử, và vịnh lịch sử không dễ dàng phân biệt và làm sáng tỏ. [31]
Để tránh việc tìm hiểu kéo dài không cần thiết và phần nào thừa thãi về
sự khác biệt giữa các quyền lịch sử và sở hữu lịch sử, chỉ cần nói rằng
“quyền lịch sử” là chủng (genus) mà theo đó người ta có thể đặt các
loại (species) “vùng nước lịch sử” vào. Tương tự, “vịnh lịch sử” là một
loại “vùng nước lịch sử”. [32]
Trong bối cảnh của đường 9 chấm, cách ứng xử của Đài Bắc dường như bao
hàm sự công nhận các vùng nước lịch sử liên quan đến một phần chủ yếu
của Biển Đông.
Không có định nghĩa được chấp nhận rộng rãi về các vùng nước lịch sử,
nhưng theo cách hiểu rộng rãi, nó biểu thị các quyền dành cho một nước
ven biển đối với một hoặc nhiều khu vực biển mà nước đó bình thường sẽ
không được hưởng. Phạm vi các quyền đi cùng với vùng nước lịch sử có thể
khác nhau đáng kể. Các điều kiện pháp lý cho việc thụ đắc các vùng nước
lịch sử đã được xem xét trong một nghiên cứu năm 1962 do Văn phòng Ban
thư ký Liên Hợp Quốc của Vụ Pháp chế (OLA) thực hiện theo yêu cầu của Uỷ
ban pháp luật quốc tế. [33] Theo quan điểm của OLA:
Có vẻ có một sự nhất trí chung nhất rằng khi xác định liệu một nước có
quyền sở hữu lịch sử đối với một khu vực biển hay không phải xem xét tới
ít nhất ba yếu tố. Những yếu tố này là: (1) việc thực thi thẩm quyền
của nước yêu sách quyền lịch sử đối với khu vực đó (2) tính liên tục của
việc thực thi thẩm quyền (3) thái độ của các nước khác. [34]
Đài Bắc lẫn TQ đều không đáp ứng các tiêu chí này cho vấn đề đó. Điều
kiện (1) và (2) đòi hỏi nước có yêu sách phải thực thi thẩm quyền thông
qua các hành vi thể hiện chủ quyền ở mức đủ thường xuyên và có hiệu quả.
Liên quan tới khu vực họ yêu sách, việc thể hiện thẩm quyền của họ cùng
lắm chỉ có thể nói là ở mức không thường xuyên. Việc tự do đánh bắt và
đi lại của các nước khác vẫn không bị cản trở. [35]
Do đó, không yêu sách lịch sử nào có thể thực hiện ở đây. Các đòi hỏi
lý thuyết cần để thoả mãn điều kiện (3) là không chắc chắn. Về cơ bản,
việc thảo luận xoay quanh vấn đề liệu các nước khác có cần phải ngầm
bằng lòng với việc thực hiện chủ quyền của TQ trên Biển Đông hay liệu
việc họ không có bất kỳ phản ứng nào là đủ hay không. [36]
Nhưng dù theo quan điểm nào, cả hai dường như đều đồng ý rằng sự phản
đối của các nước khác có thể ngăn chặn việc thực thi chủ quyền hòa bình
và liên tục, và điều này đích xác là những gì đã xảy ra đối với Biển
Đông (xem phần IV-B).
Một số người đã vặn lại rằng tuyên bố phải được xem xét dưới ánh sáng
của các quy tắc luật quốc tế đã tồn tại khi bản đồ đường chữ U được vẽ
ra, tức là năm 1946 (cái gọi là học thuyết của luật liên thời gian
[intertemporal law]). [37] Điều này là khá khác thường, vì cách tiếp cận này chỉ
làm yếu thêm một luận điểm vốn đã không thuyết phục. Vào thời điểm đó,
bề rộng của lãnh hải hợp pháp chỉ là 3 hải lý, khiến cho các yêu sách
lịch sử càng thêm quá đáng hơn. [38] Với thực tế rằng các vùng nước lịch sử thường liên quan đến vịnh hoặc một dải lãnh hải, [39]
do đó không có gì ngạc nhiên khi nhận thấy một chuyên luận gần đây về
vùng nước lịch sử không thấy cần thiết để đề cập tới yêu sách lịch sử
của đường 9 chấm. [40]
Hơn nữa, ngay cả khi vì mục đích lập luận người ta nhắm tới giả thuyết
cho rằng TQ có thể thực hiện một yêu sách lịch sử lớn chưa từng có (cái
không có –quod non) thì cũng nên nhớ rằng các yêu sách lịch sử không tạo
ra một chế độ liên quan tới mọi nước (erga omnes), mà là phụ thuộc vào
sự công nhận tường minh hay hàm ý trên tầm mức quốc gia như một tác giả
mới đây đã nhấn mạnh. [41]
Một lưu ý cuối cùng, việc sử dụng cách gọi “Biển Nam Trung Hoa" không có ý trao chủ quyền lịch sử cho TQ. [42] Theo luật pháp quốc tế, việc đặt tên đơn thuần một khu vực không thiết lập chủ quyền đối với khu vực đó. [43] Tên này đã bị các quốc gia có liên quan phản đối mạnh mẽ, trong đó có Việt Nam. [44]
Bản đồ nước ngoài dùng tên Biển Nam Trung Hoa chỉ đơn giản là để phù
hợp với cách gọi tên do Tổ chức Thủy văn Quốc tế về Ranh giới các Đại
dương và biển công bố (1953), cách gọi tên đó “không có bất kỳ ý nghĩa
chính trị nào”. [45]
Vì thế việc lựa chọn từ ngữ này về phần các nước phương Tây không có
hàm ý nhìn nhận chủ quyền của TQ. Ngoài ra, về mặt lịch sử người TQ cũng
dùng nhiều tên gọi khác nhau cho vùng biển này như là “Biển Giao Chỉ”
(đời Tống và Minh) và “Biển Nam” (đời Thanh (1905), THDQ (1913) và
CHNDTH (1952 và 1975)). [46]
3. Những diễn biến mới
Những diễn biến gần đây có thể làm cho sự thảo luận dễ dàng hơn. Thật
vậy, rất có thể là Đài Bắc đang từ bỏ luận điểm lâu dài của họ. Các
tuyên bố trong những năm gần đây gợi cho thấy một sự thay đổi trong quan
điểm của họ, đưa chính sách của Đài Loan về vấn đề này cùng hướng với
chính sách của TQ. Việc đề cập tới quyền / vùng nước lịch sử vắng đi
trong khi trọng tâm dường như là chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo và
lãnh hải của chúng. [47] Ví dụ gần đây nhất là tuyên bố hồi tháng 5 năm 2009 phản đối các hồ sơ củaViệt Nam và Malaysia - Việt Nam gửi cho CLCS:
Chính phủ THDQ nhắc lại rằng quần đảo Điếu Ngư Đài (Diaoyutai), quần đảo
Nam Sa (Trường Sa), quần đảo Tây Sa (quần đảo Hoàng Sa), quần đảo Trung
Sa (Macclesfield) và quần đảo Đông Sa (Pratas Islands) cũng như các
vùng biển xung quanh là cácvùng lãnh thổ và các vùng biển cố hữu của
THDQ dựa trên các quyền sở hữu chủ quyền không thể chối cãi biện minh
bằng các cơ sở lịch sử, địa lý và luật quốc tế. Theo luật quốc tế, THDQ
được hưởng tất cả các quyền và lợi ích đối với các quần đảo nói trên,
cũng như các vùng biển xung quanh và đáy biển và lòng đất dưới đáy của
chúng. [48]
B. Các yêu sách đảo
1. Cách giải thích 1: Tất cả các thể địa lý trong đường chữ-U là lãnh thổ Đài Bắc/TQ
Người đề xuất trước nhất cách giải thích yêu sách lãnh thổ này, nhà
ngoại giao Indonesia Hasji Djalal, trong khi thừa nhận tính chất “khó
hiểu" của đường chữ U, đã nêu các tìm hiểu của mình dựa trên việc phân
tích cẩn thận các tuyên bố của TQ, đặc biệt là những tuyên bố hình thành
trong cuộc họp của Tổ chức Hàng không dân dụng (ICAO) quốc tế năm 1979.
[49]
Smith ghi nhận rằng các thể địa lý giữa đại dương nằm bên trong “các
vạch phân bổ này” là những thể địa lý mà TQ tuyên bố chủ quyền. Ông nhấn
mạnh rằng các dấu vạch này không gợi ra bất kỳ yêu sách ranh giới biển
nào và sẽ không có chút tác động nào đối với việc giải quyết tranh chấp
biên giới biển. [50]
Dzurek cũng tin tưởng rằng đường chữ U không phân ranh các biên giới
thuộc thẩm quyền trên biển của TQ, với việc tin tưởng này dựa trên một
lập luận về bản đồ học, cụ thể là, sự kiện rằng các dấu vạch chia cắt
Malaysia và quần đảo Natuna đi chệch khỏi đường phân giới thềm lục địa
Indonesia-Malaysia đã thoả thuận. [51]
Như đã nói ở trên, việc thực hành nhà nước hiện nay của Đài Bắc dường như chứng minh một sự chuyển đổi về phía vị thế này.
Câu hỏi tinh tế về các đảo trong Biển Đông thuộc nước nào, đòi hỏi phải
phân tích nghiêm ngặt một ma trận sự kiện phức tạp và ứng dụng các khái
niệm pháp lý đa dạng (chẳng hạn như phát hiện, ngày tới hạn [ngày mà các
hành động của các bên liên quan thực hiện sau ngày đó sẽ không được toà
xét đến-ND] , và tính hiệu quả), sẽ đưa chúng ta quá xa khỏi chủ đề
hiện tại. [52]
Với điều này trong trí, có lẽ thích hợp để nhấn mạnh ở đây rằng bản đồ
TQ không thể tạo thành một quyền sở hữu lãnh thổ hợp lệ đối với các đảo
cho từng bản đồ. Trong vụ Burkina Faso / Mali, Tòa Công lý Quốc tế (ICJ)
đưa ra lời giải thích “dứt khoát”[53] về giá trị chứng cứ của bằng chứng bản đồ:
Các bản đồ chỉ đơn thuần tạo thành thông tin, chúng thay đổi về tính
chính xác theo từng trường hợp; và bằng sự tồn tại của một mình chúng,
chúng không có thể tạo thành một quyền sở hữu lãnh thổ, nghĩa là, một
tài liệu được luật quốc tế phú cho hiệu lực pháp lý nội tại cho mục đích
xác lập các quyền lãnh thổ. Tất nhiên, trong một số trường hợp, bản đồ
có thể có được hiệu lực pháp luật như vậy, nhưng trong những trường hợp
như thế hiệu lực pháp luật không phát sinh duy nhất từ giá trị nội tại
của chúng mà chính vì do bản đồ đó thuộc về loại biểu hiện vật lý về ý
muốn của một nước hoặc các nước có liên quan. Ví dụ, trường hợp khi các
bản đồ được kèm theo một văn bản chính thức mà chúng là một phần không
thể thiếu. Ngoại trừ trường hợp xác định rõ ràng này, các bản đồ chỉ là
bằng chứng bên ngoài có độ tin cậy khác nhau hay không đáng tin cậy,
chúng có thể được sử dụng, cùng với các bằng chứng khác loại gián tiếp,
để thiết lập hoặc tái thiết lại các sự kiện thật. [54]
Ý kiến nhân tiện (obiter dictum) này đã được trích dẫn một cách đồng tình trong một loạt các trường hợp tranh cãi. [55] Một số người đã đọc đoạn văn này như một bác bỏ “dứt khoát” đối với khái niệm về quyền sở hữu theo bản đồ. [56] Trong mọi trường hợp, Tòa án dường như còn để mở một cửa sổ nhỏ[57]
(“các bản đồ … kèm theo một văn bản chính thức mà chúng tạo thành một
phần không thể thiếu'”) đề cập đến nhưng công cụ như các hiệp ước[58] và do đó không áp dụng được trong trường hợp này.
2. Cách giải thích 2: Đường chữ U là đường ranh giới của vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được tạo ra từ các đảo ở Biển Đông
Một số học giả TQ dường như ủng hộ thuyết này, mặc dù lý luận của họ hơi
khác nhau và thường liên kết với thuyết các quyền / vùng biển lịch sử.
Triệu Lý Hải (Zhao Lihai) viết:
Đường chín chấm chỉ rõ lãnh thổ và chủ quyền của TQ về bốn quần đảo
trong Biển Đông và khẳng định ranh giới biển của các đảo của TQ ở Biển
Đông mà các đảo này đã được bao gồm trong phạm vi TQ ít nhất từ thế kỷ
15. Tất cả các hải đảo và các vùng nước lân cận trong đường biên giới
phải thuộc thẩm quyền và kiểm soát của TQ.[59]
Kiều Vĩnh Khoa (Jiao Yongke) nêu:
Các khu vực nước bên trong đường biên giới ở Biển Đông của TQ tạo thành
các vùng nước mà TQ có quyền sở hữu lịch sử đối với chúng, chúngtạo
thành vùng đặc quyền kinh tế đặc biệt, hay vùng đặc quyền kinh tế lịch
sử của TQ, do đó phải có địa vị tương tự như vùng đặc quyền kinh tế theo
các quy định của UNCLOS [Công ước LHQ về Luật Biển]. [60]
Cuối cùng, Trâu Khoa Uyển (Zou Keyuan) tin rằng TQ đã khẳng định một
tuyên bố lịch sử, nhưng tuyên bố này là “tương đương với tình trạng pháp
lý của vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa”. [61]
Cách giải thích thứ hai này về các vạch liên tục là phụ thuộc hoàn toàn
vào cách đầu tiên. Nó suy từ nguyên tắc “đất thống trị biển” mà cách
tiếp cận này nhất thiết phải dựa trên tiền đề là TQ có chủ quyền đối với
các thể địa lý ở Biển Đông. [62]
Những người ủng hộ thuyết này xem đường chữ U như một ranh giới trên
biển nối các ranh giới của vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa phát
sinh từ các đảo. Một loạt các câu hỏi nẩy lên. Vấn đề gai góc đầu tiên
liên quan đến việc phân định vùng biển đó. Suy cho cùng, một nước ven
biển không thể chỉ đơn giản áp đặt việc phân giới lên các nước khác một
cách đơn phương. Sự hợp lệ của hành động như vậy sẽ phụ thuộc vào sự
tuân thủ các chuẩn mực luật pháp quốc tế. [63]
Hơn nữa, còn có vấn đề là các thể địa lý biển có thể tạo ra các khu vực
biển (bất chấp ai là chủ sở hữu hợp pháp) hay không? Tất cả phụ thuộc
vào việc thể địa lý đó có hội đủ điều kiện là đảo theo nghĩa pháp lý hay
không. Công ước 1982[64] có chứa một điều khoản cho mục đích này, Điều 121, nêu như sau:
1. Một hòn đảo là một khu đất hình thành tự nhiên, bao quanh bởi nước, nằm bên trên mặt nước khi triều cao.
2. Ngoại trừ như quy định tại mục 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của một đảo được xác định theo quy định
của Công ước này áp dụng cho lãnh thổ đất liền khác.
3. Đá không thể duy trì sự cư trú của con người hay có đời sống kinh tế
của riêng mình sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. [65]
Do đó, các bề mặt có đất trong vùng Biển Đông sẽ tạo ra thêm các vùng
đặc quyền kinh tế (và thềm lục địa) nếu chúng đáp ứng các yêu cầu nghiêm
ngặt nêu trên. [66]
Do đó, tính chất đảo của một loạt các tính năng hàng hải tại Biển Đông
đã bị rơi vào nghi vấn. Oude Elferink thận trọng nêu rằng “ít ra có một
số đảo trong Biển Đông có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Các
thể địa lý có tính đảo khác gần như chắc chắn có thể được coi là rơi vào
vòng khống chế của Điều 121 (3) [đá].” [67]
Nếu biết ra rằng những bề mặt đất đó không phải là đảo, (ít nhất là một
phần) thì cách giải thích vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của
đường chữ U là không có giá trị pháp lý.
Về mặt này, rất đáng để đề cập ngắn gọn đến các bước do TQ mới thực hiện
ở cấp độ quốc tế ủng hộ di sản chung của loài người bằng cách cố gắng
bảo vệ khu vực này chống lại sự xâm nhập không chính đáng của một vài
nước. [68]
Về thực chất, các can thiệp này nhằm mục đích chống lại đệ trình của
Nhật Bản cho CLCS vể đảo Okinotorishima ở Thái Bình Dương. [69]
Tuy nhiên, hành động này ngay lập tức bị phản ứng ngược đối với Biển
Đông, Indonesia đã chất vấn đường 9 chấm của TQ ngay chính trên cơ sở
của các cơ quan đại diện của đất nước này nêu ra trước cuộc họp của các
nước thành viên năm 2009 cũng như trước Cơ quan quốc tế đáy biển, đó
là, các mỏm đá không thể duy trì sự cư trú của con người, đời sống kinh
tế riêng không tạo ra một vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.[70]
Dù các diễn biến có thể thú vị như thế nào, điều bắt buộc này, mà đúng
hơn là việc điều tra nặng thực tế và kỹ thuật về tình trạng pháp lý
chính xác của các thể địa lý khác nhau ở Biển Đông theo Điều 121 (3) của
Công ước năm 1982 vượt quá xa phạm vi nghiên cứu của chúng tôi.
III. CÁC YẾU TỐ LÀM SUY YẾU SỨC MẠNH CHỨNG MINH CỦA BẢN ĐỒ
Theo một quy tắc đã được ghi nhận, [71] các thẩm phán quốc tế được hưởng sự tự do đặc biệt rộng rãi trong việc xác định trọng lượng của tài liệu chứng cứ. [72] Cảnh giác về quyền tự do theo nguyên tắc này, chúng tôi đã xem xét các tiền lệ[73] liên quan đến bản đồ để suy ra các yếu tố[74]
thường được thẩm phán hoặc trọng tài sử dụng để đánh giá hiệu lực
chứng minh của bằng chứng bản đồ. Cần nhấn mạnh rằng trong khi làm như
vậy, chúng tôi dựa vào các tiền lệ liên quan cho đất liền lẫn trên biển
không phân biệt. Mặc dù đúng là các nguyên tắc quy định việc thụ đắc
những vùng biển và phân giới biển khác biệt đáng kể so với những quy tắc
làm cơ sở cho việc thụ đắc và phân giới lãnh thổ, [75]
câu hỏi cốt yếu này (chế độ pháp luật áp dụng được) là tách biệt với
câu hỏi về bằng chứng (các bản đồ). Hơn nữa, học thuyết dường như không
có sự phân biệt có ý nghĩa giữa bản đồ đất liền và bản đồ biển trong
việc phân loại các quy tắc bằng chứng, và ICJ đã trích dẫn các quy tắc
pháp lý bổ sung trong các vụ trên đất liền khi đánh giá các bản đồ do
các bên tham gia tranh chấp nộp vào có chứa một yếu tố liên quan đến
biển. [76]
Các yếu tố sau đây chứng tỏ sự thiếu sót về chứng cứ vốn có của đường 9-chấm của TQ.
A. Cách tiếp cận thận trọng với chứng cứ bản đồ
Như một quan sát bước đầu, cần chỉ ra rằng xu hướng chung là các tòa và
các toà án quốc tế không đưa ra các phán quyết chỉ đơn thuần dựa trên
các kết luận về bản đồ. [77]
Mặc dù những bản đồ chính xác phản ánh ý định của các bên có thể thực
sự tạo thành “một cơ sở vững chắc và liên tục cho việc thảo luận” sự
vắng mặt của chúng “là một sự bất tiện đáng tiếc”', [78] chúng thường sẽ đóng vai trò phụ trong việc làm vững thêm bằng chứng khác cùng chỉ về một hướng. [79] Trở lại với quyết định cho vụ Burkina Faso / Cộng hòa Mali:
Các bản đồ vẫn không thể có giá trị pháp lý hơn so là giá trị của bằng
chứng củng cố trong việc chuẩn nhận một kết luận mà một tòa án đi đến
bằng các phương tiện khác không dính dáng tới các bản đồ, trừ khi các
bản đồ thuộc loại biểu hiện vật lý ý muốn của Nhà nước, tự chúng không
thể được xem như là bằng chứng về một đường biên giới, vì trong trường
hợp đó chúng sẽ hình thành một giả định không thể bác bỏ, thật sự đồng
nghĩa với quyền sở hữu pháp lý. Giá trị duy nhất mà chúng có là bằng
chứng thuộc loại phụ hoặc khẳng định thêm, và điều này cũng có nghĩa
rằng chúng không thể được gán cho đặc tính của một giả định không thể
bác bỏ (juris tantum) như là để thực hiện một sự đảo ngược trách nhiệm
chứng minh. [80]
Lập trường thận trọng này đã được phát hiện và ghi nhận theo ý kiến của học giả có thẩm quyền, [81] và trong một số trường hợp đã được sự chấp thuận đáng kể. [82]
B. Các bản đồ không tương thích nhau
Khi trình bày các khẳng định mâu thuẫn lẫn nhau, sắp xếp các sự kiện cho chỉnh trang đòi hỏi cố gắng lớn. [83] Khá tương tự như vậy, khi các tài liệu bản đồ mâu thuẫn với nhau, chúng sẽ mất đi sự tin cậy. [84] Như ICJ đã nêu trong trường hợp Kasikili / Sedudu:
“dưới ánh sáng của sự không chắc chắn và không thống nhất của tài liệu
bản đồ được đệ trình, Tòa tự thấy mình không thể rút ra kết luận từ
những bằng chứng bản đồ đưa ra trong trường hợp này.” [85]
Các bản đồ với đường 9-chấm vẽ ra một hình ảnh Biển Đông khác biệt với
bằng chứng bản đồ và các tài liệu khác của các nước ven biển trong khu
vực. Sẽ khó khăn để đạt được một sự hiểu biết chính xác ranh giới biển
và chính trị chỉ dựa trên việc đặt các bản đồ kế bên nhau. Ngoài ra, các
điều mà đường chữ U thể hiện cũng không nhất quán. Như đã đề cập ở
trên, đường chữ U trong bản đồ ở TQ trước năm 1953 bình thường gồm có 11
vạch, [86]
trong khi các phiên bản sau này của đường nhiều chấm chỉ gồm 9 đoạn.
Một bản đồ điện tử trực tuyến gần đây của Cục Khảo sát và Bản đồ Nhà
nước TQ ngày 21 tháng 10 năm 2010 lại thêm một đoạn nữa vào phía Bắc
giữa Đài Loan và nhóm Ryukyu, trong đó có đảo Yonaguni là hòn đảo ở cực
tây, tất cả đều thuộc về Nhật Bản. [87] Không có lý do nào được đưa ra cho việc loại bỏ bí ẩn hai vạch trong quá khứ hay việc thêm vào vạch thứ 10 mới gần đây. [88]
C. Ký hiệu bản đồ rời rạc / nhập nhằng
Bản đồ không rõ ràng đã xuất hiện trong các tố tụng qua trọng tài trong
quá khứ. Trong vụ Trọng tài Eritrea / Yemen, Eritrea đã nộp các bản đồ
mô tả một đường chấm chấm hỗ trợ yêu sách của mình. Tòa án đưa ra một
tuyên bố ngắn về phương pháp chứng cứ của bên liên quan:
Trong một số trường hợp Tòa án có thể không đồng ý với các đặc tính của
các bản đồ mà bên đưa ra mong muốn. Hơn nữa, nếu không có chỉ dẫn cụ thể
từ chính bản đồ, Tòa án không muốn gán ý nghĩa cho các đường chấm thay
cho màu sắc hoặc thay cho việc ghi địa danh trên bản đồ. Các kết luận
trên cơ sở này do Eritrea thúc hối liên quan tới một số bản đồ của họ
không được chấp nhận. [89]
Đương nhiên,có sự tương tự của trường hợp này với đường chữ U, sự thiếu
vắng một chú giải (legend), và lời lẽ bí ẩn chứa trong công hàm của TQ
gửi Tổng thư ký LHQ đã soạn sẵn. Sự lúng túng càng lớn hơn bởi vì cách
mô tả của đường 9-chấm sai lệch với các tiêu chuẩn vẽ bản đồ quốc tế
được Tổ chức Thủy văn Quốc tế đề ra đích xác cho mục đích về tính rõ
ràng. [90] Cần nhớ rằng TQ là một thành viên của tổ chức quốc tế này. [91]
D. Ý định không rõ ràng
Như Thẩm phán Oda đã chỉ ra một cách đúng đắn trong ý kiến riêng của ông
trong vụ Kasikili / Sedudu, “một tuyên bố lãnh thổ chỉ có thể được thực
hiện với dấu hiệu rõ ràng về ý định của chính phủ, dấu hiệu đó có thể
được phản ánh trong các bản đồ. Một bản đồ tự nó, nếu không có bằng
chứng hỗ trợ khác thì không thể biện minh cho một tuyên bố chính trị”
(nhấn mạnh thêm). [92]
Trong trường hợp này (in casu) tiêu chí về ý định rõ rệt về phía chính
phủ TQ không được đáp ứng một cách thoả đáng. Sự đa dạng về cách giải
thích đường chữ U do các học giả luật học đưa ra cũng như công hàm mơ hồ
của TQ đề ngày7 tháng 5 năm 2009 là chứng cứ cho kết luận này. Bên cạnh
các cấu trúc câu khó hiểu, các từ ngữ được sử dụng trong công hàm, cụ
thể là “vùng biển có liên quan” và “vùng biển tiếp giáp” là đặc biệt khó
hiểu vì chúng không xuất hiện bất cứ chỗ nào trong UNCLOS. Sự mơ hồ có
vẻ như cố tình làm trầm trọng thêm, vì TQ vẫn chưa thông qua luật tạo
cho đường chữ U bất kỳ hiệu lực trong trật tự luật pháp trong nước. [93]
Ngay cả khi người ta có thể bới ra các ý định đằng sau bản đồ này, ý
nghĩa pháp lý của chúng không nên được đánh giá cao. Trở lại bài viết
nói trên của Thẩm phán Oda:
Một bản đồ được sản xuất bởi một cơ quan chính phủ có liên quan đôi khi
có thể chỉ ra vị thế của chính phủ liên hệ đến lãnh thổ hay chủ quyền
của một khu vực cụ thể hay đảo. Tuy nhiên, một mình sự kiện đó không có
tính quyết định về tư cách pháp lý của khu vực hay đảo đang có vấn đề.
Đường ranh giới trên những bản đồ như vậy có thể được hiểu như là thể
hiện cho yêu sách tối đa của nước có liên quan, nhưng không nhất thiết
biện minh cho yêu sách đó. [94]
E. Thiếu tính trung lập
Khi bản đồ được vẽ lên bởi một chuyên gia khách quan, giá trị chứng minh của nó có xu hướng tăng lên. [95]
Trái lại, các tài liệu bản đồ được sản xuất theo chỉ thị của một trong
các bên tranh chấp sẽ được xét với sự nghi ngờ nhiều hơn, và do đó sự
phụ thuộc vào tài liệu như vậy chỉ là ngoại lệ không phải là quy tắc. [96] Các trọng tài trong vụ Trọng tài kênh Beagle nhận xét như sau:
Trong khi các bản đồ đến từ các nguồn khác hơn những bản đồ của các bên
không thuộc vụ đó được coi là nhất thiết phải chính xác hơn hoặc khách
quan hơn, trước nhất (prima facie) chúng có tình trạng độc lập, điều này
có thể tạo cho chúng giá trị lớn trừ khi chúng chỉ là các bản sao chép
của - hoặc dựa trên bản gốc xuất phát từ - các bản đồ do một trong các
bên vẽ ra, hoặc giả được xuất bản trong một nước có liên quan, hoặc thay
mặt cho, hoặc theo yêu cầu của một Bên, hoặc rõ ràng có động cơ chính
trị. Nhưng chỗ nào mà tư cách độc lập của chúng không để lộ cho việc
nghi ngờ về một hoặc các cơ sở nêu trên, chúng có ý nghĩa tương đối cho
việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ liên hệ trong đó chúng cho thấy sự
tồn tại của một sự hiểu biết chung theo một nghĩa nào đó, như về cách
giải quyết đó là gì, hoặc, chúng mâu thuẫn ở đâu, sự thiếu vắng của bất
kỳ sự hiểu biết chung như vậy. [97]
Việc thiếu tính trung lập là rõ rành rành đối với đường 9 chấm. Như đã
thảo luận trong phần II-A, lịch sử của đường chữ U có thể được truy
ngược về một ủy ban nội bộ do chính phủ Trung Hoa Dân Quốc thành lập để
cập nhật các bản đồ TQ và tái khẳng định vị thế của họ. Một cơ quan
chính phủ được thành lập và phân bổ nhân viên đơn phương như thế khó có
thể được coi là khách quan đối với các nước có liên quan khác trong khu
vực Biển Đông. Không nên quên rằng các nhà vẽ bản đồ có lương tâm vẫn có
thể bị sử dụng cho các mục đích lừa đảo:
Một nhà làm bản đồ … có thể được sử dụng để biểu lộ khẳng định của một
nước cụ thể như nước của chính ông ta về kích cỡ đầy đủ miền lãnh thổ
của nước đó là gì, bất kể tính đúng đắn của khẳng định này và không có
việc doạ dẫm rằng việc vẽ đó mô tả phạm vi của một yêu sách chứ không
phải là vị trí của một ranh giới được chấp nhận. Qua việc sao chép tiếp
theo và việc vẽ lại của các nhà làm bản đồ thiếu phối kiểm không những
các sai sót tiếp tục tồn tại mà sự kiện về việc lặp lại có xu hướng
chuyển cho chúng sự thừa nhận pháp lý qua việc in ra một số lượng lớn
bản đồ thống nhất với lời khai của họ. [98]
F. Không chính xác về kỹ thuật
Trong tiểu luận về giá trị chứng cứ của bản đồ, De Visscher đưa ra các
tiêu chuẩn sau đây: “những bảo đảm về tính chính xác nội tại của bản đồ …
sự chính xác liên quan tới các điểm đang tranh chấp”. [99] Theo Brownlie, "giá trị chứng minh mà một bản đồ có tương ứng với chất lượng kỹ thuật của nó”.[100] Luật về án lệ cũng chỉ ra đòi hỏi độ chính xác kỹ thuật trong bản đồ. [101]
Trong vụ đảo Palmas, trọng tài duy nhất Max Huber đã viết rằng: “điều
kiện đầu tiên đòi hỏi của các bản đồ phục vụ với tư cách là bằng chứng
đối với những điểm pháp lý là độ chính xác địa lý của chúng.” [102]
ICJ phát biểu rằng:
Trọng lượng thực tế được phân cho các bản đồ đem làm bằng chứng phụ
thuộc vào một loạt các cân nhắc. Một số trong các cân nhắc này liên quan
đến độ tin cậy kỹ thuật của các bản đồ. Điều này đã nâng lên đáng kể,
đặc biệt là do những tiến bộ đạt được qua không ảnh và ảnh vệ tinh từ
những năm 1950. Nhưng kết quả chỉ mang tới tính chất trung thực hơn cho
bản đồ và sự ăn khớp ngày càng chính xác giữa bản đồ và không ảnh. Thông
tin xuất phát từ sự can thiệp của con người, chẳng hạn như tên của các
địa điểm và các thể địa lý (địa danh học) và việc miêu tả biên giới và
ranh giới chính trị khác, do đó không khả tín hơn. Tất nhiên, độ tin cậy
của các thông tin địa danh học cũng tăng lên nhở kiểm chứng thực địa,
mặc dù ở mức độ thấp hơn, nhưng theo ý kiến của các nhà vẽ bản đồ, sai
sót vẫn còn phổ biến trong biểu thị các đường biên giới, nhất là khi thể
hiện các địa danh này này ở các khu vực biên giới khó tiếp cận. [103]
Dưới ánh sáng của những quan điểm này, sự ra đời của công nghệ hiện đại
có thể tăng truy đòi của các thẩm phán đối với bằng chứng bản đồ. Một
trường hợp nổi bật về điểm này là ý kiến tư vấn của ICJ 2004 đối với bức
tường của Israel, trong đó họ dựa (một phần) vào một bản đồ điện tử
được đăng trên trang web Bộ Quốc phòng Israel để xác định các tuyến
đường hiện tại và tương lai của các bức tường trong vùng lãnh thổ
Palestine. [104]
Ngược lại, các bản đồ TQ không có vẻ có thể đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ
thuật nghiêm ngặt. Mặc dù đường nhiều chấm của TQ thường đi theo đường
đẳng sâu 200 mét (đường nối các điểm có độ sâu 200m với nhau), cho đến
nay nó chưa bao giờ được phân ranh giới chính xác, do đó thiếu các toạ
độ địa lý chính xác. [105]
Ngoài ra, có vẻ có một số sự mâu thuẫn nhỏ giữa các tài liệu bản đồ
biển của TQ: các điểm cuối của các vạch tạo nên đường chữ U thay đổi
(mức khác biệt chạy từ 1 đến 5nm). [106] Nhưng ngay cả vị trí của chính các vạch đôi khi có sai biệt rõ ràng với những vạch trên bản đồ ở Phụ lục I. [107] Hơn nữa, vì nó liên quan các đường trên biển, ảnh vệ tinh cũng không thật hữu ích.
Một yếu tố bổ sung góp phần vào tính không chính xác của bản đồ TQ là tỉ
lệ của nó nhỏ quá mức. ICJ đã than phiền các bản đồ vẽ với tỉ lệ không
đủ lớn. Một ví dụ điển hình có thể tìm thấy trong Tranh chấp đất, đảo và
biên giới biển:
Honduras đã vẽ một bản đồ thứ hai, năm 1804, cho thấy vị trí của các
giáo xứ của tỉnh San Miguel trong Tổng Giáo Phận Guatemala. Tuy nhiên,
tỉ lệ của bản đồ này không đủ lớn để có thể xác định xem đoạn cuối của
sông Goascoran là đoạn do El Salvador khẳng định, hoặc đoạn do Honduras
khẳng định. [108]
Các vấn đề tương tự cũng đã được trình bày trước tòa trọng tài. Ví dụ,
Uỷ ban ranh giới Eritrea-Ethiopia cho rằng: “hơn nữa, nhiều bằng chứng
về bản đồ theo một tỉ lệ quá nhỏ, hoặc quá thiếu chi tiết đến nỗi nó chỉ
có thể được coi là mơ hồ trong lĩnh vực này.” [109]
Cuối cùng, cần lưu ý rằng các bản đồ TQ không chứa bất kỳ chỉ dấu nào về
mốc quy chiếu (tức là một quy chiếu sử dụng trong trắc địa để đo đạc)
được sử dụng, đó có vẻ là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá độ
chính xác kỹ thuật của bất kỳ ranh giới biển nào. [110]
IV. BẢN ĐỒ KHÔNG BỊ CÁC NƯỚC KHÁC TRONG KHU VỰC PHẢN ĐỐI
A. Tiêu chuẩn áp dụng
Ngay cả khi ta chấp nhận rằng đường 9 chấm là một mô tả sai lầm của hiện
thực thì điều đó không có nghĩa là nó có thể được gạt sang một bên ngay
lập tức. Điều này đã được làm sáng tỏ trong vụ kênh Beagle:
tầm quan trọng của bản đồ có thể không nằm ở chính bản đồ mà trên lý
thuyết nó có thể không chính xác mà ở thái độ biểu lộ - hoặc hành động
thực hiện - đối với bản đồ đó của các bên liên quan hoặc của các đại
diện chính thức của họ. [111]
Các thẩm phán trong vụ Đền Preah Vihear đã rõ rệt hơn, gửi một tín hiệu
cảnh báo rõ ràng về những ảnh hưởng tiềm năng của việc sơ suất trong khi
đối mặt với sự quyết đoán về bản đồ:
Rõ ràng rằng các trường hợp như vậy đòi hỏi một phản ứng nào đó, về phía
nhà chức trách Thái Lan trong một thời hạn hợp lý, nếu họ muốn tỏ sự
không đồng ý với bản đồ hoặc nếu có bất kỳ câu hỏi nghiêm trọng nào phải
nêu ra liên quan đến nó. Họ đã không làm như vậy, hoặc là sau đó hoặc
trong nhiều năm, và do đó phải được xem là đã mặc nhận. Qui tacet
consentire videtur si loqui debuisset ac potuisset. [112] (Ai im lặng thì dường như là đồng ý, nếu anh ta biết nói đáng lẽ anh ta đã phải nói).
Một ví dụ của mối liên kết giữa bản đồ và sự mặc nhận được Ủy ban Ranh
giới Eritrea-Ethiopia nêu lại gần đây: “một bản đồ có thể có chút trọng
lượng pháp lý cho từng cái (per se): nhưng nếu bản đồ là thỏa đáng về
mặt bản đồ học trong các khía cạnh có liên quan, nó có thể, có vai trò
là căn cứ thực tế , có ý nghĩa pháp lý cao, ví dụ như cho hành vi mặc
nhận.”[113]
Tất nhiên, các kiểu cách thực tế của các vụ nêu trên là hoàn toàn khác
biệt với trường hợp mà chúng ta đang phải đối mặt, tao ra tranh cãi về
việc liệu các tiền lệ đó có thể áp dụng được ở đây không. Trong trường
hợp này, chúng ta đang đối phó với một đường biên giới biển có mục đích
xấu, việc hình thành nó, theo lời của ICJ, là “một vấn đề có tầm quan
trọng lớn và việc thỏa thuận không phải là dễ dàng giả định trước”. [114] Hơn nữa, theo quan sát của Strupp:
Yêu sách hình chữ U lạ lùng này là quá bất thường và quá đáng vượt ngoài
thực tế trong các thập niên từ 30 tới 60 đến nỗi không thể hiểu được
theo cách có “sự mặc nhận đối với yêu sách bản đồ” một công nhận (ngầm)
của cộng đồng nước ngoài về những tham vọng “cực kỳ bất thường”, bằng
cách áp dụng quy tắc qui tacet consentire videtur si loqui debuisset ac
potuisset hoặc quy tắc khác, có thể nghiêm ngặt đi đến xem xét. [115]
Strupp cũng nhận xét rằng:
Trong những trường hợp hoàn toàn quá đáng kiểu như “tuyên bố chủ quyền
mặt trăng” của “đường chữ U” ở Biển Đông rõ ràng không tồn tại một cơ sở
hợp lý nào cả cho một độ “siêu nhạy cảm” to lớn về phía các nước phải
đối mặt với các yêu sách bản đồ đối địch về mặt “mặc nhận”. [116]
Tuy nhiên, cần thận trọng khi áp dụng một phương pháp tiếp cận trung
gian. Sau khi xem xét một bộ phận lớn về việc thực hành nhà nước, trong
công trình có ảnh hưởng của ông về quyền sở hữu lịch sử, Blum đi đến kết
luận sau đây:
Các trường hợp phản đối mới đây chống lại “yêu sách bản đồ” dường như
chỉ ra rằng các quốc gia, trên thực tế, “luôn giữ một cái nhìn cảnh giác
đối với các bản đồ do các quốc gia văn minh xuất bản " … Nói chung, có
vẻ nổi lên rằng các nước sẽ bị đổ lỗi cho sự hiểu biết về các hoạt động
lập pháp trong nước của nhau cũng như các hành vi khác được thực hiện
theo thẩm quyền của họ, và lời biện hộ về sự không biết sẽ chỉ được chấp
nhận trong những trường hợp đặc biệt nhất.Do đó những nước mong muốn
bảo toàn quyền của mình được khuyến cáo nên quan tâm theo dõi sâu sát
các hành vi chính thức của các nước khác và đưa ra phản đối - thông qua
các phương tiện hợp pháp được luật quốc tế công nhận – nếu họ cảm thấy
rằng quyền của mình đã bị ảnh hưởng, hoặc có thể bị ảnh hưởng bởi những
hành vi đó. [117]
B. Phản đối / Thiếu sự mặc nhận
Giả sử rằng triển vọng thừa nhận ngầm lồ lộ hiện ra, các nước ven biển
được yêu cầu phải bày tỏ sự không chấp nhận chính sách đường chữ U và ý
đồ cơ bản của TQ. Một số học giả TQ đã cáo buộc rằng buộc cộng đồng quốc
tế đã không lên tiếng về sự bất đồng của mình để ngăn chặn việc củng cố
tham vọng của TQ ở Biển Đông:
Khi tuyên bố đường 9 điểm, cộng đồng quốc tế không lúc nào bày tỏ sự bất
đồng ý kiến. Không nước lân cận nào đã đưa ra một phản đối ngoại giao.
Im lặng khi đối mặt với một tuyên bố công khai có thể nói có nghĩa là
mặc nhận, và có thể khẳng định rằng các đường chấm chấm đã được công
nhận trong nửa thế kỷ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây một số nước
Đông Nam Á, đã tham gia vào tranh chấp chủ quyền Biển Đông, mới đặt ra
câu hỏi về tình trạng pháp lý của đường 9 chấm. [118]
Triệu Quốc Khải (Zhao Guocai) cho rằng:
“Từ lúc tuyên bố đường 9- chấm, cộng đồng quốc tế vào thời điểm đó đã
không đưa ra bất kỳ sự không bằng lòng nào. Các nước liền kề cũng không
đưa ra bất kỳ phản đối ngoại giao nào đối với đường 9-chấm. Những điều
này quy thành một sự mặc nhận.” [119]
Sự mặc nhận quốc tế này rất đáng ngờ. [120]
Lấy Việt Nam như một trường hợp về điều này, chúng ta có thể thấy rằng
hai phát biểu này là không thuyết phục. Các ví dụ bao gồm:
1. Một phản đối đối với các đòi hỏi của TQ qua việc tuyên bố rằng rằng
họ sẽ “không công nhận bất kỳ cái gọi là ‘lợi ích lịch sử’ nào, điều đó
là không phù hợp với luật pháp quốc tế và vi phạm chủ quyền và quyền chủ
quyền của Việt Nam và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong các khu vực
biển và thềm lục địa của họ trong Biển Đông”.[121]
2. Một tuyên bố đáp trả công hàm của TQ năm 2009:
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Việt
Nam có chủ quyền không tranh cãi đối với các quần đảo này. Do đó, yêu
sách của TQ đối với các đảo và vùng biển lân cận ở Biển Đông như thể
hiện trong bản đồ kèm Công hàm CLM/17 / 2009 và CLM/18/2009 là không có
cơ sở pháp lý, lịch sử, thực tế, do đó là không có giá trị và vô hiệu. [122]
3. Một yêu cầu loại bỏ dữ liệu khỏi dịch vụ bản đồ trực tuyến của TQ mô tả đường chữ U (nêu trên) trong hai dịp. [123]
4. Các phản kháng gần đây chống lại sự can thiệp của TQ với tàu thuyền
Việt Nam, trong đó tính hợp pháp của đường 9 chấm rõ ràng bị bác bỏ. [124]
5. Nhân dịp buổi họp cuối cùng của các nước thành viên UNCLOS, Việt Nam
đã nhắc lại phản đối của mình đối với đường 9 chấm theo mục 14 của
Chương trình nghị sự. [125]
Cách ứng xử như vậy phải tuân thủ các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế cần
thiết để làm các hành vi phản đối thấm đầy hiệu lực pháp lí khiến cho
đường chữ U không thể được sử dụng để chống lại nước phản đối. Tuy
nhiên, có vẻ như không khả thi khi áp dụng các tiêu chí này cho các phản
kháng trước đây đối với đường chữ U trong điều kiện vị thế mơ hồ của TQ
đối với bản đồ và những gì nó thực sự muốn nói. Xét cho cùng, chỉ có
thể hành động bằng cách phản đối một khi nước đối lập đã thực hiện một
tuyên bố chính thức và dễ hiểu. Ý tưởng này được phản ánh trong khái
niệm về “tai tiếng”của hành động hoặc sự kiện đang có vấn đề. [126]
Chúng tôi đã bàn bạc chi tiết các đặc điểm bí ẩn của đường 9 chấm và
những ảnh hưởng về ý định không rõ ràng về phía TQ. Vì vậy, chỉ có thể
phản đối đối với những khẳng định thấy được và dễ hiểu về đường chữ U
trong các trường hợp hiếm hoi mà chúng xảy ra (ví dụ, công hàm TQ gửi
cho Tổng Thư ký LHQ năm 2009). Theo thời gian, các tiêu chí theo sau dựa
trên các tiêu chí trước trước đây. Theo lập luận, nếu tính rõ ràng của
dòng-9-chấm đã được xác lập thì bản chất của sự mặc nhận như thế có xu
hướng được chấp nhận chỉ sau một thời gian dài thụ động.[127]
Ví dụ dễ thấy là các vụ tranh chấp về Đánh bắt cá và Quyền qua lại trên
Lãnh thổ Ấn Độ trong đó ICJ suy ra sự mặc nhận từ trên 60 và 125 năm im
lặng, tương ứng. [128]
Đòi hỏi về ý định rõ ràng cũng đã được hoàn thành trong các tuyên bố
của Việt Nam rõ ràng nhằm mục đích ngăn chặn cái đòi hỏi trở thành quyền
lợi pháp lý mới của TQ. Ngoài ra, tiêu chí rằng phản đối phải nhất quán
và không bị gián đoạn có thể nói là đã được tuân thủ, như minh họa của
nội dung của các ghi chú nói về phản đối. [129]
KẾT LUẬN
Trong đóng góp này, chúng tôi đã cố gắng để khám phá một số những điều
không chắc chắn về pháp lý che đậy các vạch trên bản đồ Biển Đông của
TQ. Phân tích của chúng tôi đã đưa đến kết luận rằng đường chữ U, cho dù
được giải thích như là một thể hiện lãnh thổ hoặc biển, rõ ràng thiếu
tính chính xác, và do đó đặt ra nhiều vấn đề nếu vẫn giữ như là một phần
của chính sách chính thức của TQ cũng như của Đài Loan. Nếu bộ phận
đáng kể luật các án lệ là điều phải đi theo, bản đồ thể hiện với đường 9
chấm sẽ không có giá trị như là tài liệu chứng cứ trong một vụ xử giả
thuyết. Trong khi có thể thấy rằng một số người nhìn ra một xu hướng mới
nổi lên tạo ảnh hưởng cho sự dễ dãi đối với bản đồ, [130]
chúng tôi sẽ cho rằng các luận điệu như vậy là khá vội vã. Các bản đồ
không phải là các bản đồ kèm theo các hiệp ước quốc tế sẽ được tiếp nhận
một cách thận trọng dễ hiểu và sẽ được đánh giá theo chức năng của
chúng vẫn là điều không thay đổi.
Nhưng có một vấn đề cơ bản hơn ở đây. Duy trì một tuyên bố đơn phương
trong một khoảng thời gian kéo dài mà không xem xét tới quyền lợi của
các bên quan tâm khác là đồng nghĩa với việc áp đặt một việc đã rồi
(fait accompli). Điều này sẽ vuột mất đi khi đối mặt với luật quốc tế,
luật này ngăn không cho các nước mạnh yêu sách “giành phần trọn” (lion’s
share) gây thiệt hại cho các nước láng giềng yếu hơn. [131] Việc bám chặt vào đường 9 chấm cũng là lỡ nhịp với chế độ chính phủ hiện tại, [132] bao gồm các hội thảo[133] và (đề xuất) hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và sự đa dạng sinh học. [134]
Một giải pháp thực dụng khá thịnh hành trong những năm qua là tìm cách
đạt được sự phát triển chung các tài nguyên. Điều này dính dáng tới việc
gác các tranh chấp lãnh thổ và biển sang một bên và ký kết các thỏa
thuận tạm thời “mà không làm ảnh hưởng” đến kết quả phân định cuối cùng.
[135]
May mắn thay, TQ, Đài Bắc, và các diễn viên khác trong khu vực đã sử
dụng các cơ chế đa phương này và tiếp tục làm như vậy một cách hiệu quả.
Chúng tôi hy vọng rằng các nước có tranh chấp từ bỏ các khẳng định cực
kỳ quyết đoán về mặt bản đồ và lo tập trung năng lượng của họ vào các
kết quả các bên cùng có lợi liên quan đến Biển Đông trên cơ sở UNCLOS.
Người dịch: Phan Văn Song
Hiệu đính: Lê Trung Tĩnh
--------------
* Research Professor,
President of the Department of International and European Law and
Director of the Centre for International Law, Vrije Universiteit
Brussel; Member of the Permanent Court of Arbitration. The substance of
this article was prepared for the Second International Workshop
organized by the Diplomatic Academy of Vietnam and the Vietnam Lawyers
Association, entitled ‘‘The South China Sea: Cooperation for Regional
Security and Development’’, 10–12 November 2010, Ho Chi Minh, Vietnam.
This article is a revised version of the paper—‘‘Dotted Lines in the
South China Sea: Fishing for (Legal) Clarity’’—presented at the
Workshop.
**Doctoral Fellow, Research Foundation—Flanders (FWO).
Member of the Department of International and European Law and the
Centre for International Law, Vrije Universiteit Brussel.
[1]
LI Jinming and LI Dexia, ‘‘The Dotted Line on the Chinese Map of the
South China Sea: A Note’’ (2003) 34 Ocean Development and International
Law 287 at 289. Trong một công hàm gửi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc,
Trung Quốc tuyên bố rằng “kể từ [sic] năm 1930, chính phủ Trung Quốc đã
đưa ra công khai nhiều lần [sic] phạm vi địa lý của quần đảo Nam Sa của
Trung Quốc và tên các thành phần của nó”, nhưng họ không đề cập đến các
hoạt động bản đồ. Vì vậy, trong khi điều này có thể có nghĩa là Trung
Quốc chính thức chuẩn nhận các hoạt động đặt tên của Ủy ban, không thể
suy ra các bản đồ cũng được chuẩn nhận. Xem People’s Republic of China,
‘‘Letter to the Secretary-General of the United Nations—CML/8/2011’’ (14
April 2011), online: UN http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2011_re_phl_e.pdf.
[38] See Hasjim DJALAL, ‘‘South China Sea Island Disputes’’ (2000) The Raffles Bulletin of Zoology
[76]
Xem các ví dụ về các vụ liên quan một phần đến các tranh chấp trên
biển, supra note 58 citing a passage from Frontier Dispute (Burkina
Faso/Republic of Mali) (which is a territorial case).
[90]
Các vạch được TQ sử dụng để vẽ đường chữ U không phù hợp với các quy
định kỹ thuật biểu đồ do Tổ chức Thủy văn Quốc tế đề ra dùng để chỉ ranh
giới biển quốc tế, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa, khu thủy sản, vv. Xem International Hydrographic
Organization, Regulations of the IHO for International (INT) Charts and
Chart Specifications of the IHO, 4th ed. (Monaco: International
Hydrographic Bureau, 2010) at B-440, C-407 (International Boundaries and
National Limits), online: IHO http://www.iho-ohi.net/iho_pubs/standard/S-4/S4_v4.000_Sep10.pdf
. Kiểu lập luận này đã được Ukraina đưa ra chống lại Romania trong vụ ở
Biển Đen (Romania v. Ukraine), Counter-memorial of Ukraine, 19 May 2006
at 123–5.
Nguồn :
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&News=5382&CategoryID=42
****************************************************************
Thứ Tư, 18/07/2012, 07:57 (GMT+7)
Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của VN trên biển Đông
TT - Khi Luật biển VN được Quốc hội thông qua, VN đang ở
tư thế thuận lợi hơn trong việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình
trên biển Đông. Đây là một bước tiến lớn về pháp lý.
|
Tàu cá Trung Quốc đang ở gần đảo Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của VN - Ảnh: THX |
Luật biển VN tuân thủ các điều ước quốc tế mà VN là
thành viên và được xây dựng phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật
biển (UNCLOS). Đây là một bước tiến lớn về pháp lý, đồng thời thể hiện
tinh thần tôn trọng cộng đồng quốc tế và luật pháp quốc tế của VN.
Trước tình hình các tranh chấp trên biển Đông ngày một
phức tạp do các động thái ngày một ngang ngược của Trung Quốc, VN càng
cần tỏ ra bình tĩnh nhưng cương quyết, sử dụng những biện pháp hòa bình
theo đúng Luật biển và luật pháp quốc tế, tránh gây xung đột và căng
thẳng không cần thiết. Khi Trung Quốc dùng sức mạnh vũ lực, hung bạo và
trắng trợn bất chấp pháp lý thì đối trọng lại, sức mạnh của VN chính là
“sức mạnh mềm”, sức mạnh của lẽ phải, dựa trên pháp luật. VN cần kiên
quyết và kiên trì với các biện pháp này đến cùng.
Một mặt, Nhà nước VN cần liên tục khẳng định chủ quyền
và phản đối các hành động xâm phạm của Trung Quốc bằng các tuyên bố
chính thức. Mặt khác, Nhà nước VN cần tích cực tìm cách giải quyết tranh
chấp bằng các biện pháp hòa bình theo đúng tinh thần và luật pháp quốc
tế như đàm phán, thương lượng, đưa ra trọng tài hay tòa án quốc tế.
Tuy nhiên, khó có thể đàm phán và thương lượng một cách
công bằng khi yêu sách và tham vọng của Trung Quốc quá vô lý và ngang
ngược. Trung Quốc lại cũng không bao giờ chịu chấp nhận thẩm quyền của
bất cứ tòa án hay trọng tài quốc tế nào cho các tranh chấp trên biển
Đông. Do vậy, điều cấp thiết là VN cùng các bên liên quan tìm cách ràng
buộc Trung Quốc bằng một bộ quy tắc ứng xử (COC) có giá trị pháp lý.
Về phần mình, VN cần củng cố các cơ quan chấp pháp như
cảnh sát biển, lực lượng hải quan, biên phòng, kiểm ngư... để có thể nắm
rõ và chủ động xử lý các vi phạm trong vùng biển chủ quyền của mình,
đồng thời có một hệ thống quản lý hoàn thiện trên biển. Ngoài ra, cần
phổ biến và giáo dục Luật biển, UNCLOS và các kiến thức về luật pháp cho
ngư dân, các lực lượng cảnh sát, vũ trang và các giới chấp pháp. Khi
nắm vững luật pháp, họ sẽ tự tin hơn khi đối phó với kẻ xâm phạm biển.
Tuy nhiên, quan trọng nhất là VN cần ý thức được ngọn
cờ chính nghĩa cùng tư thế chính đáng của mình trước thái độ bất chấp
luật pháp quốc tế của Trung Quốc để xử lý các xâm phạm ngày một gia tăng
của Trung Quốc một cách chủ động, bình tĩnh nhưng kiên quyết. Trong các
vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của VN, chúng ta hoàn toàn
có thể xử lý theo đúng các quy định của Luật biển và luật quốc tế.
Điều 73 khoản 1 của UNCLOS ghi rõ: “Trong việc thực
hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý
các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven
biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm
tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và
quy định mà mình đã ban hành theo đúng công ước”. Đối với các hành động
xâm phạm mang tính chất kinh tế, dân sự và bán dân sự của Trung Quốc, VN
có thể sử dụng các biện pháp pháp lý như truy đuổi, yêu cầu ngừng hành
vi, phạt hành chính, khám xét, bắt giữ, lập biên bản, dẫn độ và khởi tố
theo các điều khoản của Luật biển và luật quốc tế. Các biện pháp quân sự
chỉ được sử dụng trong trường hợp phòng vệ chính đáng khi bị tấn công
bằng vũ lực.
NGUYỄN THÁI LINH
(thạc sĩ công pháp quốc tế, Quỹ nghiên cứu biển Đông, sống tại Ba Lan)
Nguồn :
http://tuoitre.vn/The-gioi/502471/Bao-ve-quyen-loi-hop-phap-cua-VN-tren-bien-Dong.html
-------------------------------------------------------------------------------------------
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Albert Einstein .