Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Thứ Năm, 30 tháng 1, 2014

MỪNG XUÂN MỚI .


MỪNG XUÂN MỚI .







Xem Lịch Âm


Tháng Năm




*/.~ Xuân mng .


Tóc tơ vương vấn ,
hơi thở nồng nàn .
Đường quê phố thị , 
dịu dàng nắng xuân.
Mai đào khoe sắc ,
rạng rỡ muôn phần 
...
Xuân về đây lấm bụi trần tinh khôi .
Mộng xưa vây kín , 
Mơ hoa lòng người 
Em vừa nghe thấy 

Xuân về muôn nơi .

Nụ xinh mới nở , trong nắng chan hòa
Ai đưa Xuân đến bến bờ 
Để ta trao lại bài thơ không lời .
Một khúc hoan ca gieo rắc cho đời ,
Mùa sương bạc tóc theo thời gian trôi .

" Biến thể lục bát :

Tóc tơ vương vấn nồng nàn ,
Đường quê phố thị dịu dàng nắng xuân 
Mai đào khoe sắc muôn phần ,
Xuân về đây lấm bụi trần tinh khôi .
Mộng xưa vây kín lòng người ,
Em vừa nghe thấy xuân về muôn nơi .
... Nụ xinh mới nở , trong nắng chan hòa .
Ai đưa xuân đến bến bờ 
Để ta trao lại bài thơ không lời 
Hoan ca gieo rắc cho đời 
Mùa sương bạc tóc theo thời gian trôi .








* Buổi sáng lạnh hơi sương 

Trần hồng Cơ 

12/01/2014 .



NHỮNG DẤU ẤN LỊCH SỬ .

1. Triệu Quang Phục đánh thắng quân xâm lược nhà Lương (năm Canh Ngọ, 550) .

2. Vương triều Lý đổi tên nước là Đại Việt (năm Giáp Ngọ, 1054) .

3. Đại thắng Tốt Động - Chúc Động - của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn trong kháng chiến chống quân Minh (năm Bính Ngọ, 1426) .

4. Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ thống nhất đất nước  (năm Bính Ngọ, 1786) .




THÀNH NGỮ VỀ LOÀI NGỰA .

Anh: Đừng đặt chiếc xe trước con ngựa

Armenia: Hãy chọn bạn bằng đôi mắt của người già cả và chọn ngựa bằng đôi mắt của người trẻ

Ba Lan: Hãy đánh con ngựa khi nó được gắn yên

Berber: Người đàn bà góa nói: “Tôi không muốn cột con lừa vào chỗ con ngựa”

Bulgaria: Ngựa chết là ngựa không đá

Czech: Trước khi ca ngợi một con ngựa hãy chờ qua một tháng; trước khi ca ngợi một người đàn bà hãy chờ qua một năm

Đan Mạch: Con ngựa mà bạn thương yêu thì kéo xe hơn hẳn bốn con bò

Đức: Kẻ muốn bán một con ngựa mù thì luôn ca ngợi chân cẳng của nó

Haiti: Con lừa đổ mồ hôi đến nỗi con ngựa được đeo dây ren (Kẻ làm người hưởng)

Hà Lan: Thà được cưỡi con ngựa hay trong một năm còn hơn suốt đời phải cưỡi con lừa

Hàn Quốc: nếu người bộ hành trông thấy con ngựa, ông ta sẽ mong ước được cưỡi nó

Hoa Kỳ: Con la dẫu có bị cắt tai cũng chẳng có thể là con ngựa

Hy Lạp: Không gì liều lĩnh bằng con ngựa mù

Ireland: Tuổi trẻ thay da đổi thịt. Con ngựa không giữ mãi tốc độ của nó

Mexico: Biết cưỡi ngựa không thôi thì chưa đủ - ta cần phải biết cách té ngã nữa

Mông Cổ: Cưỡi ngựa què không đi được xa, lời kẻ khó không đến được tai chúa

Nga: Hãy cẩn thận khi đứng phía trước con dê, cẩn thận khi đứng phía sau con ngựa và với con người thì đứng bất cứ phía nào cũng phải dè chừng

Nhật Bản: Biết ngựa qua bước đi, biết người qua giao thiệp

Nauru: Nếu con ngựa là tài sản chung thì anh cưỡi nó. Nếu con ngựa là tư hữu thì nó cưỡi anh

Niger: Với một con ngựa rẻ tiền thì anh đừng trông mong tốc độ; tốt hơn là bạn nên hài lòng với tiếng hí của nó

Panama: Phụ nữ lớn tuổi lấy chồng trẻ, như con ngựa già mặc váy hoa

Pháp: Con mắt của bậc thầy vỗ béo con ngựa

Romania: Ai chưa cưỡi ngựa thì chưa từng bị té ngã

Serbia: Nếu không giữ được bờm ngựa thì đừng tìm cách túm đuôi nó

Tây Ban Nha: Với một ông lớn tuổi thì một phụ nữ trẻ là con ngựa mà ông ta cưỡi về địa ngục

Thổ Nhĩ Kỳ: Hãy chăm sóc con ngựa như một người bạn và cưỡi nó như cưỡi kẻ thù

Trung Quốc: Một con ngựa có hai chủ thường là con ngựa gầy ốm, con tàu có hai thuyền trưởng sẽ phải chìm .

Việt Nam: Mồm chó vó ngựa .
Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ .
Thời giờ ngựa chạy tên bay .

Zulu: Ngựa đến sớm thì uống nước trong


Ngựa qua các thời kỳ



 
Một kỵ sĩ trên lưng ngựa
Ngựa là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến nhất là chiến tranh thời cổ. Ngựa được sử dụng rộng rãi cho các chiến binh, kỵ binh trong các trận chiến tay đôi hay các trận đánh tập kích, đột phá cũng như sử dụng để do thám, thông tin liên lạc, vận chuyển…. Ngựa gắn với lịch sử chiến tranh một cách lâu dài của loài người, gắn liền với tên tuổi của các binh chủ kỵ binh, kỵ xạ, thám mã… và hình ảnh con ngựa còn gắn liền với các tướng lĩnh nhất là các võ tướng trên chiến địa, gắn liền với hình ảnh của những chàng dũng sĩ trong chiến đấu, săn bắn… Ngựa trong chiến tranh được gọi là Ngựa chiến hay chiến mã.
Loài ngựa sống trong thời đại đồ đá thì ngựa chỉ là con mồi để săn bắn làm thức ăn. Sau khi được loài người thuần dưỡng, với những ưu thế đặc dụng của mình, ngựa phục vụ rất nhiều cho on người không chỉ là sức kéo chủ lực của người lao động (chủ yếu là ở châu Âu) mà còn là vật cưỡi của những tướng lĩnh, quan viên, những chàng kị sĩ, Hiệp sĩ, công tử, những sĩ tử đỗ đạt cao được vinh quy bái tổ (ở Phương Đông)... Đặc biệt, ngựa đóng một vai trò rất lớn trong lịch sử chiến tranh.

 
Một kỵ xạ
Con người thuần hóa ngựa sớm nhất cách đây 5.500 năm ở Kazakhstan và sự phổ biến của ngựa trên khắp lục địa Á - Âu đã sớm dẫn đến việc sử dụng chúng trong chiến tranh quy mô lớn. vào thời đại đồ đồng (khoảng 3000 năm trước Công nguyên), nhiều bộ lạc châu Á rồi sau đó là Bắc Âu và Tây Âu đã bắt đầu thuần hoá ngựa hoang. Họ buộc chúng vào xe và cưỡi trên lưng chúng. Những ai có ngựa nuôi thường đi được xa hơn, buôn bán với các bộ lạc khác thuận lợi hơn, săn bắn được xa hơn và bắt đầu tiến hành chiến tranh để cướp đất đai.
Người Ai Cập và Trung Quốc cổ đại đã sử dụng xe ngựa kéo như một dạng chiến đấu cơ ổn định, trước khi sáng chế ra một yên cương và bàn đạp giúp tăng hiệu quả chiến đấu của chiến mã và giữa cho người cưỡi giữ thăng bằng, ổn định và không bị ngã ngựa. Các hiệp sĩ mặc áo giáp trên lưng ngựa với một thanh kiếm hoặc giáo, thương, đại đao hoặc các vũ khí đánh xa khác có thể gây nguy hiểm và chống lại hầu hết các loại lính chạy bộ.
Việc sử dụng chiến thuật ổn định từ ngựa chiến được đóng yên cương và bàn đạp chân đã cho phép người Mông Cổ có thể tấn công và bắn tên hiệu quả từ trên lưng ngựa (nhất là các kỵ xạ), đồng thời đem đến cho họ sự linh động để chinh phục phần lớn các vùng đất đã biết đến trên thế giới. Sự xuất hiện của ngựa trên các chiến trường thường báo hiệu sự khởi đầu của kết thúc đối với các nền văn minh thiếu phương tiện hỗ trợ quân lính tương tự. Vai trò chính của ngựa trên chiến trường vẫn không giảm sút cho tới kỷ nguyên chiến tranh hiện đại, khi xe tăng và súng máy nhập cuộc.
Trong lịch sử có nhiều con ngựa vang danh lịch sử như con ngựa Bucephalas của Alexandros Đại đế, ngựa Xích Thố (hay Xích Thố mã) của Lã Bố và Quan Vân Trường, ngựa Đích Lư của Lưu Bị, con ngựa trắng của Julius Caesar con ngựa ô (Ô Truy) của Hạng Vũ, của Nguyễn Hữu Cầu, lãnh tụ nông dân khởi nghĩa chống chúa Trịnh, ngoài ra có thể kể đến con ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vươngtrong truyền thuyết Việt Nam và con ngựa thành Troia của người Hy Lạp.
1. Ngựa trong trong thời cổ đại
Ở vùng Trung Cận Đông
 
Một chiến xạ của Ai Cập
Vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất, cả Trung Cận Đông lẫn Hy Lạp, Ai CẬp đều chưa biết đến kỵ binh. Người Assyria đi đầu trong các dân tộc dùng kỵ mã vào chiến tranh. Hình ảnh của những cỗ chiến xa đầu tiên do ngựa kéo được tìm thấy trên các bức chạm Sumer cổ xưa (3000 năm trước Công nguyên). Chúng có bốn bánh được gắn vào các trục không quay. Loại xe kéo của người Ai Cập và Assyrie đã được sử dụng rộng khắp châu Á và các nơi khác vào khoảng 1600 năm trước Công nguyên. Chúng là loại xe một trục và trục được gắn ở phía, do đó ngựa cùng với càng xe nhận về phần mình thêm sức nặng của xe. Trên xe có xà ích với một hoặc hai xạ thủ bắn cung. Ngoài ra còn có những lưỡi dao trông giống như lưỡi hái, nhọn và sắc là một thứ vũ khi nguy hiểm được gắn vào moay – ơ của xe. Người ta thường đưa xa chạy thành một dãy để xông vào phản công kẻ thù, phá tan binh địch. Có thể nói, Ở phương Đông khoảng 2000 năm trước công nguyên, ngựa được dùng để kéo chiến xa và vào khoảng 1000 năm trước công nguyên ngựa đã được dùng làm ngựa chiến và kỵ binh là đơn vị chủ yếu của quân đội.
Ở Hy Lạp Cổ đại
Sau đó đến người Hy Lạp sử dụng ngựa trong chiến trận. Lịch sử Hy Lạp có chuyện ngựa gỗ thành Troia. Khi quân Hy Lạp đến bao vây thành Troie, dân thành này chống cự hăng hái đến nỗi quân Hy Lạp không thể nào vô thành được. Theo mưu mẹo của Odysseuschế ra một con ngựa gỗ rất cao lớn, bên trong rỗng ruột để quân linh chui vào nấp, sau đó giả vờ bỏ con ngựa lại chiến trường rồi ra lệnh tất cả thuyền bè rút ra khơi. Dân thành Troia thấy quân Hy Lạp rút lui, vui mừng kéo nhau ra khỏi thành hì hục đưa con ngựa gỗ vào bên trong thành như là một chiến lợi phẩm quý giá thu được từ Hy Lạp. Nửa đêm hôm nấy, quân mai phục từ bụng con ngựa chui ra chém giết lung tung, mở cửa thành cho quân Hy Lạp tràn vào. Thành Troia thất thủ, vua Priam bị giết, câu chuyện ngựa gỗ phá thành được chép lại như một thiên anh hùng ca trong các tiểu thuyết của nhà thi hào Hómēros.
Ở giai đoạn phát triển của Vương quốc Macedonia, người Hy Lạp-Macedonia đã sử dụng khá rộng rãi ngựa trong chiến trận đặc biệt là việc sử dụng kỵ binh dần ưu thế so với chiến xa vì những địa thế gập ghềnh hiểm trở thì kỵ sỹ tỏ ra có hợi thế hơn là các cỗ xe chiến đâu do có thể xoay trở nhanh và cơ động hơn do đó, xe do ngựa kéo đã tục xuống hàng thứ yếu. Trong khi vận dụng các đội kỵ mã, Macedonia đã đạt được những thành công rất lớn đến vĩ đại, trong việc áp dụng kỵ binh vào chiến trận. Cụ thể là trong trậm Gaugamela đẫm máu (331 trước Công Nguyên), lực lượng của đến quốc Ba Tư chiếm ưu thế so với quân Macedonia. Quân Ba Tư có voi chiến, hàng ngàn cỗ xe chiến, rất nhiều kỵ mã và bộ binh. Dưới sự lãnh đạo và chỉ huy kiêm vị vua trẻ xứ Macedonia, Alexandros Đại đế đã tung 7.000 kỵ mã và 40.000 bộ binh vào trận. Ông này bố trí lực lượng có thể tấn công vào đại binh của vua Ba Tư Darius IIIvốn chậm chạp và cơ động kém, khiến cho quân Ba Tư hoảng loạn, xe nọ đè lên xe kia, nghiến luôn cả bộ binh. Còn các đạo quân của Macedonia thì thừa thắng tiêu diệt được nhiều kẻ thù. Tạo nên bước ngoặt lớn trong trận chiến này.
Có thể nói, ở giai đoạn này, con ngựa nổi danh thế giới là con Bucephalas của vua Alexandros đại đế. Chuyện kể rằng, một người lái buôn Ba Tư dắt con hắc mã đến bán cho vua Philippos II của Macedonia nhưng tất cả các tay kỵ mã tài giỏi nhất đều không thể nào điều khiểu nổi con ngựa bất kham này. Hoàng tử Alexandros lúc đó hãy còn là cậu bé, đi chậm rãi đến bên con ngựa, dịu dàng đưa tay vỗ nhẹ vào cổ nó và khẽ lái con thần mã hướng về phía Mặt trời để không còn sợ bóng của nó và cuối cùng đã thuần hóa được con vật dữ tợn. Sau đó vị vua trẻ và con chiến mã đã cùng nhau tung hoành chiến địa, chinh phục cả quốc Ba Tư rộng lớn và dựng lên một đế quốc mới bao la ở Châu Á. Sứ giả Plutarchus đã chứng kiến sự kiện trên cũng kể lại rằng, khi con Bucephalas qua đời tại Ấn Độ, Alexandris buồn bã trước cái chết của người bạn thân yêu đã cho lập thành phố Bucephalia để tưởng nhớ nó. Nòi giống của nó được tồn tại mãi đến ngàn năm sau tại các xứ châu Á. Nhà thám hiểm Marco Polo kể rằng, vua Badasan thấy cậu mình có một chuồng ngựa thuộc dòng Bucephalas, xin ông này một con nhưng không được liên ám sát ông cậu để cướp ngựa. Nhưng bà mợ đã sai người di giết hết cả bầy ngựa quý đó để trả thù. Vụ này xảy ra vào năm 1280, và từ đó dòng Bucephalas tuyệt diệt.
Thời La Mã Cổ đại
Thời La Mã Cổ Đại, các loại ngựa chiến chỉ để dùng vào công tác thông tin, liên lạc là chính. Lực lượng chủ chốt của đế quốc La Mã là vô số bộ binh được huấn luyện rất tốt được biên chế thành các Bách nhân đội. Còn để tham chiến trong các trận đánh quy mô thì thuê mướn các đội kỵ binh người tộc German (kỵ binh sông Rhin). Người La Mã thường sử dụng các đội kỵ binh người Bắc Phi đặc biệt là kỵ binh Numidia. Họ chiến đấu trên lưng ngựa loại thấp bé những rất lanh lợi và dai sức. Đây là đạo kỵ bịnh không mặc áo giáp và vũ trang rất tồi nhưng thường xuất hiện đột kích bất ngờ rồi rút lui nhanh, kiến cho đối phương lúng túng và làm hoảng loại đội hình.
Trong thời La Mã cổ đại, ngoài con ngựa trắng của Caesar thì con ngựa yêu quý Incitatus của Hoàng đế Caligula cũng là một con ngựa nổi tiếng. Người ta nói rằng, Caligula đã cho nó một cái chuồng tuyệt hảo được trang hoàng bằng đá cẩm thạch và ngà voi và một chiếc vòng cổ đẹp được phủ đầy ngọc quý. Có nhiều câu chuyện truyền miệng về Incitatus, có nhẽ là bắt nguồn từ những lời nói nước đôi nực cười của Caligula. Theo nhà sử học Cassius Dio, vị nguyên thủ này đã hứa sẽ phong cho Incitatus làm quan Tổng tài, và Suetonius đã kể lại những tin đồn về kế hoạch ấy.
Ở Trung Quốc
Ở Trung Quốc, khoảng 2.000 năm trước Công nguyên, ngựa được dùng để kéo chiến xã và khoảng 1.000 năm sau đó, con ngựa được dùng làm ngựa chiến và kỵ binh là đơn vị chủ lực trong quân đội của các triều đại phong kiến. Ngựa tham dự chiến trận suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc. Ở Trung Quốc cũng như các nước phương Đông, hình ảnh “da ngựa bọc thây” xuất phát từ câu nói của Phục Ba Tướng quân Mã Viện đã nói lên hình ảnh bi hùng ở nơi chiến địa, người và ngựa đã thường vào sinh ra tử. Nhiều con tuấn mã đã cùng với chủ tướng lập nên nhiều chiến công hiển hách, lưu danh trong sử sách.
Ở Việt Nam
Lịch sử Việt Nam cũng nói đến con ngựa sắt thần kỳ của Phù Đổng Thiên Vương con ngựa này được bọc sắt, cao lớn có khẳ năng phi nhanh, khạc lửa và có thể bay lên trời. Theo huyền sử thì vào đời Hùng Vương thứ sáu, có quân đội nhà Ân tràn vào xâm lược nước Văn Lang, gây nhiều tội ác. Hùng Vương rất lo và cho sứ giả đi tìm khắp nơi để tìm người tài ra cứu nước. ở Kẻ Dỏng, thuộc bộ Vũ Ninh có cậu Gióng đã lên ba tuổi mà không biết nói, biết cưới. Nghe sứ giả của nhà vua đi kén người ra giúp nước, thì cậu nói được và mời vị sứ giả đến và bảo: "Ngài về tâu với đức vua đúc cho con ngựa sắc, roi sắt, áo giáp sắt và chiếc nón sắt mang đến cho ta để ta đi đánh giặc Ân". Sau cái hôm đó, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn uống la liệt. Ngựa sắt, nón sắt và giáp sắt, đã rèn xong. Guóng nhảy lên lưng ngựa, Ngựa hí một tiếng dài, thét ra lửa, lao vút ra trận. Phá xong quân Ân, Gióng phi ngựa đến chân núi Sóc Sơn, ghìm cương, cởi giáp và nón treo lên một cành cây, sau đó cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời. Hùng Vương nhớ ơn Dòng bèn cho lập đền thờ ở Kẻ Dỏng và phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương.
2. Ngựa trong thời Trung Cổ
* Tại Ả rập Hồi giáo 
 
Đội kỵ binh của quân Ả rập trong một trận đánh
Người Ả Rập ở vào thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên dã quyết định chinh phục cả thế giới bằng những đội kỵ mã tài ba. Với những con ngựa chiến thuộc giống Ả rập, họ có thể phi qua sa mạc mà có thể không phải quá chú trọng vào việc nghỉ ngơi, ăn uống và con ngựa tốt đối với người Ả Rập là một tài sản quý giá. Giống ngựa Ả Rập ra đời vào khoảng thế kỷ 6. Trong khi các hiệp sĩ châu Âu rất ưa chiến đấu trên lưng ngựa đực, còn các kỵ binh Ả Rập ngược lại, rất thích ngựa cái vì ngựa cái phi êm hơn, không hay đòi ăn, dễ phục kích kẻ địch vì chúng không hay hí hoặc tự tiện hí vang. Ngựa này còn dùng trong thông tin liên lạc, phi nước kiệu là kiểu vận chuyển rất nhanh của ngựa. Kỷ lục chạy nhanh nhất của ngựa ở cự ly 150m là 66 km/h. Giống ngựa Ả Rập có thể chạy liên tục 250 km suốt ngày đêm trong những điều kiện khó khăn. Do đó, từ lâu nhiều nước trên thế giới người ta dùng ngựa trạm để đưa thư, công văn và thông tin liên lạc. Từ kế kỷ thứ 8 cho đến thế kỷ thứ 11, người Moor ở Bắc Phi đã dùng kỵ binh chiếm chọn cả vùng này và đe doạ đến nước Tây Ban Nha (đã tiến chiếm gần ½ bán đảo Tây Bồ). Dòng máu của giống ngựa Bắc Phi hoà cùng dòng máu ngựa địa phương đã cho ra đời giống ngựa Andalou nổi tiếng sau này và phát triển cả ở châu Âu.
Thời Châu Âu Trung cổ
Vào thời Trung Cổ ở châu Âu các hiệp sĩ phương tây thường dùng các giống ngựa to con và bình tĩnh để chở cả người và trọng lượng áo giáp cồng kềnh (và đặc biệt chỉ sử dụng ngựa đực). Đến lúc truy đuổi kẻ thù, ngựa phải tỏ ra nhanh nhẹn và dai sức khi phi nước đại. Con ngựa chiến nổi tiếng có thể kể đến trong thời kỳ này là con Bavieca hay Babieca của El Cid đã cùng vị hiệp sỹ này chinh chiến nhiều năm, giành nhiều vinh quang.
Tuy vậy, đôi khi kỵ binh ở châu Âu bị khuất phục trước cung tên ví dụ như trong trận Crécy giữa Anh và Pháp, các cung thủ Briton của Anh dựa vào vị trí hiểm trở và cung nỏ tốt đã đánh bại đội kỵ binh của quân Pháp.
Ở Trung Quốc
Hán Cao Tổ Lưu Bang, ông vua sáng lập ra nhà Hán vẫn thường tự phụ là nhờ có mười năm sống trên lưng ngựa nên mới thu phục được cả giang san (trong một lần đối thoại). Trong khi đó Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ cũng có con ngựa chiến Ô Truy ở bên cạnh; về sau, khi thất thế, Hạng Vũ có nhắc đến ngựa Truy trong bài ca ông ngâm cùng mỹ nhân Ngu Cơ trong thành Cai Hạ vào đêm cuối cùng của hai người.
Cuối thời Đông Hán và thời Tam Quốc, ngựa cũng được sử dụng rộng rãi trong chiến tranh và gắn liền với hình ảnh của các chiến tượng. Các đội kỵ binh Tây Lương do Mã Siêu chỉ huy đã gây khó khăn nhiều cho triều đình nhà Hán trong các trận chiến. Tào Tháo cũng tổ chức được đội kỵ binh mang tên Hổ Báo Kỵ hay còn gọi là Hổ kỵ là đội quân chủ lực của Tào Tháo. Những con ngựa trong thời kỳ này có thể đề cập con ngựa Đích Lư cũng thuộc loại ngựa tốt. Nó mang Lưu Huyền Đức nhảy qua suối Đàn Khê thoát nạn trong khi đoàn quân của Thái Mao truy đuổi theo sau (theo tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa). Trong thời kỳ này con ngựa nổi tiếng nhất là ngựa Xích Thố. Ngựa Xích Thố có sắc lông màu đỏ tượng trưng cho ngựa quý. Trong truyện Tam Quốc diễn nghĩa có con ngựa Xích Thố, ban đầu là của Đổng Trác sau đó Đổng Trác dùng Xích Thố để thu phục Lã Bố và cùng ông này lập nhiều công lao, sau Tào Tháo chiếm đoạt rồi đem biếu cho Quan Vũ, khi Vũ bị hại chết, nó cũng buồn rầu mà chết theo. Sau đó trong các chiến dịch Bắc phạtcủa Thừa tướng Gia Cát Lượng nước Thục, ông đã sử dụng Trâu gỗ, ngựa máy để vận chuyển lương thảo trong lần tấn công thứ ba. Ngựa gỗ của Gia Cát Lượng là một thứ ngựa máy có thể thay thế ngựa thật để vận tải quân lương, sau đó Tư Mã Ý, tướng Ngụy, vì không sành máy móc nên đã bị mắc lừa, để cả đoàn xe lương thực cho quân Thục Hán do Vương Bình chỉ huy cướp mất.
Dã sử sau này Trung Quốc còn chép, vua nước Lương có ngựa rất quý, ngày chạy ngàn dặm, tên là Tiêu Sương. Khi con ngựa này bị vua Tống đánh cắp đem về, nó nhớ chủ cũ, bỏ ăn rồi chết. Hoàng đế Đường Huyền Tông cũng nổi danh là ông vua mê ngựa vì trong tàu ngựa của ông có đến bốn vạn con ngựa quý.
Trong binh pháp phương Đông việc sử dụng chiến mã và đánh trận bằng kỵ binh chủ yếu dựa vào phương châm “Tốc chiến, tốc quyết”, đánh nhanh, rút lui nhanh và tận dụng yếu tố bất ngờ. Mã chiến thì có thể phát huy thế mạnh ở đồng bằng, đường giao thông thuận lợi, nhiều ngả đi nhiều ngõ đến, và rất kỵ chốn nê địa, tức địa hình khó khăn, hiểm trở, nhiều đầm lầy. Trong phép dùng mã chiến có phép: “liên hoàn giáp mã”, theo phép đánh này thì người ta cho ngựa mang giáp sắt phủ kín hết thân mình, chỉ hở có đôi mắt, và cứ từ 5 đến 10 giáp mã thì sắp thành một hàng chữ “Nhất”.
Trước ức ngựa có dắn một đòn cản đính con dao nhọn hoắt. Trân lưng mỗi con ngựa có một chiến binh mặc áo giáp, cầm dao hoặc cầm thương, mang cung tên, khi xông trận thì cho ngựa xông vào quân địch khiến cho đối phương hoảng loạn, tan rã hàng ngũ, thế rồi dùng dao thương, cung tên tiêu diệt. phép “liên hoàn giáp mã” chủ yếu uy hiếp tinh thần địch, đánh chọc thủng phòng tuyến quân thù và càn quét đối phương, công dụng như thiết giáp xa thời nay.
Tuy nhiên phép “liên hoàn giáp mã” cũng có chỗ yếu của nó, là sự xoay chuyển khó khăn, di động chậm chạp. Để phá pháp “liên hoàn giáp mã” phải dùng câu liêm thương phối hợp với pháo lớn làm cho ngựa phải kinh hoàng phóng chạy, khi ấy chỉ dùng cân liêm thương móc vào chân ngựa. Cũng có thể dùng phép “lăn khiên” mà lăn tròn dưới mặt đất rồi dùng mã tấu chặt đứt chân ngựa.
Ở Mông Cổ
Kỵ binh Mông Cổ trong một trận đánh
Vào thế kỷ 13 sau Công nguyên vó ngựa quân Mông Cổ tung hoành khắp nơi. Giống ngựa Mông Cổ bắt nguồn từ những đồng cỏ phương Bắc với vóc dáng có phần nhỏ hơn, chân ngắn hơn, bờm và đuôi rậm hơn, song chúng ít đòi hỏi chăm sóc, sức chịu đựng tốt, có thể sống quanh năm bằng cỏ mọc trên thảo nguyên, đặc biệt thích nghi tốt với khí hậu cận nhiệt đới. Có Trong suốt thế kỷ XIII, vó ngựa của quân xâm lược Mông Cổ đã tung hoành khắp nơi. Với sức mạnh quân xâm lược Mông Cổ đã bành trướng xuống phía Nam, ngựa Mông Cổ có thể nói là phương tiện duy nhất để di chuyển đại quân từ Á sang Âu. Vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu thì cỏ không mọc được, đến đâu thì bình địa đến đó, máu chảy đầu rơi, xơ xác.
Song đoàn quân Mông Cổ ba lần đưa quân xuống phương Nam xâm lược Đại Việt thì gặp thất bại, môt phần do địa hình ở đây không thuận lợi để phát huy sở trường tác chiến của kỵ binh. Việt sử còn đề cập đến chuyện con ngựa đá thời nhà Trần. Trong lúc làm lễ ở chùa Lăng sau khi đánh bại quân Mông Cổ, vua Trần Nhân Tông liền cảm khái hai câu thơ bằng chữ Hán:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện Kim âu
(Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng)
Về phía quân Đại Việt, trong chiến tranh với Mông Cổ, bên cạnh voi và thuyền thì ngựa cũng được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là danh cho các viên tướng. Sử cũ còn chép lại viên tướng Lê Phụ Trần trong một trận kịch chiến đã một mình một ngựa lao vào trận địa kỵ binh của quân Mông Cổ và sắc mặt vẫn thản nhiên như không. Hay sau đó Vũ Vương Hiến (Trần Quốc Hiến) dùng kỵ binh truy kích và bắn chết tướng A Bát Xích của Mông Cổ. Sau này vị vua Trần Duệ Tông cũng nổi danh là ông vua trên lưng ngựa và chết tại sa trường.
3. Ngựa trong thời cận đại và hiện đại
Mãi cho đến lúc phát hiện các loại hoả khí – như súng thường và pháo thần công- thì áo giáp trở nên lỗi thời. Những kẻ đánh thuê vũ trang bằng súng nhanh nhẹn trên lưng ngựa đã thay thế các hiệp sĩ để xông trân. Các đơn vị kỵ binhloại nhẹ đã tồn tại cho đến cuối chiến tranh thế giới lần thứ 2. Một số quốc gia vẫn dùng kỵ binh cho đến ngày này, chủ yếu là để phục vụ vào nghi thức các ngày lễ hội và đón chào các vị nguyên thủ ngoài ra một số nước vẫn duy trì các đội cảnh sát cưỡi ngựa để đàn áp biểu tình, giải tán đám đông.
Nguồn Cổng TTGTĐT sưu tầm



Hình ảnh con ngựa trong tâm thức con người.



Trong số 12 con vật được chọn làm 12 con Giáp, biểu tượng cho năm tháng và tuổi tác của con người ở đời, ngựa là một động vật gần gũi nhất. Không những con Người tự hào về tuổi Ngựa: “Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi- Riêng tôi cứ mãi ngậm ngùi tuổi Thân”, mà còn mượn hình ảnh, tính nết ngựa để diễn đạt, biểu hiện những tình cảm của mình. 
Phê phán những kẻ còn non nớt, học hành chưa đến nơi đến chốn, tài đức cũng xoàng nhưng lại học đòi phách lối, hung hăng đấu đá tranh giành quyền lợi, địa vị trong xã hội nhân dân ta nói “Tay ấy ngựa non háu đá”. 
Khen người sống trung thực khí khái, dám phê phán đấu tranh chống lại những sai trái tiêu cực trong xã hội, mà không sợ mang vạ vào thân, có câu: “Ông ấy thẳng như ruột ngựa”. Phản ánh cuộc sống ngắn ngủi, phù du của con người trên cõi đời vô thường này, người ta nói: “Đời người hư huyển như bóng câu qua cửa sổ”. Ý tưởng này xuất phát từ câu nói của Trang Tử: “Nhân sinh thiên địa chi gian, nhược bạch câu chỉ quá khích, hốt nhiên di nhĩ” (Nghĩa là: “Người ta sống trong khoảng trời đất cũng giống như ngựa trắng lướt qua khe cửa, trong chốc lát mà thôi”). 
Để bênh vực người tài hoa, trí tuệ giỏi giang, nhưng hay ngông, bướng bình, ngất ngưởng người ta nói: “Ngựa hay lắm tật”.   
Nhằm nhắc nhở con người ở đời, việc gì cũng có giới hạn của nó, nên tùy việc mà làm, tùy sức mà gánh vác, không nên ôm đồm, tham lam. Chẳng hạn như nhiệm vụ lớn, nhưng tài đức vừa phải thì không nên kiêm nhiệm nhiều chức vụ, cũng có câu: “Ngựa nào gác được hai yên” (Yên: Mảnh da uốn cong, đặt lên lưng ngựa làm chỗ ngồi cho người cưỡi ngựa).
Năm Ngọ mà nói chuyện “Con ngựa trong tâm thức con  người”, thể hiện qua lời ăn tiếng nói thì nhiều vô số kể. Vì không riêng gì kho tàng thành ngữ tục ngữ Việt Nam mà khắp nơi trên thế giới, ngựa vẫn là hình ảnh ẩn dụ rất độc đáo trong suy nghĩ của các dân tộc…
Và trong cuộc sống phải kiên định lập trường, quan điểm, dũng khí của mình: Ngựa hay không thay dáng chạy, người tốt không đổi thay lời”. Còn người Nga thì khuyên, ở đời đừng để cảnh “Ngựa mù phải kéo xe, trong lúc người sáng ngồi xe”. Và cũng đừng bao giờ kiêu căng tự mãn vì: “Ngựa có cánh cũng vấp” và ‘Ngựa hoàng đế cũng sa chân lỡ bước”. Còn triết lý sống của người Nhật là phải tự thân vận động đi lên bằng chính đôi chân và khối óc của mình, tự lấp cánh sinh tiến về phía trước bằng chính năng lực và phẩm chất của mình chứ: “Không cưỡi ngựa bằng mông của người khác”.
Cuối cùng là phải sống với nhau tình nghĩa thủy chung, luôn luôn lấy tín nghĩa làm trọng. Đừng sống kiểu: “Đầu trâu mặt ngựa”, đừng như “Ngựa hươu thay đổi như chơi- Giấu gươm đầu lưỡi thọc dùi, trong tay’ (Cao Bá Nhạ). Đừng chia bè rẽ phái, đừng liên minh ma quỷ kiểu: “Mã tầm mã, ngưu tầm ngưu” mà phải biết sống đoàn kết, gắn bó, keo sơn với nhau trong mỗi bước đi lên như: “Ngựa chạy có bầy - Chim bay có bạn”, với nghĩa tình sâu; nặng: “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”.
Và ngày mai, bao giờ cũng bắt đầu từ hôm nay; vì thế“Hãy: chăm sóc tốt ngựa con. Nó sẽ thành tuấn mã đẹp” (Ân Độ).
Cổng TTGTĐT sưu tầm
Nguồn : http://tet.vinhphuc.gov.vn/ct/cms/chuyenmon/Lists/tet_nhamthin/View_Detail.aspx?ItemID=360

Những kỷ lục về ngựa

06/01/2014
Trên khắp thế giới, ngựa là loài vật gần gũi, quen thuộc với con người. Ngựa có dáng vẻ, cấu tạo sinh học bình thường nhưng lại ẩn chứa nhiều khả năng đặc biệt và xung quanh đó cũng tồn tại biết bao kỷ lục thú vị, hấp dẫn, đáng làm chúng ta ngạc nhiên…
Ngựa cổ nhất, hiếm nhất
Cổ nhất, hiếm nhất trong họ hàng nhà ngựa là hai loài ngựa hoang Przewalski và Tarpa. Chúng còn sống sót sau thời Trái Đất bị băng phủ (thời kỳ băng hà) cách đây khoảng 11.000-15.000 năm và là thủy tổ của các loài ngựa ngày nay.
Ngựa Przewalski nguồn gốc ở các vùng cao nguyên Mông Cổ. Loài này tầm vóc hơi nhỏ, ngắn, đầu to, lông rậm màu vàng hoặc màu nâu, túm lông bờm sẫm và chân sẫm. Hiện tại chỉ còn khoảng vài chục con, sống nơi vùng núi Tachin Shara Nuru (Mông Cổ). Những năm 1942 – 1945, người ta có bắt được mấy con và ngày nay được gây nuôi, bảo tồn trong một số vườn thú lớn trên thế giới.
Ngựa Tarpan nguồn gốc ở miền Nam nước Nga. Loài này dáng đẹp, bờm thẳng, chân cao, lông xám mịn với một sọc đen chạy dọc lưng. Những thế kỷ trước, chúng sống khá nhiều ở Đông Âu, nhưng đến nay tiếc là không còn nữa, do săn bắt gắt gao và con cuối cùng bị giết chết năm 1851 tại vùng núi Carpat (Ucraine).
Ngựa khỏe nhất
Kỷ lục đơn khỏe nhất do chú Ngựa Fors, nước Nga thuộc loài ngựa kéo Vladimir đạt được. Trong một cuộc thi 1951, nó đã kéo được 23 tấn hàng với cự ly 35m (trọng tải hàng nặng gấp 29 lần khối lượng của nó). Còn kỷ lục đôi khỏe nhất thuộc về hai con ngựa kéo 42,3 tấn gỗ trên tuyết. Đôi ngựa tổng cộng 1580kg này đã kéo khối lượng gỗ nặng gấp 27 lần chúng đi được 251m trên tuyết vào ngày 26-2-1893 ở Ewen, bang Michigan (Mỹ).
Ngựa chạy nhanh nhất
“Chạy nhanh như ngựa” là câu thành ngữ phổ biến của nhiều dân tộc. Nhưng thực tế thì cự ly càng ngắn, ngựa chạy càng nhanh và tốc độ tối đa vẫn thua một số loài thú khác (Báo bờm 109km/giờ, linh dương 83km/h, hươu Bắc Mỹ 95km/h).
Ngựa vằn grevy ở châu Phi là loại ngựa hoang chạy nhanh nhất, đạt tới vận tốc 72km/h lúc bị săn đuổi. Còn với ngựa nhà, vận tốc kỷ lục khi cự ly 5000m là 41km/h, 2500m là 54km/h, 150m là 64km/h. Chú ngựa Arrơ của ông David Stuart hiện đang giữ tốc độ nhanh nhất ở cự ly ngắn 150m với cự ly là 69,24km/h năm 1998 tại trường đua London (Anh).
Ngựa nhảy cao nhất, xa nhất
Cong ngựa nhảy cao nhất là Loyal, do anh Alberto Laraguben người Chile cưỡi: nó nhảy được 2,47m. Tầm nhảy này tương đương với tầm nhảy của người vô địch thế giới, nhưng lại chỉ bằng khoảng một nửa tầm nhảy cao của những loài thú hùng mạnh: hổ 4m, sư tử 4,8m, báo puma 4,5m…Nhảy cao nhất là con ngựa Pando của ông Carlos Santa ở Tây Ban Nha: bước tung mình xa nhất đạt 8,26m.
Ngựa đắt nhất
Tính đến nay, con ngựa đắt nhất do một người mua vẫn là Seattle Dancer. Nó là ngựa đực 1 tuổi, được bán cho ông Robert Sangster tại bang Kentuky (Mỹ) vào ngày 23/7/1985 với giá 13,1 triệu dollars Mỹ (USD). Tuy nhiên, mức giá trên còn thua xa con ngựa đắt nhất do nhiều người mua. Đó là chú ngựa đua mang tên Conquistadỏ được nhiều người góp tiền vốn mua chung với giá 254 triệu francs Pháp (tương đương 38 triệu USD). Đây cũng là kỷ lục đắt nhất trong sự mua bán các loài động vật hiện biết.
Cổng TTGTĐT sưu tầm
Nguồn : http://tet.vinhphuc.gov.vn/ct/cms/chuyenmon/Lists/tet_nhamthin/View_Detail.aspx?ItemID=

Năm Ngọ nói chuyện thành ngữ về ngựa


Trong số các thành ngữ liên quan tới ngựa của ông cha ta có nhiều điều thú vị. Điều này thể hiện ở chỗ ngoài đời, ngựa luôn luôn được coi là loài vật hiền lành, có ích, đáng yêu nhưng trong thành ngữ, nghĩa của nó lại “lưỡng phân” thành hai hướng, nửa tích cực, nửa... tiêu cực.

Bốn thành ngữ dưới đây là một ví dụ. Với câu “Mã đáo thành công” và "Thẳng như ruột ngựa" thì ngựa mang một thông điệp hay, tốt lành, còn hai thành ngữ “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” và “Ngựa quen đường cũ” thì chú ngựa lại mang ý nghĩa… “bất kham”,  hàm ý xấu.


“Mã đáo thành công”

Nguyên văn đầy đủ theo âm Hán Việt của câu này là "Kì khai đắc thắng, mã đáo thành công", có nghĩa là: "cờ phất (làm hiệu) chiến thắng, ngựa quay về (báo tin) thành công".
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Có truyền thuyết liên quan tới chuyện này. Số là, vào năm Kỉ Dậu 1789, sau cuộc hành binh thần tốc từ Nam ra Bắc, tướng quân Nguyễn Huệ đã đánh tan 20 vạn quân Thanh và kéo quân vào thành Thăng Long đúng ngày mùng 5 Tết. Để cấp báo tin thắng trận, Nguyễn Huệ sai người mang một cành đào thật đẹp, cưỡi ngựa chuyển ngay cho Công chúa nhà Lê là Ngọc Hân. Quân sĩ tuân lệnh, cho năm sĩ tốt, ngựa khỏe, tức tốc nhận sứ mệnh mang cành đào Nhật Tân của kinh thành Thăng Long đi ngay. Khi Công chúa Ngọc Hân nhận được, hoa và nụ trên cành đào kia vẫn còn tươi rói. Thế là cành đào kia mang ý nghĩa tin báo tiệp.

Đấy là một cách cắt nghĩa xuất xứ của câu thành ngữ "Mã đáo thành công". Nhưng trong dân gian hiện nay, theo quan niệm phong thủy truyền thống, thì "mã đáo thành công" được coi là 4 chữ vàng đối với những người làm ăn, trong kinh doanh hay buôn bán. Thêm nữa, do chữ "bát" cùng cùng âm với chữ "phát", có nghĩa là "phát đạt" nên bức tranh "Bát mã phi nước đại" với dòng chữ trang trọng viết câu thành ngữ "Mã đáo thành công" được coi như món quà mừng cho những ai bắt đầu khởi nghiệp làm ăn, khai trương cửa hàng, mừng tân gia (nhà mới)...

Dần dần, câu "Mã đáo thành công" không chỉ  dùng trong giới thương gia hay những người làm ăn, liên quan tới kinh tế mà người ta còn dùng để chúc nhau, mong muốn cho nhau gặp thuận lợi, mọi việc được hanh thông, tấn tới, phát tài phát lộc: Mã  đáo như gió cưỡi mây/Thành công sẽ tới hôm nay rất gần...

“Thẳng như ruột ngựa”

Chắc ai trong chúng ta cũng biết một điều là khi nói về tính tình của một người bộc trực, thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, không lắt léo, không giấu giếm... dân gian  hay dùng thành ngữ “Thẳng ruột ngựa hay thẳng như ruột ngựa" để diễn tả.

Nhưng sao lại nói "thẳng như ruột ngựa" mà lại không nói "thẳng như ruột bò" (vì  ruột ngựa mà thẳng thì  chúng ăn uống, tiêu hóa thế nào)!

Thành ngữ "Thẳng (như) ruột ngựa" được hình thành nhờ vào sự quan sát con vật nuôi quen thuộc, dùng để kéo xe thồ, chở hàng, dùng làm phương tiện chiến đấu cho các hiệp sĩ, các đội kị binh ngày xưa.

Ngựa là con vật ăn cỏ như trâu bò, nhưng bộ máy tiêu hoá của ngựa lại khác rất xa với trâu bò. Dạ dày ngựa thuộc loại dạ dày đơn, không tiêu hoá được nhiều chất xơ cứng. Ruột ngựa rất dài, đặc biệt đoạn nối ruột non với dạ dày (gọi là manh tràng) cũng dài tới 1m và rất lớn giống một chiếc ống, thẳng và to với đường kính 15-25cm. Quá trình tiêu hoá chủ yếu diễn ra ở đây chứ không phải ở dạ dày. Có lẽ dựa vào cơ sở giải phẫu nội tạng của con ngựa và căn cứ vào những điều thu nhận được bằng quan sát trực quan mà trong nhận thức của người Việt Nam, ruột ngựa được xem là một đối chứng về tính chất "thẳng" và trái ngược với "cong queo", "ngoằn ngoèo" vốn là đặc điểm của ruột các con vật nói chung.

Thoạt đầu phép so sánh thẳng (như)  ruột ngựa chắc là chỉ miêu tả tính chất hình thể, vật thể mà con người có thể thấy được, quan sát được. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, ruột hay bụng, lòng, dạ, đều có ý nghĩa biểu trưng cho tình cảm, tâm tư, suy nghĩ, nhận thức của con người. Ta thấy còn có các câu, như: ruột đau như cắt, bầm gan tím ruột, nóng gan nóng ruột, (đau) đứt từng khúc ruột, ruột để ngoài da… Chính nhờ vào tính biểu trưng của ruột theo quan niệm của người Việt  mà thành ngữ thẳng (như) ruột ngựa được “cấp” thêm một nét nghĩa mới. Thành ngữ được chuyển từ ý nghĩa miêu tả đặc điểm, tính chất cụ thể bề ngoài trực quan đến ý nghĩa biểu thị tính tình con người hoặc tính chất hình  tượng thuộc phạm vi tinh thần.

Trong sử dụng ngôn ngữ, thẳng  như ruột ngựa thường được dùng để chỉ sự bộc trực ngay thẳng, thật thà của tính cách con người. Trong cách đối xử, người có tính thẳng ruột ngựa được xem là người hiền lành, không có ác tâm, không lắt léo, không tính toán vòng vo, không so đo hơn thiệt.

Trong nhiều trường hợp, thành ngữ  thẳng ruột ngựa được dùng để chỉ tính chất mộc mạc, dung dị và chân phương. Thí dụ: “Nếu thơ Thái và thơ Mường bay bướm thì thơ Mèo thẳng ruột ngựa, không bóng gió” (Báo Văn nghệ).

Vậy là, theo đánh giá của người đời, đặc tính thẳng ruột ngựa được xem là tốt, tích cực, đáng yêu, dễ cảm thông. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là những gì trái với tính chất thẳng ruột ngựa đều xấu, đều tiêu cực. Thực ra, người Việt trong nhiều cảnh huống, nhiều trường hợp chỉ dùng thành ngữ thẳng ruột ngựa để xác định tính của của con người, tính chất sự vật đối lập với sự kín đáo, tế nhị, bóng bẩy, hoa lá và những tính chất đa dạng khác trong cuộc sống.

“Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”

“Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” là một thành ngữ Hán Việt đã khá quen thuộc trong giao tiếp hiện nay. Xét nghĩa từng thành tố, ta thấy: ngưu là “trâu”, mã là “ngựa”, tầm là “tìm”. Ghép lại theo cấu trúc tổng thể, ngữ nghĩa chung  sẽ là “trâu tìm đến trâu, ngựa tìm đến ngựa”. Chuyện này cũng quá rõ rồi. Vì thông thường, mọi loài vật sống theo bầy đàn, có thói quen đi cùng nhau khi kiếm ăn hay về chuồng…

Thế nhưng điều thú vị là hiện tại, ngữ nghĩa chung của thành ngữ “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” này lại lệch theo hướng khác. Nó hàm chỉ “những kẻ xấu thì thường hay tìm đến những kẻ xấu khác, để cùng giao du hay mưu đồ làm những việc mờ ám”.

Nhưng sao thành ngữ này lại chỉ biểu hiện nghĩa xấu thế nhỉ? Vì nếu chỉ “trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa” thì câu chuyện ở đời thật đơn giản: loài nào đi tìm loài ấy.

Sách Tả truyện, được coi là sáng tác của Tả Khâu Minh (viết trong khoảng năm 722 đến 468 trước công nguyên), có chép một truyện về danh tướng Ngô Khởi. Ngô Khởi là đệ tử của Khúc Ban mà Khúc Ban lại là học trò yêu của Khổng Tử. Trong một lần chinh chiến, con ngựa của Ngô Khởi bị tuột cương, chạy lạc vào một bầy trâu rừng. Thấy kẻ lạ, bầy trâu bèn quây lại húc con ngựa lạc kia tơi bời. Phải khó khăn lắm ngựa ta mới thoát khỏi vòng vây, may mắn chạy đến một đàn ngựa thả rông trên thảo nguyên. Không chỉ thoát chết, chú ngựa này còn được một bác tiều phu đem về nhà chăm sóc và cuối cùng tìm được chủ tướng Ngô Khởi.

Về xuất xứ là như vậy. Nhưng với người Việt ta, trâu ngựa vốn chỉ được coi là loài vật thân phận thấp hèn (Làm thân trâu ngựa cho loài khuyển dương) và hay có những hành vi độc ác, kiểu súc vật (đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi). Có lẽ chính vì lẽ đó mà câu thành ngữ “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” đã mang một nét nghĩa tiêu cực, chỉ hành động a dua, đua đòi của những kẻ xấu, "thầy nào thì tớ ấy" thôi.

“Ngựa quen đường cũ”

Chắc mọi người đã từng nghe nói tới câu thành ngữ ngựa quen đường cũ? Câu này đã đi vào kho tàng thành ngữ Việt Nam với nghĩa quen dùng để nói về hiện tượng ai đó vẫn cứ lặp lại những sai lầm đã mắc, do nhận thức chưa tiến bộ hay do một thói quen khó bỏ nào đấy.

Nghĩa được dùng hiện tại như vậy là rõ rồi. Nhưng điều  đáng ngạc nhiên là, xuất xứ của câu thành ngữ  này lại khá đặc biệt, bắt nguồn từ điển tích liên quan đến ngựa.

Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, trong sách Cổ học tinh hoa (NXB Văn học, 2003) kể rằng:  Ngày xưa, Quản Trọng (725-645 trước công nguyên) - một danh tướng thời Xuân Thu - vốn xuất thân từ nghề chăn nuôi voi ngựa và có biệt tài “nói chuyện được với voi và ngựa”. Quản Trọng có một chú ngựa đực, ức nở, lông mượt, chạy phi nước kiệu như gió. Có một lần, Quản Trọng phi ngựa tới nhà Thấp Bằng bàn chuyện đánh nước Cô Trúc. Đến nơi, Quản Trọng thả ngựa ra vườn cho nó gặm cỏ. Trong khi hai chủ nhân bàn chuyện, chú ngực đực của ông nghe tiếng hí xa xa của “nàng” ngựa cái của Thấp Bằng. Ngựa cái vừa cựa mình vào máng tàu ngựa, vừa hí. Ngựa của Quản Trọng cũng hí ra điều đáp lại. Thế là qua tiếng hí gọi bầy, hai con ngựa làm quen với nhau và trở nên thân thiết.

Mấy hôm sau, khi trở  lại nhà rồi, chú ngựa của Quản Trọng nhớ bạn, nhân lúc được thả rông ngoài vườn, nó liền vượt đường xa, đến thăm “cô bạn cũ” của mình. Con ngựa của Thấp Bằng thấy bạn đến thì vui mừng, hí lên mấy tiếng, như có ý hỏi: “Làm sao mà anh biết đường?”. Ngựa đực lấy chân cào cào xuống cỏ cũng như muốn trả lời rằng: “Ấy là giống ngựa nhà ta một lần đi là quen đường cũ”. Biết chuyện này, Quản Trọng không trách ngựa mà còn khen: “Chà! Mày quả là kẻ có tình có nghĩa”.

Sau này, Quản Trọng cùng Thấp Bằng dựng cờ theo Tề Hoàn Công đánh Cô Trúc. Một lần, đánh trận xong, quay trở về tuyết bỗng rơi xoá hết đường cũ khiến Quản Trọng và Thấp Bằng không còn nhớ đường về. Bỗng Quản Trọng nhớ  đến con ngựa giỏi tìm đường của mình năm xưa. Ông liền nói với nó: Này ngựa ơi, hãy đưa chúng ta về chốn cũ! Chú ngựa như  hiểu ý liền tung vó  phăm phăm chạy lên trước, đoàn quân của Quản Trọng và Thấp Bằng cứ thế theo sau, vòng qua các khe sâu, rừng thẳm, tuyết dày tìm được đường về nước.

Như vậy, câu chuyện trên nói về một con ngựa, nhờ khứu giác tài tình đã giúp chủ tìm lại đường về trong cơn hoạn nạn. Nhưng qua thời gian, khi vận dụng vào cuộc sống, dân gian đã dùng diễn tả một ngữ nghĩa khác: Ai đó cứ theo thói quen cũ,  không dứt bỏ được, chứng nào tật ấy, không chịu tu tỉnh cải sửa thì thật là điều đáng chê trách. Sự biến chuyển nghĩa đó quả là lạ với chúng ta bây giờ. Nhưng sự thay đổi như vậy không phải ngoại lệ, vì có rất nhiều trường hợp từ ngữ mà dân gian sử dụng thành thói quen đã khác hẳn ngữ nghĩa ban đầu: Ngày xưa tình nghĩa ngựa về/ Bây giờ  là kẻ theo nghề quen mui/Chuyện nghe tuy đã cũ rồi/Vẫn là  bài học cho đời hôm nay…



Nồi bánh chưng ngày Tết và niềm vui sum họp


Nói đến Tết ngoài đào, mai hay lọ hoa chơi Tết còn có nhiều thứ đã trở thành truyền thống của người Việt, trong đó ẩm thực phục vụ Tết là một điều rất quan trọng. Một trong những món ẩm thực không thể thiếu vào dịp này đó là bánh chưng xanh.


Không rõ chính xác bánh chưng có từ khi nào, chỉ biết rằng cho đến nay đây là loại bánh có lịch sử lâu đời nhất được sử sách ghi lại. Sự xuất hiện của bánh chưng gắn với truyền thuyết về hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Theo quan niệm của người xưa, cùng với bánh giầy, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ. Bánh có màu xanh lá cây, hình vuông được coi là đặc trưng cho đất còn bánh giầy hình tròn tượng trưng cho trời. Bánh chưng cũng là một nét văn hóa truyền thống của người dân Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn đối với ông cha, cội nguồn và đất trời.

Trước kia mỗi độ xuân về, việc chuẩn bị bánh chưng là một trong những việc quan trọng nhất cũng là vui nhất với mọi gia đình. Bởi không chỉ đơn giản là một món ăn truyền thống, các công đoạn chuẩn bị gói bánh chưng và luộc bánh chưng cũng đã trở thành một nét văn hóa đẹp của người Việt.

Các gia đình đông con cháu phải chuẩn bị trước đó cả tháng trời để có được một nồi bánh chưng đầy đủ cho cả nhà. Mọi công đoạn của việc chuẩn bị làm bánh được chia đều cho người lớn trẻ nhỏ, người lớn thì đãi đỗ, vo gạo, ướp thịt, lũ trẻ con thì rửa lá dong rồi cả nhà cùng quây quần ngồi gói bánh.

Ngày nay, xã hội phát triển, cuộc sống ngày càng hiện đại và đơn giản hóa các hình thức lễ tiết truyền thống. Các dịch vụ khiến con người ta đâm “lười” trong việc chuẩn bị Tết, bánh chưng bây giờ không mấy nhà gói mà chọn giải pháp mua sẵn, thế nhưng việc gói và luộc bánh chưng vẫn là một trong những nét truyền thống được nhiều người nhớ đến và ghi sâu trong tâm trí, thế nên dân gian ta có câu “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”.

Tuy nhiên, vẫn có nhiều gia đình muốn con em mình biết các nghi lễ và tục lệ truyền thống vẫn thường tổ chức gói bánh chưng. Những gia đình thưa người thì rủ mấy nhà lại cùng làm để đủ một mẻ luộc bánh, vừa vui vừa đảm bảo chất lượng lại vừa gần gũi, ấm cúng.

Mặc dù là một món ăn dân dã thế nhưng việc có được một chiếc bánh chưng ngon không hề đơn giản chút nào. Đầu tiên là khâu chuẩn bị lá dong, nên chọn lá không to quá cũng không nhỏ quá, lá không non quá mà cũng đừng già quá. Lá nhìn phải bóng, xanh đậm, cuống nhỏ. Khi chọn được lá ưng ý, đem rửa sạch sẽ, phơi chỗ thoáng gió. Không phơi quá khô mà chỉ cần ráo nước là được, nhiều nhà còn cẩn thận chuẩn bị cả những khăn sạch để lau khô lá. Tiếp đến là chọn gạo nếp, muốn chọn gạo ngon phải chọn loại nếp mùa, hạt bóng mẩy và đều nhau. Gạo ngâm khoảng 10 - 12 giờ bằng nước lạnh sau đó vo qua, để ráo nước và xóc muối trắng lượng vừa phải cho thêm vị đậm đà. Đặc trưng của bánh là vị mặn của gạo, vị thơm của đỗ, vị béo của thịt… vì vậy để bánh ngon cần chú ý cho lượng muối vừa đủ với số lượng gạo và đồng đều với đỗ, thịt. Sau gạo là đỗ xanh, đỗ xanh đã tách đôi, đem ngâm nước lạnh khoảng 8-10 tiếng, sau đó đãi cho sạch vỏ, để ráo nước. Màu vàng óng của hạt đỗ tượng trưng cho một năm mới tràn trề tài lộc, thịnh vượng. Tâm bánh có cả thịt nạc cả mỡ, để có được nhân bánh thật ngon thì thịt cần ướp với hành khô bóc sạch vỏ, thái nhỏ, hạt tiêu tự xay và gia vị. Người xưa quan niệm rằng thịt cần có cả nạc cả mỡ bởi mỡ để cho bánh béo ngậy như sự khỏe mạnh của gia chủ, nạc đỏ hồng mang nhiều niềm vui cho năm mới.

Sau khi chuẩn bị hết các nguyên liệu làm bánh là đến công đoạn gói bánh, nhìn các bà các mẹ gói bánh thoăn thoắt thấy đơn giản nhưng khi bắt tay vào sẽ thấy để có được chiếc bánh vuông vức không hề dễ chút nào. Riêng việc chọn lạt để gói bánh cũng đã cho thấy sự cầu kỳ, tỉ mẩn đòi hỏi sự kiên trì của người gói bánh. Lạt phải chọn những đốt giang dài từ 70-90 cm, cạo vỏ ngoài, sau đó chẻ từng miếng đều nhau. Nên ngâm ống giang trước khi chẻ để có độ mềm, còn khi chẻ thành lạt thì phơi khô để khi gói bánh sẽ chắc tay, mềm và dễ buộc. Người có kinh nghiệm thì gói bằng tay, xưa kia thì các cụ nhà ta đều gói tay nhưng nay đã có thêm khuôn cho những người ít kinh nghiệm dễ thực hiện. Một chiếc bánh cho khoảng 5 – 6 lá dong, còn gạo và nhân bánh tùy thuộc vào độ lớn của chiếc bánh cần gói. Bánh gói làm sao phải kín, vuông, đều, đẹp, rền. Khi bóc, bánh có màu xanh của lá dong, vị thơm ngon của đậu xanh, thịt, hạt tiêu, vị vừa ăn.

Bánh sau khi gói xong thì đến công đoạn luộc bánh, cảm giác cả nhà quây quần xum tụ bên nồi bánh chưng được nấu bằng bếp củi, vừa chờ bánh chín vừa chuyện trò đã trở thành một hình ảnh đẹp và rất đỗi thân thương với mỗi người dân Việt. Bánh ngon phải đảm bảo luộc đủ 12 giờ, có như vậy thì bánh mới chín, đảm bảo không bị “lại gạo” và bị sượng.

Vẫn biết cuộc sống hiện đại bận rộn và nhiều mối lo toan, gần ngày Tết qua siêu thị hoặc chợ mua vài chiếc bánh để đủ mâm cơm Tết cũng đã là tốt rồi nhưng khi cả gia đình cùng nhau chuẩn bị gói bánh, làm cho cái Tết trở nên ấm cúng, hạnh phúc và gắn kết cũng là một lý do để chúng ta duy trì nét văn hóa truyền thống này.

Tục kiêng 3 miền trong những ngày Tết


Kiêng quét nhà hay đổ rác, kỵ đánh vỡ cốc chén và ăn những món thịt chó, thịt vịt trong ngày Tết.

Miền Bắc

Trước Tết, nhà nào cũng quét dọn sạch sẽ nhà cửa để trong ba ngày đầu tiên của năm mới, cây chổi quét nhà không được động đến. Theo quan niệm, quét nhà là quét hết vận đỏ và lộc năm mới đi. Vì thế sẽ không ai quét nhà vào 3 ngày đầu năm.
Tránh làm rơi vỡ trong 3 ngày Tết để tránh đổ vỡ, xui xẻo trong cả năm. Ảnh: Traveller.
Tránh làm rơi vỡ trong 3 ngày Tết để tránh đổ vỡ, xui xẻo trong cả năm. Ảnh: Traveller.

Tục kiêng đổ rác xuất phát từ câu chuyện trong Sưu thần ký. Chuyện kể rằng, có một người lái buôn đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy thần tặng nàng hầu tên là Như Nguyệt. Ông trở nên giàu có, tiền bạc đầy nhà. Năm ấy, vào ngày mồng Một Tết, Như Nguyệt mắc lỗi nhỏ, bị ông chủ đánh đập nên biến vào đống rác. Người lái buôn không biết, mang rác đổ đi. Từ đấy, ông lại nghèo như xưa.

Kiêng không treo những tranh không hay như đánh ghen, kiện tụng... mà phải tìm bằng được tranh lợn, gà, cậu bé. Những bức tranh của làng tranh Đông Hồ, Hàng Trống mang ý nghĩa tốt đẹp, may mắn.

Ngày mùng Một Tết, đừng đến xin lửa nhà người khác vì lửa đỏ là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may. Tương tự như vậy, tránh xin nước những ngày này.

Dân gian có câu “Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi” với rất nhiều cách giải thích khác nhau. Đầu tiên, việc mua muối được xem là mua cái sự mặn mà về nhà cho cả năm. Còn vôi cũng có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh, thể hiện qua 3 cách dùng: Xây nhà xây cửa, ăn trầu và rải 4 góc nhà đuổi tà ma. Cũng có một cách giải thích khác cho rằng cuối năm phải mua vôi để tiếp vôi cho ông bình vôi.

Những người "nặng vía", không hợp tuổi với gia chủ đừng nên đến xông nhà ngày đầu năm. Một vài gia đình sẽ chọn người hợp tuổi với nhà mình để mời xông đất. Người gia đình có tang trong năm trước không đến chơi gia đình nhà khác vào dịp năm mới để tránh xui xẻo.

Những từ ngữ xui xẻo như chết chóc, ốm đau được tránh nói trong những ngày đầu năm.

Làm vỡ bát đĩa, cãi nhau, chửi nhau khiến không khí ngày Tết kém vui và bất hòa trong suốt cả năm, kiêng cữ để được vui vẻ cả năm dài.

Miền Trung

Người dân miền Trung có tục kiêng ăn trứng vịt lộn, thịt vịt, thịt chó trong ngày Tết và cả tháng đầu năm. Người ta cho rằng ăn thịt vịt sẽ gặp xui xẻo. Một số vùng không ăn tôm vì sợ... đi giật lùi như tôm.

Ngày Tết kiêng mặc quần áo màu trắng, màu đen mà nên chọn những sắc màu vui tươi, đẹp mắt cho những ngày đầu năm mới.

Miền Nam

Trong những ngày Tết, khách đến chơi nhà vào bất kể giờ giấc nào, bất kỳ ai cũng được gia chủ dọn cỗ, mời uống rượu, ăn bánh. Khách không được từ chối bữa ăn, dù no cũng phải nhấm nháp chút ít.
Người miền Bắc tránh quét nhà trong 3 ngày đầu năm, còn người miền Nam cất chổi để tránh bị trộm sạch của cải. Ảnh: Famliy.

Đi đâu xa cũng phải về nhà trước giờ Giao thừa. Ai không về kịp xem như cả năm sau người ấy phải bôn ba vì công việc làm ăn.

Nếu trong ngày Tết để mất chổi nghĩa là năm đó gia đình sẽ bị trộm vét sạch của cải.


Ý nghĩa của cây nêu trong ngày Tết Nguyên đán


Từ bao đời nay, đối với người Việt Nam, hình ảnh cây nêu được coi là biểu tượng thiêng liêng nhất của ngày Tết Nguyên đán. Nó gắn liền với một sự tích huyền thoại mang đậm tính nhân văn sâu sắc.

  Cây nêu ngày Tết. (Ảnh: Internet)
Cây nêu ngày Tết. (Ảnh: Internet)

Về sự tích của cây nêu

Theo truyền thuyết và Phật thoại, xa xưa, Người và Quỷ cùng sống trên mặt đất. Quỷ cậy mạnh chiếm đoạt toàn bộ đất đai và bắt Người đi làm thuê cho chúng với những điều kiện ngày càng khắt khe.

Với trò “ăn ngọn cho gốc”, đến mùa gặt Quỷ lấy hết phần ngọn (những bông thóc), còn Người chỉ được phần gốc (rạ). Phật thương Người, mách bảo Người đừng trồng lúa mà trồng khoai lang. Mùa thu hoạch ấy, Người lấy hết củ, Quỷ chỉ được dây và lá khoai.

Quỷ tức tối, mùa sau quy định lại là “ăn gốc, cho ngọn”. Người liền trở về trồng lúa như cũ. Vẫn thất bại, Quỷ đòi “lấy cả gốc lẫn ngọn”. Phật mách Người nên trồng ngô. Người làm theo và lại thắng (vì bắp ngô ở khoảng giữa thân cây). Uất ức, Quỷ tịch thu toàn bộ ruộng đất, không thuê Người trồng cấy gì nữa.

Phật bảo Người thương lượng với Quỷ để mua một miếng đất chỉ bằng bóng chiếc áo cà sa. Người sẽ trồng một cây tre, trên đó mắc áo cà sa, đất của Người là phần đất giới hạn bởi bóng áo ấy. Quỷ nghĩ chẳng đáng là bao nên đồng ý, và hai bên giao ước: đất trong bóng áo là của Người, ngoài bóng áo là của Quỷ.

Khi Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn, tung áo cà sa bay tỏa ra thành một miếng vải tròn. Rồi Phật hóa phép làm cho cây tre cao vút mãi lên, đến tận trời. Tự nhiên đất trời trở nên âm u: bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất.

Quỷ không ngờ có sự phi thường như thế, mỗi lần bóng áo lấn dần vào đất của chúng, chúng phải dắt nhau lùi mãi lùi mãi. Cuối cùng Quỷ không có đất ở nữa, phải chạy ra biển.

Quỷ tập hợp lực lượng phản công hòng chiếm lại đất. Cuộc chiến diễn ra hết sức ác liệt. Biết quân của Quỷ sợ máu chó, lá dứa, tỏi, vôi bột nên Phật và Người sử dụng những thứ ấy làm vũ khí. Quỷ bị đại bại, bị Phật bắt, đày ra biển. Chúng van xin Phật, hàng năm, cho chúng vào thăm đất liền vài ba ngày. Phật thương tình, đồng ý.

Vì thế, hàng năm cứ đến ngày Tết Nguyên đán là ngày Quỷ vào thăm đất liền, thì người ta theo tục trồng nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ người đang ở.

Trên ngọn cây nêu, Người ta treo khánh đất nung để mỗi khi gió rung thì có tiếng động phát ra để luôn nhắc bọn Quỷ nghe mà tránh. Cũng trên đó có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía đông và rắc vôi bột xuống đất vào những ngày Tết để cấm cửa Quỷ.

Những ý nghĩa sâu sắc

Trồng cây nêu đã trở thành tục lệ Tết phổ biến của các dân tộc Việt Nam: từ Kinh, Thái, Mường đến Ba Na, Gia Rai... Trên ngọn nêu, người ta thường treo một túm lá dứa, lông gà, cành đa, lá thiên tuế, những chiếc khánh và con cá bằng đất nung, cùng một tán tròn bằng tre nứa dán giấy đỏ.

Ngoài ra có nơi còn treo những chiếc đèn lồng, đèn xếp hoặc vài xấp tiền, vàng mã... Dù với dụng ý khác nhau, nhưng những vật treo đều tượng trưng cho mong muốn bảo vệ con người, tạo lập hạnh phúc cho con người. Ví như lá dứa để dọa ma quỷ (vì ma quỷ sợ gai), không cho chúng vào quấy phá.

Cái khánh đồng âm với “khánh” có nghĩa là “phúc”: năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình. Cành đa tượng trưng cho điều lành và tuổi thọ. Tiền vàng mã để cầu tài, cầu lộc. Lông gà là biểu tượng chim thần (một sức mạnh thiên nhiên giúp người).

Đặc biệt, cây nêu còn coi là cây vũ trụ - nối liền Đất với Trời. Tán tròn bằng giấy đỏ tượng trưng cho Mặt Trời và ngọn nêu là nơi chim thần (sứ giả của Mặt Trời) đậu. Cuối năm (cuối mùa đông) mới trồng cây nêu để đầu năm ngọn nêu vươn lên đón ánh nắng xuân, sức sống xuân.

Nghi thức thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam

Nghi thức thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam được coi là độc đáo, trở thành hệ thống và có ý nghĩa riêng của nó. Khởi đầu những ngôi mộ trong hang động ở vùng trung du Bắc Bộ có những vật dụng đem theo cho người chết với sự tin tưởng người chết vẫn sống ở thế giới vĩnh hằng. Con người, ông bà, tổ tiên mình có thể thành Tiên, thành thần, thành thánh, thành Phật.

Chính vì vậy, người ta lập bàn thờ, nhà thờ một cách trang trọng. Khi cúng tế, người ta luôn cầu ân đức, tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu. Không chỉ ngày giỗ, ngày Tết mà còn có những dịp trong đại của con người như đám cưới, đám tang hay khi gặp hoạn nạn, làm ăn, đều khấn vái, kính cáo Tổ tiên.

Các nhà nho trước đây cho rằng thờ cúng tổ tiên chỉ để thể hiện chữ hiếu, với tinh thần chim có tổ, người có tông, uống nước nhớ nguồn.

Ngày nay, mọi gia đình người Việt Nam đều thờ tổ tiên và hầu hết đều có bàn thờ gia tiên, đó chính là quốc đạo, lấy con người làm chủ vạn vật, coi trọng âm đức, cái đức thiêng liêng của con người./.

Ngày xuân hương vị dưa hấu đỏ

 - Người dân Nam Bộ quan niệm rằng: “Tết đến trong gia đình không có cặp dưa hấu đỏ thì chưa đủ dư vị Tết Nguyên đán cổ truyền dân tộc”.

Tết Nguyên đán, ở Nam Bộ hầu như các gia đình người Việt Nam đều trưng bày mâm ngũ quả trên bàn thờ tổ tiên. Mâm ngũ quả Tết có một ý nghĩa đặc biệt, trong đó không thể thiếu cặp dưa hấu và các loại quả khác như: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài. Nói theo người miền Nam là cầu – dừa [vừa] – đủ – xài [xoài] – là điều mong ước của mọi nhà trong năm mới. Với sắc màu rực rỡ, hình dáng độc đáo cùng với ý nghĩ sâu xa, cặp dưa hấu đỏ làm cho ngày Tết thêm sinh động thiêng liêng.


Chợ dưa hấu trưng tết.
Chợ dưa hấu trưng tết.

Khi gió chướng về, ngoài đồng gió hiu hiu trong tiết trời hanh hanh lạnh, trên các đồng ruộng rẫy ở Gò Công (Tiền Giang), Cần Đước (Long An), Vũng Thơm và Đại Tâm (Sóc Trăng) xanh rờn màu xanh dưa hấu. Dưa hấu trưng Tết nơi này nổi tiếng từ lâu, được nhiều người Nam Bộ biết đến là “Ngọt thanh như đường cát, mát chẳng kém đường phèn”.

Vào dịp Tết đến xuân về người mua dưa hấu trưng chọn rất kỹ từ màu sắc. Quả dưa phải sáng và tròn đều, trái cân đối không lớn và nhỏ quá. Còn người buôn bán dưa hấu để trưng Tết hầu hết cũng phải lặn lội về tận các ruộng, rẫy trồng dưa, chọn đồng, chọn dưa, đặt cọc trước với giá luôn đắt hơn loại thường. Rồi tự họ chăm sóc dưa trước cả tuần và không tưới nước nhiều. Gần đến ngày thu hoạch, họ bảo quản công phu để dưa hấu Tết luôn luôn đẹp.

Phải tính chừng đoạn đường vận chuyển, dưa hấu phải lót rất nhiều rơm xung quanh và chăm sóc còn hơn vận chuyển trứng, tránh sự trầy xước. Xe chở dưa phải chạy chậm, đi vào ban đêm hoặc trời râm mát… Tất cả đều phải công phu, cẩn trọng.

Trồng dưa hấu trưng Tết cực hơn trồng dưa thương phẩm, nhưng bù lại giá luôn đắt hơn loại thường gấp 2 – 3 lần, có năm trời mưa muộn, sương muối nhiều dưa trưng Tết thất mùa, cặp dưa hấu đẹp lên đến vài trăm ngàn đồng.

Dưa hấu trưng Tết được chọn rất kỹ từ màu sắc và tròn đều.
Dưa hấu trưng Tết được chọn rất kỹ từ màu sắc và tròn đều.

Quả dưa hấu ngoài việc trưng bày khi Tết đến xuân về, người Nam Bộ còn dùng để đón lộc đầu năm. Theo quan niệm của người Nam Bộ xưa, đến ngày mùng ba Tết đem quả dưa hấu bổ nếu đỏ hồng thì năm đó được nhiều may mắn, làm ăn phát tài phát lộc. Cặp dưa hấu đỏ ngày Tết ở Nam Bộ là phong tục tập quán lâu đời của người dân đất phương Nam. Vì người dân Nam Bộ quan niệm rằng: “Tết đến trong gia đình không có cặp dưa hấu đỏ thì bất thành Tết Nguyên đán cổ truyền dân tộc”.

Hương vị dưa hấu đỏ trưng Tết là phong tục tập quán lâu đời của người dân đất phương Nam.
Hương vị dưa hấu đỏ trưng Tết là phong tục tập quán lâu đời của người dân đất phương Nam.

Trồng dưa hấu Tết cũng là dịp nhiều nhà nông ở nơi này có cơ hội tăng thu nhập cải thiện đời sống và chuẩn bị mừng xuân đón Tết cổ truyền dân tộc. Ngày nay, cuộc sống hiện đại cộng với sự giao lưu phong tục làm cho mâm ngũ quả có thể nhiều hơn, cách sắp xếp tự do hơn, có trang trí thêm hoa lá…nhưng vẫn không thể thiếu cặp dưa hấu đỏ, biểu hiện của ngày Tết dân tộc.

Trong ba ngày Tết đến xuân về trên bàn thờ tổ tiên có cặp dưa hấu đỏ làm cho quang cảnh ngày Tết và không gian thờ cúng thêm ấm áp, rực rỡ, thể hiện sinh động ý nghĩa triết học, thẫm mỹ trong những ngày Tết cũng như ước vọng lạc quan mà mỗi gia đình mang theo khi bước vào năm mới Giáp Ngọ 2014.


Bánh Tét dịp Tết ở miệt vườn

 - Ở miệt vườn Nam bộ, trong ngày Tết, giỗ kỵ có các lễ hội cổ truyền bánh tét để dâng cúng tổ tiên. Tuy nhiên, gần nửa thế kỷ qua, bánh tét truyền thống đã được hóa thân thành một món ăn hấp dẫn, với màu sắc và nhân bánh được cách tân...


Phương Nghi

Người dân miệt vườn Nam bộ chế biến bánh tét một cách tài tình và phong phú, tuỳ theo địa phương mà thêm gia vị cho thích khẩu. Thường gói nếp với nhân đậu xanh thêm một miếng mỡ hoặc thịt ba rọi theo chiều dài đòn bánh. Có nơi không thuần nếp mà trộn lẫn đậu đen để tăng chất lượng vừa dẻo, vừa bùi.

Qua bàn tay khéo của các mẹ, các chị miệt vườn gói bánh tét rất đẹp.
Đặc biệt ở vùng sông nước miệt vườn Đồng bằng sông Cửu Long, ngày xưa những gia đình giàu có, con cháu đông đảo, thường gói bánh tét đòn rất lớn. Khi tét bánh ra, khoang bánh tròn trịa, nằm gọn gàng trong lòng một đĩa kiểu trông khá đẹp mắt. Trung bình một đòn bánh đường kính cả tấc tây và độ nặng khoảng hơn một kg. Một vài địa phương vùng sông nước Tây Nam bộ lại dùng lá dứa giả nhuyển, vắt nước trộn vào nếp để bánh có màu xanh lá mạ hoặc trộn nước cốt dừa sống với nếp để tăng vị béo của bánh…
Công việc gói bánh khá tỉ mỉ. Trước tiên, đem bếp và đậu đen vo sạch để ráo nước. Đậu xanh cà, đãi vỏ để sống. Thịt ba rọi (nửa nạc nửa mỡ) cắt theo chiều dài đòn bánh đã được ướp trước cho thắm hành, muối, đường. Có như thế, thịt vừa trong, vừa đẹp để khi tét bánh ra, thịt hoà tan vào nhân đậu xanh, ăn vừa béo của thịt, vừa bùi của đậu, vừa dẻo của nếp, vừa thơm ngon. 
Mỗi lần gói bánh chí ít cũng 3 – 4 chục đòn, tuỳ theo khả năng tài chính của mỗi gia đình. Hai đòn cột thành một cặp, có dây quai để xách cho tiện, khi có làm quà tặng bà con một cặp vừa đẹp, vừa hợp với tập quán vì năm mới phải đủ đôi, ý chúc cho bà con đủ vợ, đủ chồng là niềm hạnh phúc thịnh vượng. Bánh khi luộc phải thường xuyên canh lửa, có khi từ đầu hôm luộc suốt đêm đến 4 – 5 giờ sáng mới vớt ra. 
Bánh tét miệt vườn đón xuân thường gói vào ngày cuối năm, đêm lại với không khí lành lạnh, mọi người quây quần bên bếp lửa hồng ấm áp canh chừng nồi bánh tét, vừa uống nước trà, vừa trò chuyện râm ran cả đêm. Để bánh mau chín, các bà nội trợ thường áp dụng một số mẹo vặt, vắt chanh vào nếp hoặc ngâm nếp với nước khóm một thời gian chừng vài ba giờ. Không được ngâm lâu, sợ nếp rã thành bột. Lúc gói bánh, xếp lá chuối ở hai đầu, bẻ thành 4 góc rồi nức đòn bằng cọng lát phơi khô cho dẻo.

Cả nhà mọi người quây quần bên bếp lửa hồng ấm áp nấu nồi bánh tét.
Hiện nay, theo thời hiện đại, cũng có chỗ nức đòn bằng dây chỉ nhựa. Nhiều gia đình ăn chay, gói bánh tét nhân ngọt (không có thịt) nhân đậu xanh có trộn đường; hoặc bánh tét nhân chuối cũng được ưa thích, chuối thay cho nhân đậu xanh, đòn nhỏ một trái chuối, còn đòn lớn ba trái chuối xiêm chín có thêm đường để tăng độ ngọt cho nhân, khi chín có màu đỏ tím. 
Tét khoanh bánh ra trong lạ mắt, màu đỏ tím chính giữa nổi bật bên ngoài màu nếp trắng phau. Còn một loại bánh tét được chế biến khá đặc biệt nữa là bánh tét thập cẩm, vẫn bánh tét nếp, phần nhân được nâng cấp có trứng, tôm khô, lạp xưỡng, hột sen, thịt giò Bắc thảo, đậu phộng, nấm đông trộn chung với nhân đậu xanh. Dĩ nhiên, loại bánh này ăn rất ngon và thực hiện quá công phu.

Bánh tét mới luộc xong.
Trong dịp tết cổ truyền, người dân miệt vườn thường làm bánh tét đãi khách và làm quà biếu bà con phương xa. Những ngày đầu năm tiết trời còn hanh lạnh, đôi khi có cả mưa xuân lất phất, bên trong gian nhà sum vấy cùng với những người thân yêu, quây quần đầy đủ, tét bánh lát mỏng xếp trên đĩa ra đãi ăn với thịt kho tàu, chấm nước mắm, kèm củ kiệu, dưa chua thật đậm đà hương vị ngày Xuân.

Màu sắc và nhân bánh tét lá cẩm.
Chỉ từng ấy thôi, cũng làm nên một mâm cổ đầy màu sắc, như hội tụ cả đất trời trong không khí giao thời của năm mới.
Bánh tét ra giêng còn dư, nhằm đổi khẩu vị, người ta thường đem chiên với dầu hoặc mỡ phi tỏi, ăn kèm với rau sống chấm nước mắm chua thấy lạ miệng sau khi đã chán các món cao lương mỹ vị. Đây cũng là một loại lương khô rất tiện dụng cho du khách đi xa, leo núi hoặc người hành quân lâu ngày, bởi có thể để cả mười ngày, nửa tháng không bị mất phẩm chất.

Món dưa muối 3 miền

Dưa muối, món ăn từ bao đời, có mặt ở hầu hết các bữa ăn gia đình, trong bữa tiệc thịnh soạn hay ở những mâm cỗ Tết, là nét đặc sắc của ẩm thực Việt.


Dưa muối tuy chỉ là món phụ trong bữa ăn nhưng vô cùng phong phú, từ nguyên liệu cho đến cách chế biến. Hương vị của mỗi loại dưa cũng khác nhau, tùy theo cách muối của mỗi vùng miền, thậm chí mỗi gia đình cũng có bí quyết muối dưa riêng.

Nguyên liệu làm dưa nhiều vô kể, tùy theo rau quả của mỗi miền, có những món dưa nức tiếng mà ai ai cũng biết như cà pháo, dưa cải, dưa giá hẹ, củ hành, củ kiệu, măng chua... và cũng có những món dưa “độc quyền” của một số vùng như dọc mùng, nhút mít, dưa hồng, trái sung, trái vả, bông súng, bông điên điển…
Ảnh minh họa - Nguồn internet
Ảnh minh họa - Nguồn internet

Muốn ăn ngay trong ngày, người ta thường muối xổi các loại rau củ như củ cải, cà rốt, bắp cải, dưa leo, giá hẹ, cà pháo, rau muống hay cả dưa cải. Để dưa nhanh thấm, rau củ phải cắt lát hoặc cắt sợi, ngâm trong nước giấm muối đường chừng vài giờ. Kiểu dưa này ăn với món gì cũng được, từ thịt cá đến hải sản, từ món kho, chiên đến ram.

Vị chua ngọt của dưa làm dịu món ăn chính, giúp bữa cơm được cân bằng, đủ vị. Dễ tính là vậy, nhưng với vài món, nên ăn đúng kiểu mới ngon, như cà pháo đi kèm với mắm tôm, thịt luộc; cà pháo ăn với canh cua rau đay; dưa cải ăn với thịt đông; tôm khô kèm củ kiệu...

Muối nén là cách muối mặn, cầu kỳ hơn, tốn thời gian hơn, nhưng cũng để dành được lâu hơn. Dưa thường để nguyên củ, nguyên bắp, rửa thật sạch và phơi hơi héo. Nước muối dưa còn ấm, độ mặn nhiều hơn, thường là ba phần muối một phần đường và phải đổ ngập nguyên liệu. Cũng có thể xếp một lớp nguyên liệu rồi rải một lớp muối mỏng mà không dùng nước. Quan trọng nhất là phải nén thật chặt để dưa không bị nổi lên. 10-20 ngày sau mới ăn được.

Chỉ từ món dưa cải đơn sơ, người ta có thể chế biến thành bao nhiêu món ăn. Đơn giản nhất là ăn với thịt ba chỉ luộc hay thịt đông. Đổi món thì đem dưa cải nấu canh với cá, với cà chua hay canh sườn non. Lạ miệng thì kho dưa với cá, với thịt heo quay hay chân giò. Dưa cũng được xào với thịt nạc, với nghêu hoặc với trứng. Món nào cũng “bắt” cơm, cũng dễ ghiền.

Khẩu vị muối dưa mỗi miền cũng mỗi khác. Với người miền Bắc, dưa muối chỉ có vị mặn và chua, trong khi với người miền Nam, dưa muối phải chua chua ngọt ngọt mới đạt, đôi khi còn thêm vài trái ớt hay vài lát tỏi cắt mỏng để tăng thêm hương vị. Người miền Trung lại khoái khẩu với món dưa vị mặn ngọt thơm nức mùi riềng. Bởi vậy, cũng không lạ gì khi món dưa ngày Tết ở ba miền cũng khá khác biệt.

Bánh chưng miền Bắc người ta ưa ăn với dưa hành, vị béo của thịt mỡ, nếp trở nên ngon hơn mà không ngán. Bánh tét miền Trung lại “kết” với dưa món. Người miền Nam lại có món dưa kiệu độc đáo, không phải chỉ ăn kèm với bánh tét mà còn là linh hồn của món dưa kiệu tôm khô.

Nghe có vẻ đơn giản, nhưng để có được mấy món dưa giòn giòn mà không úng, màu sắc tươi, không bị thâm chẳng dễ dàng gì, đòi hỏi sự khéo léo, chăm chút và cả tình cảm người nội trợ gửi gắm vào đó

50 đồng năm 1972 của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa
 Đồng 20 Tugrik của Mông Cổ
100 Dinar của Algeria năm 1992
1 Dinar của Bahrain (Trung Đông)
20 Rials năm 1965 của Iran
Ngựa thần trên đồng 500 Rials của Iran
20 Dinars Tunisia
25 Dinars Iraq năm 1980
10 Dinars Libya năm 1980
Đồng 50 Manat của Turmenistan (Trung Á)
Đồng 10 Bolivares của Venezuela năm 1980
















-------------------------------------------------------------------------------------------

Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống.  

Albert Einstein . 

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Xem phim ngày Tết - TINTIN PHIÊU LƯU KÝ .


Xem phim ngày Tết -  
TINTIN  PHIÊU LƯU KÝ . 





Nguồn :  http://tv.zing.vn/nhung-cuoc-phieu-luu-cua-tintin-phan-1








---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------








---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------








-------------------------------------------------------------------------------------------

Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống.  

Albert Einstein . 

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2014

Cuộc đời các danh nhân .

Cuộc đời các danh nhân .














































------------------------------------------------------------------------------------------- 

 Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống. 

 Albert Einstein .

Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014

Xuân mộng .


*/.~ Xuân mng .












Tóc tơ vương vấn ,
hơi thở nồng nàn .
Đường quê phố thị , 
dịu dàng nắng xuân.
Mai đào khoe sắc ,
rạng rỡ muôn phần 
...
Xuân về đây lấm bụi trần tinh khôi .
Mộng xưa vây kín , 
Mơ hoa lòng người 
Em vừa nghe thấy 

Xuân về muôn nơi .

Nụ xinh mới nở , trong nắng chan hòa
Ai đưa Xuân đến bến bờ 
Để ta trao lại bài thơ không lời .
Một khúc hoan ca gieo rắc cho đời ,
Mùa sương bạc tóc theo thời gian trôi .






* Buổi sáng lạnh hơi sương 
Trần hồng Cơ 
12/01/2014 .








Xuân sắc


Mùa xuân đã quay về như ngàn năm trước đó ,
Có gì mới không trong nhan sắc xuân xưa ?
Ta vẫn thấy em dịu dàng , đôi cánh bướm đung đưa ,
Mái tóc mây bồng bềnh , trôi trên bầu trời quang đãng .
Nắng vàng ngập ngừng bước trên bậc thềm dĩ vãng
Cố gắng lục tìm những giọt sáng tuổi thơ
Ôi sắc xuân tàn tạ tự bao giờ
Thời gian như thể bất ngờ thoáng qua .


Mùa Xuân năm ấy chúng ta cũng vừa tròn đôi tám
Nét xuân tươi thấm đẫm tóc học trò .
Hít thật sâu vào lồng ngực , những hơi thở thanh xuân
Nguồn sinh lực mới của đất trời muôn thuở .
Xuân ! xuân ! Em đã đến với mọi nhà dù rất nhiều trắc trở
Một thân thể mùa xuân tươi đẹp những ước mơ
Gác lại sau lưng bao lo lắng suy tư
Ta lại gặp em rồi , chào một mùa xuân mới !


Những mùa xuân đến với tôi thật đầy đặn tinh tươm
Đẹp làm sao khi em khoác lên mình nếp xưa lề cũ .
Bé chúc ông bà , mẹ cha sống lâu thêm trăm tuổi
Lớn chúc bạn bè , đồng nghiệp nhiều hạnh phúc an khang
Tiếng pháo giao thừa giòn giã nổ vang
Bừng sáng sắc xuân soi dáng hình em luôn trẻ mãi .


Thời gian qua mau đã bao lần xuân trở lại ?
Những nét chân chim giờ hằn dấu trên em ?
Chẳng còn mùa xuân tươi đẹp êm đềm
Cũng không thấy dáng xuân hiền năm xưa .
Chỉ có mùa đông rét mướt những cơn mưa
Tiếng gió lạnh lùng thổi qua, vô cùng tàn nhẫn .
Những lo toan vất vả , trong cuộc đời chó má
Điều chúng ta trân trọng gọi cuộc sống con người
Sao buồn quá , mất nhiều hơn được .
Bạn bè tôi ơi đã xa rồi những tháng năm tươi đẹp .
Những nụ cười khinh bạc , những ánh mắt vô tình
Chỉ thấy hả hê trong cơn khát lưu linh
Làm sao xuân quay lại khi mối tình tan vỡ ?

Giọt sương long lanh trên nhành mai mới nở
Nhắn với tôi : này bạn ơi , xuân vẫn trở về
Một mùa xuân với sức sống tràn trề
Sắc xuân ấy giờ vẫn chưa phai nhạt .
Bạn với tôi , thế thôi , không bao giờ cô độc
Với gia đình , công việc , với tình yêu .
Khi nụ xuân xinh đẹp mỹ miều
Hôn lên trán những đứa con ngây thơ hiếu thảo
Chúng ta thấy lòng mình tan chảy đi cơn bão
Để bắt đầu niềm tin mới hồi sinh .
Một chút phấn son tô điểm nét nguyên trinh ,
Và xuân hỡi , em với tôi bất tận .




Khi ngắm nhìn giọt sương trong nắng xuân
31/01/2012
Trần hồng Cơ








------------------------------------------------------------------------------------------- 

 Hướng Chân Thiện Mỹ
 Độc lập tư duy
 Hoài nghi hợp lý
 Tự do sáng tạo .

Thứ Ba, 7 tháng 1, 2014

Kích-Tôn-Sơn bá tước - Monte Cristo - Alexandre Dumas .

Kích-Tôn-Sơn bá tước - Monte Cristo - Alexandre Dumas . 


nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Bá tước_Monte_Cristo

TÁC PHẨM .

Bá tước Monte Cristo (tiếng Pháp: Le Comte de Monte-Cristo, phát âm tiếng Việt: Môngtơ-crixtô) là một tiểu thuyết phiêu lưu của Alexandre Dumas cha. Cùng với một tác phẩm khác của ông là Ba chàng lính ngự lâm, tác phẩm thường được xem là tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của Dumas. Cuốn sách này đã được viết xong năm 1844. Giống như nhiều tiểu thuyết khác của ông, tiểu thuyết này đã được mở rộng từ cốt truyện do người giúp việc cho nhà văn Auguste Maquet cộng tác.

Câu chuyện xảy ra tại Pháp, Italia, các đảo trong Địa Trung Hải và Levant trong thời kỳ các sự kiện lịch sử trong năm 1815–1838 (ngay trước sự kiện Một trăm ngày dưới sự cai trị của Louis-Philippe của Pháp). Sự sắp đặt lịch sử là yếu tố cơ bản của cuốn sách. Câu chuyện chủ yếu liên quan đến các chủ đề công lý, sự báo thù, lòng từ bi, và lòng khoan dung, và được kể theo phong cách một câu chuyện phiêu lưu. Dumas lấy ý tưởng cho cuốn Bá tước Monte Cristo từ một câu chuyện thật mà ông tìm thấy trong một quyển hồi ký của một người đàn ông có tên Jacques Peuchet. Peuchet thuật lại câu chuyện của một người thợ đóng giày có tên Pierre Picaud, một người sống ở Paris năm 1807. Picaud đã hứa hôn với một người phụ nữ giàu có, nhưng bốn người bạn ghen ghét đã vu khống tố cáo ông làm gián điệp cho Anh. Ông đã bị tống vào ngục trong 7 năm. Trong thời gian ở tù, một người bạn tù lúc hấp hối đã tiết lộ cho ông một kho báu được giấu ở Milano. Khi Picaud được thả năm 1814, ông đã lấy được kho báu, trở về với một tên gọi khác và đến Paris và sống ở đó 10 năm và đã trả thù thành công đám bạn cũ đã vu khống kia. Nhưng sau khi trả thù được người cuối cùng đã vu khống mình, ông chợt nhận ra rằng trả thù sẽ chẳng có gì là tốt đẹp sau khi trả thù.

Nội dung


Câu chuyện bắt đầu với việc chiếc tàu Pharaon của hãng buôn Morrel cập cảng Marseille, người điều khiển con tàu là Edmond Dantès, một thanh niên 18 tuổi và là thuyền phó của tàu. Trong chuyến đi lần này, thuyền trưởng tàu là Leclère bị bệnh qua đời, trước khi mất, ông đã đưa cho Dantès một bức thư và dặn anh phải trao tận tay cho Napoléon Bonaparte lúc này đang ở đảo Elba. Dantès đã làm theo lời ông và sau đó Napoléon lại bảo anh trao một bức thư cho ngài Noitier ở Paris. Lúc trở về Marseille, Edmond được ông Morrel thăng chức thuyền trưởng, Edmond xin phép nghỉ 2 tuần để đi Paris trao bức thư và sau đó tổ chức lễ cưới với cô Mercédès xinh đẹp.

Danglars, một tên kế toán của tàu Pharaon, luôn ghen ghét Dantès, đã lập ra một kế hoạch để hãm hại anh. Hắn mời Fernand Mondego, anh họ của Mercédès, một người say mê nàng nhưng không được đáp lại, cùng với Caderousse, hàng xóm của Edmond đi uống rượu. Danglars viết một bức thư nặc danh tố giác Edmond cấu kết với Napoleon rồi xui Fernand gửi lên chính quyền.

Edmond bị bắt ngay trong lễ cưới. Người hỏi cung anh là phó biện lý Villefort. Lúc đầu, nhìn vẻ mặt lương thiện của Edmond, hắn định tha cho anh, nhưng khi thấy tên Noitier trên bức thư, hắn rất bàng hoàng và vội vàng đốt bức thư, sau đó hắn cho giam Edmond vào nhà tù If.Ở đây, Edmond may mắn gặp được cha Pharia-một người thông thái.Cha đã truyền cho chàng những kiến thức lịch sử, vật lý, ngoại ngữ và đặc biệt hơn cả là bí mật về kho báu.

Sau khi cha Pharia qua đời, Edmond đã vượt ngục thành công và sở hữu một số của cải khổng lồ.Ông bí mật đổi tên thành bá tước Monte Cristo và thâm nhập vào giới thượng lưu Paris.Bá tước đã lần lượt trả ơn những người đã giúp đỡ và trừng phạt thích đáng những kẻ tâm địa xấu xa đã từng hại mình.Bá tước Monte Cristo là câu chuyện thể hiện sâu sắc quy luật nhân quả ở đời:Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo.

Phim và TV

1914 : Le Comte de Monte-Cristo được dựng thành phim bởi André Ponctal
1928 : "Monte Cristo" được dựng thành phim bởi Henri Fescourt cùng với Jean Angelo, Lil Dagover, Gaston Modot, Mary Glory, Pierre Batcheff, Jean Toulout.
1934 : "Le Comte de Monte-Cristo" được dựng thành phim bởi Rowland V. Lee cùng với Robert Donat dans le rôle d'Edmond Dantès.
1943 : Le Comte de Monte-Cristo, được dựng thành phim bởi Robert Vernay, cùng với Pierre Richard-Willm, Michèle Alfa, Aimé Clariond, Marcel Herrand, Lise Delamare, Henri Bosc
1948 : Le Secret de Monte Cristo được dựng thành phim bởi Albert Valentin
1955 : Le Comte de Monte-Cristo, được dựng thành phim bởi Robert Vernay, cùng với Jean Marais, Lia Amada, Roger Pigaut, Jacques Castelot, Paolo Stoppa, Jean-Pierre Mocky
1961 : Le Comte de Monte-Cristo, được dựng thành phim bởi Claude Autant-Lara, cùng với Louis Jourdan, Yvonne Furneaux, Pierre Mondy, Bernard Dhéran, Claudine Coster, Yves Rénier, Mary Marquet
1968 : Sous le signe de Monte-Cristo, được dựng thành phim bởi André Hunebelle, cùng với Paul Barge, Claude Jade, Anny Duperey, Pierre Brasseur, Michel Auclair, Raymond Pellegrin
2002 : La Vengeance de Monte-Cristo, được dựng thành phim bởi Kevin Reynolds, cùng với Jim Caviezel, Guy Pearce, Dagmara Dominczyk, Richard Harris
1934: Count of Monte Cristo, directed by Rowland V. Lee
1940: The Son of Monte Cristo, directed by Rowland V. Lee
1946: The Return of Monte Christo, directed by Henry Levin
1975: Count of Monte Cristo, directed by David Greene
1998: The Count of Monte Cristo, television serial starring Gérard Depardieu
2002: Count of Monte Cristo, directed by Kevin Reynolds


Tác phẩm phỏng theo (sách)

1853 " A Mão do finado" Alfredo Hogan
1881: The Son of Monte Cristo, Jules Lermina
1869: The Countess of Monte Cristo, Jean Charles Du Boys, also 1934 và 1948
1946 The Wife of Monte Cristo
Kịch nói và nhạc kịch[sửa | sửa mã nguồn]
2000 Monte Cristo by Karel Svoboda (music) and Zdenek Borovec (lyrics), Prague
2003 The Count of Monte Cristo (Граф Монте-Кристо) by Alexandr Tumencev and Tatyana Ziryanova
2006 Monte Cristo - The musical by Jon Smith và Leon Parris
2008 Monte-Cristo by Roman Ignatyev (composer) and Yuli Kim (lyrics), Moscow
2009 The Count of Monte Cristo by Frank Wildhorn
2009 The Count of Monte Cristo, by Ido Ricklin
2010 The Count of Monte Cristo, Rock Opera by Pete Sneddon


Trên đài phát thanh

1938 - Orson Welles và the Mercury Theatre on the Air players (radio).
1939 - Orson Welles with Agnes Moorehead at Campbell Playhouse (radio)
1939 - Robert Montgomery on the Lux Radio Theater (radio)
1947 - Carleton Young (radio series)
1960s - Paul Daneman for Tale Spinners For Children series (LP) UAC 11044
1961 - Louis Jourdan for Caedmon Records (LP)
1987 - Andrew Sachs on BBC Radio

TÁC GIẢ .


Alexandre Dumas (24 tháng 7 năm 1802 – 5 tháng 12 năm 1870), còn được gọi Alexandre Dumas cha để phân biệt với con trai ông, ông là một nhà văn Pháp nổi tiếng. Những tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng của ông như là Ba chàng lính ngự lâm, Bá tước Monte Cristo giành được sự hâm mộ của độc giả khắp thế giới từ hơn một thế kỷ nay.

Alexandre Dumas sinh tại Villers-Cotterêts (Aisne). Ông là con trai của Tướng Dumas, vị tướng trong cuộc cách mạng Thomas Alexandre Davy de La Pailleterie. Cha Dumas chết khi Dumas mới được ba tuổi rưỡi, ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ. Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử tước Adolphe Ribbing de Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại.

Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Tử tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie-Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: kịch và tiểu thuyết lịch sử.

Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba chàng lính ngự lâm, còn được dịch Ba chàng ngự lâm pháo thủ (Trois Mousquetaires) và Bá tước Monte Cristo (Le Comte de Monte-Cristo) năm 1844.

Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt, cuốn Đại từ điển ăn uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con.

Dumas nức tiếng là người thay nhân tình như thay áo. Quả thật, ông cưới vợ chỉ một lần, gia đình này tan vỡ rất nhanh. Ông dan díu với 25 người đàn bà, có nhiều con hoang, mỗi con của một mẹ. Chỉ 3 con được công khai, trong đó con trai, cũng tên Alexandre Dumas, thường được gọi Alexandre Dumas con, trở nên một nhà văn lừng danh. Con gái thứ hai thì cuộc đời lỡ làng, con gái út – mà mẹ cô trẻ hơn Dumas đến gần 40 tuổi – thì chết cô đơn năm 1936 ở một làng quê trong nghèo khổ và không được ai biết đến là con gái cưng của một trong những vĩ nhân của nước Pháp. Mãi gần đây, người ta mới vỡ lẽ rằng Dumas đến với nhiều phụ nữ là do thương họ. Ông đồng thời chu cấp tiền nong đầy đủ cho vài người.

Dumas là người hết sức quý trọng tình bạn. Trừ Balzac và Musset, các nhà văn cùng thời đều chơi với ông, thân nhất là Victor Hugo, người đã đánh giá chính xác vai trò của ông ngay khi ông qua đời. Hugo viết: "Trong thế kỷ này, không ai được dân chúng yêu mến sâu rộng và thắm thiết bằng Alexandre Dumas. Các thành công của ông đều tầm cỡ hơn thành công nói chung nhiều. Đó là những đại thắng lợi. Đó là những ngọn đèn pha". Ông cũng là người đại lượng, năm 1831, do ghen tức với thành công của vở Antony của ông, Hugo cho người viết báo chê bai. Hai người giận nhau. Song năm 1834, ông chủ động giảng hoà.

Để hoàn toàn chủ động trong hoạt động sân khấu, ông bỏ ra một món tiền lớn để xây dựng Nhà hát kịch lịch sử của riêng ông. Khán giả rất nồng nhiệt, song không bù đắp nổi chi phí bỏ ra, nên cuối cùng nhà hát đóng cửa. Từ năm 1848, ông đã ra tờ báo đầu tiên. Sau đó, ông còn ra nhiều tờ báo nữa. Nhưng do quản lý kém, bị kiểm duyệt gây khó dễ, các tờ báo ấy tồn tại không bền, và ngốn của ông rất nhiều công sức và tiền bạc.

Ông cũng hai lần ứng cử vào Nghị viện đều thất bại, ứng cử vào Hội quốc ước thì chỉ được 261 phiếu, trong khi các đối thủ được 220.000, rồi phải sang Bỉ lưu vong năm 1851, sau cuộc đảo chính của Napoléon III.

Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: "trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời" (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti de la vie du passé), "nơi một nghĩa địa đẹp (Villers-Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh..." (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres)

Tác phẩm

Kịch

La chasse et l’amour, 1825
La noce et l’enterrement, 1826
Henri III et sa cour, 1829
Christine, ou Stockholm, Fontainebleau et Rome, 1830
Napoléon Bonaparte, ou trente ans de l’histoire de France, 1831
Antony, 1831
Charles VII chez ses grands vassaux, 1831
Teresa, 1831
La Tour de Nesle, 1832
Kean, 1836
Caligula, 1837
Mademoiselle de Belle-Isle, 1837
Des Demoiselles de Saint-Cyr, 1843
La jeunesse de louis XIV, 1854

Tiểu thuyết

Souvenirs d’Anthony, 1835
Chroniques de France Isabel de Bavière, 1835
La salle d’armes, 1838
Le capitaine Paul, 1838
Le capitaine Pamphile, 1839
Crimes célèbres, 1839-1841
Napoléon, 1840
Othon L’archer, 1840
Les Stuarts, 1840
Maître Adam Le calabrais, 1840
Les aventures de John Davys, 1840
Le maître d’armes, 1840-1841
Praxède, 1841
Nouvelles Impressions de Voyage (Midi de la France), 1841
Excursions sur les bords du Rhin, 1841
Souvenirs de voyage - Une année à Florence , 1841
Jehanne la pucelle 1429-1431, 1842
Le speronare, 1842
Le capitaine arena, 1842
Le Chevalier d'Harmental, 1842. Tiểu thuyết thành công đầu tiên.
Le Corricolo, 1843
Filles, lorettes et courtisanes, 1843
Georges, 1843
Sylvandire, 1844
Fernande, 1844
Les trois mousquetaires, 1844
Le château d’Eppstein, 1844
Cécile, 1844
Gabriel Lambert, 1844
Louis XIV et son siècle, 1844
Vingt ans après, 1845
La Guerre des Femmes (Những quận chúa nổi loạn), 1845
Bá tước Monte Cristo, 1845 – 1846
Une fille du régent, 1845
La Reine Margot (Hoàng hậu Mác gô), 1845
Les Médicis, 1845
Les frères corses, 1845
Le chevalier de Maison-Rouge, 1845-1846
La Dame de Monsoreau, 1846
Le bâtard de Mauléon, 1846
Joseph Balsamo, 1846, inspiré de la vie de Giuseppe Balsamo
Les deux Diane, 1846
Impressions de voyage, De Paris à Cadix, 1847
Les Quarante-cinq, 1847
Le Vicomte de Bragelonne (Cái chết của ba người lính ngự lâm), 1848
Les mille et un fantômes, 1849
Le Collier de la reine, inspiré de l'affaire du collier de la reine 1849
La femme au collier de velours, 1850
La Tulipe noire, (Hoa Tuy líp đen), 1850
Le trou de l’enfer, 1850
La colombe, 1850
Le Drame de Quatre Vingt Treize, 1851
Impression de voyage (en Suisse), 1851
Ange Pitou, 1851
Olympe de Clèves, 1851
La comtesse de Charny, 1853
Le pasteur d’Ashbourne, 1853
Isaac Laquedem, 1853
Les drames de la mer, 1853
Ingénue, 1853
La jeunesse de Pierrot, 1854
El salteador, 1855
Une vie d’artiste, 1854
Catherine Blum, 1854
Saphir, 1854
Vie et Aventures de la princesse de Monaco, 1854
Les Mohicans de Paris, 1854-1855
Souvenirs de 1830 à 1842, 1854
La dernière année de Marie Dorval, 1855
Marie Giovanni, journal d’une parisienne, 1855
Le page du duc de Savoir, 1855
Les grands hommes en robe de chambre, César, Henri IV, Richelieu, 1855 –1856
Madame du Deffand, 1856
Les compagnons de Jéhu, 1856
L’homme aux contes, 1857
Charles le Téméraire, 1857
Le meneur de loups, 1857
La dame de volupté, 1857
Les louves de Machecoul, 1858
De Paris à Astrakan, 1859
Jane, 1859
Histoire d’un cabanon et d’un chalet, 1859
La maison de glace, 1860
La route de Varennes, 1860
Mémoires de Garibaldi, 1860
Une aventure d’amour, 1860
Le père Gigogne, contes pour les enfants, 1860
La marquise d’Escoman, 1860
Une nuit à Florence sous Alexandre de Médicis, 1861
Les morts vont vite, 1861
Bric à Brac, 1861
La princesse Flora, 1863
La San-Felice, 1863
La boule de neige, 1863
Les Blancs et les Bleus1867
Les hommes de fer, 1867
La terreur prussienne, souvenirs dramatiques, 1868

Xuất bản sau khi ông qua đời

Le grand dictionnaire de cuisine, 1871
Création et rédemption, 1863
La fille du marquis, 1863
Le prince des Voleurs, 1863
Robin Hood le proscrit, 1863
L’île de feu, 1863
Le Chevalier de Sainte-Hermine. Tiểu thuyết cuối cùng của ông, xuất bản ban đầu dưới dạng bản thảo vào năm 1869, mới được tìm lại ở Thư viện Quốc gia Pháp và xuất bản lần đầu tiên dưới dạng tác phẩm hoàn chỉnh năm 2005.






Bản tiếng Anh .

http://www.gutenberg.org/files/1184/1184-h/1184-h.htm#linkC2HCH0117

http://www.gutenberg.org/ebooks/1184






-------------------------------------------------------------------------------------------

 Hướng Chân Thiện Mỹ
 Độc lập tư duy
 Hoài nghi hợp lý
 Tự do sáng tạo .

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran