Nhạc sĩ NGUYỄN VĂN ĐÔNG
https://vi.wikipedia.org/wiki/
Nguyễn Văn Đông (1932 – 2018) nguyên là một sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Tuy nhiên, nhiều người biết đến ông với tư cách là một nhạc sĩ người Việt nổi tiếng trước năm 1975, với các ca khúc "Chiều mưa biên giới", "Sắc hoa màu nhớ"... Một số bút danh khác của ông là Phượng Linh, Phương Hà, Vì Dân và Đông Phương Tử
Thân thế
Ông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận Nhất, Sài Gòn, miền Nam Việt Nam trong một gia đình nguyên là một điền chủ lớn có nhiều ruộng đất ở Tây Ninh. Thiếu thời, do gia đình có điều kiện, ông học tại tư gia dưới sự hướng dẫn của thầy học. Sau ông theo học bậc Trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh, Đa Kao. Năm 1945, Chính quyền Pháp đóng cửa trường Huỳnh Khương Ninh.
Tham gia Thiếu sinh quân Đông Dương
Năm 1946, gia đình gửi ông vào trường Thiếu sinh quân Việt Nam ở Vũng Tàu, khi ấy ông mới 14 tuổi. Thời gian tại đây, ông được học nhạc với các Giảng viên âm nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp sang giảng dạy. Chỉ sau một thời gian ngắn, ông trở thành một thành viên của ban Quân nhạc Thiếu sinh quân, học cách sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như "Thiếu sinh quân hành khúc", "Tạm biệt mùa hè"... Năm 19 tuổi, ông rời trường Thiếu sinh quân và được cấp Chứng chỉ tốt nghiệp tương đương với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Binh nghiệp
Phục vụ Quân đội Quốc gia Việt Nam
Cuối năm 1951, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia Việt Nam, mang số quân 52/120.117, sau đó được cử theo học khóa 4 trường Võ bị Địa phương Nam Việt Vũng Tàu. Tháng 10 năm 1952, mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy. Qua năm 1953, ông được cử đi học khóa huấn luyện "Ðại đội trưởng" tại trường Võ bị Ðà Lạt. Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa "Tiểu đoàn trưởng" tại Trung tâm Chiến thuật Hà Nội. Ra trường, ông được giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trọng pháo 553 và là Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia khi mới 22 tuổi.Sau Hiệp định Genève, 1954, di chuyển vào Nam ông được thăng cấp Trung úy, phục vụ tại Phân khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng phòng Hành quân, dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Đầu tháng 11 năm 1955, ông chuyển biên chế sang Quân đội Việt Nam Cộng hòa, được cử kiêm nhiệm chức vụ Trưởng phòng 3 (Tác chiến) của Phân khu Đồng Tháp Mười. Năm 1956 ông tham gia Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu do tướng Dương Văn Minh làm Tư lệnh, tướng Minh từng đến bắt tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ.
Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ huy tham mưu tại Tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ.Ngày Quốc khánh Đệ Nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm.
Sau đảo chính 1963, ông được thăng cấp Thiếu tá và được chuyển về Bộ Tổng Tham mưu phục vụ ở Khối Lãnh thổ. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung tá phụ trách một Phòng trong Khối Lãnh thổ. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Đại tá chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng Tham mưu Phó. Ông đã ở chức vụ này cho đến cuối tháng 4 năm 1975.
Cuộc sống lưu đày
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, do là một sĩ quan cao cấp của chế độ cũ, ông bị chính quyền mới bắt đi Học tập cải tạo, bắt đầu từ trại Suối Máu, một thời gian sau, bị đưa về giam ở trại tù Chí Hòa cho đến khi được trả tự do vào năm 1985. Tuy nhiên, khi Chương trình Ra đi có Trật tự được chính phủ Việt Nam cho phép thực hiện, ông đã không xin đi xuất cảnh, mà ở lại Việt Nam cùng gia đình cho đến ngày qua đời.
Hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc
Ngay từ thập niên 1950, ông nổi tiếng khi là Trưởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành phần Ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim... Ông đã tổ chức và điều khiển các chương trình Đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa.
Từ năm 1958, ông là Trưởng ban Ca nhạc Tiếng thời gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc... Năm sau ông là Trưởng ban tổ chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở cấp Quốc gia, đã quy tụ trên 40 Đoàn Văn nghệ đại diện cho cả Miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải Âm nhạc Quốc gia, một giải thường do Đệ Nhất Phu nhân Trần Lệ Xuân trao tặng.
Ông còn là Giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân... Hai cơ sở của ông cho ra đời nhiều chương trình tân nhạc cũng như cổ nhạc gồm các vở Tuồng và Cải lương. Chính ông là người đã tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông đã thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng trong đó có Khánh Ly với băng nhạc Sơn Ca 7, Thái Thanh và Ban Thăng Long - Sơn Ca 10, Lệ Thu - Sơn Ca 9, Phương Dung - Sơn Ca 5 và 11, Giao Linh - Sơn Ca 6, Sơn Ca - Sơn Ca 8... và một số album riêng cho Trịnh Công Sơn.
Nhiều sáng tác của ông viết về chủ đề người lính Miền Nam thời đó. Nhạc phẩm "Phiên gác đêm xuân" được ông viết vào đêm 30 Tết năm 1956 khi gác phiên ở khu 9 Đồng Tháp Mười. "Chiều mưa biên giới" ra đời năm 1956 và nổi tiếng qua tiếng hát của Trần Văn Trạch. "Chiều mưa biên giới" và "Mấy dặm sơn khê" đã từng gây cho ông nhiều khó khăn khi bị Bộ Thông tin Việt Nam Cộng hòa ra quyết định cấm phổ biến vì lý do phản chiến vào năm 1961. "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp" nổi tiếng qua tiếng hát của Hà Thanh nhưng thường bị nhầm với nhạc phẩm Khúc tình Kinh Kha của Phạm Duy. Hà Thanh cũng chính là ca sĩ trình bày thành công nhất các nhạc phẩm của ông.
Ông còn có nhiều bút danh khác như Phượng Linh, Phương Hà trên một số nhạc phẩm tình cảm như "Khi đã yêu", "Thầm kín", "Niềm đau dĩ vãng", "Nhớ một chiều xuân"... Với bút danh Đông Phương Tử và Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng, Cải lương nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975 như Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng...
Những năm cuối đời
Từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Đông ngừng sáng tác nhạc. Sau khi được trả tự do, ông về sống thầm lặng cùng gia đình tại Phú Nhuận, Tp HCM.
Ông qua đời vào 19 giờ 30 phút ngày 26 tháng 2 năm 2018 tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm
Số thứ tự Tên tác phẩm Bút hiệu Chú thích
Anh
Nguyễn Văn Đông
2Anh trước, tôi sau
nt
Áo trắng người yêu
nt
3
Bà mẹ hai con
nt
4
Bài ca hạnh phúc
nt
5
Bến đò Biên giới
nt
6
Bông hồng cài áo trắng
nt
Khác với "Bông hồng cài áo" của NS Phạm Thế Mỹ
7
Chiều mưa Biên giới
nt
8
Chúc tết
Đông Phương Tử
9
Chuyện tình hoa Pensée
Nguyễn Văn Đông
10
Cuốn theo chiều gió
nt
11
Cung thương ngày cũ
nt
Đồng sáng tác với Nhạc sĩ Mạnh Phát
12
Dáng xuân xưa
nt
Dù biết thế
nt
13
Đêm buồn
nt
Đồng sáng tác với Nhạc sĩ Lam Phương
14
Đêm thánh huy hoàng
nt
15
Đôi bờ thương nhớ
nt
16
Đồng Tháp duyên gì
Vì Dân
Viết chung với Nhạc sĩ Minh Kỳ
17
Hải ngoại thương ca
Nguyễn Văn Đông
18
Hiến dâng
nt
Hoa đêm
nt
19
Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp
nt
20
Khúc xuân ca
nt
21
Lá thư người lính chiến
nt
Lời buồn thiếu phụ
nt
22
Lời hứa ban đầu
Phương Hà
23
Màu xanh Noel
nt
24
Mấy dặm sơn khê
Nguyễn Văn Đông
25
Mùa sao sáng
nt
26
Ngày mai anh về
nt
27
Ngày vui pháo nhuộm đường
nt
28
Người tình yêu dấu
nt
29
Nguyện cầu trên bến ngàn năm
nt
30
Nếu có em bên anh
nt
31
Nhớ một chiều xuân
nt
32
Nhớ người viễn xứ
nt
Đồng sáng tác với Nhạc sĩ Lâm Tuyền
33
Núi và gió
nt
34
Phiên gác đêm xuân
nt
35
Sắc hoa màu nhớ
Vì Dân
36
Thu hoài cảm
Nguyễn Văn Đông
Thương về quán trọ
nt
37
Tình cố hương
nt
38
Tình đầu xót xa
nt
39
Trái tim Việt Nam
nt
40
Truông mây
nt
41
Về mái nhà xưa
nt
42
Vô thường
nt
43
Việt Nam hôm nay
Phương Hà
44
Xa người mình yêu
nt
45
Xin chúa thấu lòng con
Phượng Linh
46
Bóng nhỏ giáo đường
nt
47
Cay đắng tình đời
nt
48
Chiếc bóng công viên
nt
49
Cô nữ sinh Gia Long
nt
50
Dạ sầu
nt
51
Đoàn chim cánh sắt
nt
Đồng sáng tác với Ngọc Sơn
52
Đom đóm
nt
53
Đoạn tuyệt
nt
Em vẫn của anh
nt
54
Giáo đường chiều chủ nhật
nt
55
Khi đã yêu
nt
Lời cuối cùng cho nhau
nt
56
Lời giã biệt
nt
57
Mây chiều
nt
Viết chung với Mây Tần
58
Nỗi buồn duyên kiếp
nt
59
Niềm đau dĩ vãng
nt
60
Thầm kín (Bẽ bàng)
nt
61
Thương muộn
nt
62
Thương về mùa đông biên giới
nt
63
Tình người ngoại đạo
nt
64
Rồi một đêm đó
nt
65
Xin đừng trách anh
nt
66
Ave Maria
Nguyên tác:
Franz Schubert
Nguyễn Văn Đông soạn lời Việt
67
Đêm thánh vô cùng
Stille Nacht
Nguyên tác:
Franz Xaver Gruber
nt
68
Hồi chuông nửa đêm
The One Horse Open Sleigh
(Jingle Bells)
Nguyên tác:
James Pierpont
nt
Chú thích
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là tác giả của nhiều nhạc phẩm phổ biến: Chiều mưa biên giới, Nhớ một chiều xuân, Sắc hoa màu nhớ, Khúc xuân ca... Ông còn dùng một số bút danh khác để sáng tác như: Phượng Linh, Vì Dân và Đông Phương Tử, Phương Hà.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã viết những ca khúc đầu tiên khi ông mới 16 tuổi như Tạm biệt mùa hè...
Ông bắt đầu nổi tiếng với Chiều mưa biên giới, Phiên gác đêm xuân, Mấy dặm sơn khê...
Ông đã sử dụng bút danh Đông Phương Tử và Phượng Linh để viết nhạc nền cho nhiều vở tuồng và cải lương. Ông cũng là đạo diễn của 50 vở tuồng, cải lương nổi tiếng như: Nửa đời hương phấn, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng, Đoạn tuyệt ...
Ông đồng thời viết khá nhiều bản thánh ca: Màu xanh Noel, Mùa sao sáng, Bóng nhỏ giáo đường,Tình người ngoại đạo… và viết lời Việt cho hàng loạt bản nhạc cổ điển, nhạc ngoại Giáng sinh: Ave Maria, Đêm thánh vô cùng (Stille Nacht), Hồi chuông nửa đêm (Jingle Bells)…
Từng là là giám đốc Hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông chính là người đưa ra sáng kiến thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm.
Các danh ca thời đó như Khánh Ly, Thái Thanh, Lệ Thu, Phương Dung, Giao Linh, Thanh Tuyền... đều đã thực hiện album riêng từ sáng kiến của ông. Ngoài ra, ông còn thực hiện album riêng cho những sáng tác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Sinh năm 1932 tại Sài Gòn, từ sau năm 1975 ông sống ở ngôi nhà trên đường Nguyễn Trọng Tuyển, quận Phú Nhuận (TP.HCM).
Gần gũi nhất với gia đình nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông những ngày cuối cùng là vợ chồng ca sĩ Giao Linh. Vợ chồng ca sĩ Giao Linh là người phụ trách cáo phó, lo hậu sự cùng vợ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông.
Vợ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cũng cho hay lâu nay nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông có mắc nhiều bệnh như thoái hóa khớp, tiểu đường, đau dạ dày và huyết áp không ổn định.
"Những bệnh đó tôi đều biết và gìn giữ được bởi tôi cũng vốn xuất phát trong ngành y, nhưng 12h trưa qua (26-2) thì ông phải nhập viện cấp cứu vì phù động mạnh chủ.
Đến 19h30 hôm qua thì ông ra đi vì vỡ động mạch chủ. Trước khi mất năm mười phút, ông vẫn rất tỉnh táo trò chuyện với tôi nhẹ nhàng" - vợ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông kể.
Linh cữu của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông được quàn tại tư gia (271A Nguyễn Trọng Tuyển, phường 10, quận Phú Nhuận, TP.HCM). Lễ động quan diễn ra vào 12h ngày 2-3 (nhằm ngày 15 tháng giêng Mậu Tuất), sau đó nhạc sĩ được hỏa táng tại Bình Hưng Hòa. Gia đình thông báo xin miễn chấp điếu, hoa quả.
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a ă Quỳnh Nguyễn (27 tháng 2 năm 2018). “Tác giả 'Chiều mưa biên giới' qua đời ở tuổi 86”. Tuổi Trẻ. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
- ^ “Tác giả ca khúc Chiều Mưa Biên Giới qua đời ở Sài Gòn”. BBC. 27 tháng 2 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
- ^ Nguyên quán của ông ở Lợi Thuận, Bến Cầu, Tây Ninh
- ^ a ă Trường Kỳ (26 tháng 11 năm 2008). “Nguyễn Văn Đông: Giữa binh nghiệp và âm nhạc”. TiVi Tuần-san.
- ^ a ă Du Tử Lê. “Binh nghiệp và nhạc nghiệp của Nguyễn Văn Ðông”. Người Việt. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ Còn gọi là trường Võ bị Cap Saint Jacques
- ^ Sau Hiệp định Genève, chuyển cơ sở vào Nam tọa lạc tại Sài Gòn cải danh thành trường Đại học Quân sự. Năm 1960 trường di chuyển lên Đà Lạt đổi tên thành trường Chỉ huy và Tham mưu. Năm 1971, một lần nữa trường lại di chuyển cơ sở về Long Bình, Biên Hòa
- ^ Bức ảnh chụp tướng Minh bắt tay ông đã được in trên trang nhất của báo Chiến sĩ Cộng hòa.
- ^ Trong thời gian này ông cho ra đời tác phẩm "Nhớ một chiều xuân"
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Nhạc sĩ 'Chiều mưa biên giới' qua đời
- Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, tác giả ‘Chiều Mưa Biên Giới’, qua đời
Ngọc Lan/Người Việt
WESTMINSTER, California (NV) – Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, tác giả tình khúc nổi tiếng “Chiều Mưa Biên Giới”, vừa qua đời lúc 4 giờ 30 sáng Thứ Hai, ngày 26 Tháng Hai (tức 7 giờ 30 tối 26 Tháng Hai theo giờ Việt Nam) tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn, hưởng thọ 85 tuổi.
“Tôi nhận được tin do ca sĩ Giao Linh từ Sài Gòn gọi sang cho hay. Giao Linh là học trò rất thân với thầy Nguyễn Văn Đông. Chị Giao Linh vào bệnh viện thăm thầy buổi trưa, vừa về vài tiếng thì nghe người nhà của thầy gọi cho biết là thầy qua đời,” nhạc sĩ Trần Quốc Bảo cho biết.Nhạc sĩ Trần Quốc Bảo, chủ nhiệm đặc san Thế Giới Nghệ Sĩ, xác nhận tin trên với phóng viên Người Việt.
Cũng theo lời nhạc sĩ Trần Quốc Bảo, “Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông được đưa vào bệnh viện một vài ngày trước do khó thở, và vì những bệnh già chứ không phải bệnh tật gì nặng hết. Thế nên việc ông ra đi đột ngột khiến ai cũng bàng hoàng. Bản thân tôi cũng cảm thấy buồn quá!”
Theo Wikipedia, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 Tháng Ba, 1932 tại Sài Gòn, trong một gia đình nguyên là một điền chủ lớn có nhiều ruộng đất ở Tây Ninh
Ông nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc cuối cùng là đại tá. Ông xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tầu và sau đó là trường Võ Bị Quốc Gia do Chính phủ Quốc gia mở ra tại miền Nam Việt Nam vào cuối thập niên 40 của thế kỷ trước.
Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa “Tiểu đoàn trưởng” tại Trung tâm Chiến thuật Hà Nội. Ông từng giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trọng pháo 553 và là Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia khi mới 22 tuổi.
Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ huy tham mưu tại tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ.
Tháng 11, 1972, ông được thăng cấp Đại tá chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng Tham mưu Phó. Ông đã ở chức vụ này cho đến cuối Tháng 4 năm 1975.
Ông bị bắt đi tù cải tạo 10 năm. Kể từ đó ông đã ngừng sáng tác nhạc. Ông không xin đi xuất cảnh theo diện H.O, mà ở lại Sài Gòn sống cùng vợ tại quận Phú Nhuận.
Trong thời gian ở trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, ông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp sang giảng dạy. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như “Thiếu sinh quân hành khúc”, “Tạm biệt mùa hè”…
Trong thập niên 1950, ông nổi tiếng khi là Trưởng Đoàn Văn Nghệ Vì Dân với thành phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ sân khấu danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim…
Từ năm 1958, ông là Trưởng ban Ca nhạc Tiếng thời gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc…
Ông còn là Giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân…
Nhiều sáng tác của ông viết về chủ đề người lính Việt Nam Cộng Hòa thời đó, như nhạc phẩm “Phiên gác đêm xuân” được ông viết vào đêm Ba Mươi Tết năm 1956 khi gác phiên ở khu 9 Đồng Tháp Mười, “Chiều mưa biên giới” ra đời năm 1956 và nổi tiếng qua tiếng hát của Trần Văn Trạch…
Ông còn có nhiều bút danh khác như Phượng Linh, Phương Hà trên một số nhạc phẩm tình cảm như “Khi đã yêu”, “Thầm kín”, “Niềm đau dĩ vãng”, “Nhớ một chiều xuân”…
Với bút danh Đông Phương Tử và Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng, cải lương nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975 như Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng…
Về gia đình riêng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, theo nhạc sĩ Trần Quốc Bảo thì “Hầu như những người thân đều biết cô Nguyệt Thu là vợ của thầy Đông. Hai thầy cô lấy nhau từ khi nào thì không rõ nhưng chắc chắn một điều là sau khi thầy ra khỏi tù cải tạo năm 1985, cô Thu một tay quán xuyến một cửa hàng bán bánh mì, giò chả tên Nhiên Hương tại nhà đường Nguyễn Trọng Tuyển, Phú Nhuận, và lo lắng chăm sóc cho thầy không rời nửa bước.”
“Với thầy Đông, tôi chỉ biết nói rằng tôi kính phục ông nhất hai điểm, đó là tài hoa và tư cách,” nhạc sĩ Trần Quốc Bảo cảm nhận.
Chủ nhiệm đặc san Thế Giới Nghệ Sĩ nói thêm, “Được biết, do không có con cháu, nên trong cáo phó của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông có ghi ‘không nhận vòng hoa, phúng điếu’ vì sợ sau này không có người trả lễ.” (Ngọc Lan)
Vĩnh biệt nhạc sĩ Chiều mưa biên giới - Nguyễn Văn Đông
(PLO)- Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, tác giả của hàng loạt những bản tình ca: Chiều mưa biên giới, Khúc xuân ca, Nhớ một chiều xuân, Niềm đau dĩ vãng, Tình cố hương, Về mái nhà xưa… vừa qua đời vào tối nay (26-2) tại BV Chợ Rẫy (TP.HCM).
Hiện gia đình ca sĩ Giao Linh đang ở BV Chợ Rẫy để lo hậu sự cho nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, dự kiến trong ngày mai (27-2), thông tin chính thức về tang lễ sẽ được thông báo.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là tác giả của hàng loạt những bản tình ca: Chiều mưa biên giới, Khúc xuân ca… và nhiều bản Thánh ca: Màu xanh Noel, Mùa sao sáng, Bóng nhỏ giáo đường, Tình người ngoại đạo… Ông cũng là người viết lời Việt cho hàng loạt bản nhạc cổ điển, nhạc ngoại Giáng sinh: Ave Maria, Đêm thánh vô cùng (Stille Nacht), Hồi chuông nửa đêm (Jingle Bells)…
Sinh năm 1932 tại Sài Gòn, vốn là một tên tuổi lớn của nền tân nhạc nhưng từ sau năm 1975 ông chọn sống trong thinh lặng ở một căn nhà thuộc quận Phú Nhuận (TP.HCM).
Vợ chồng ca sĩ Giao Linh là người thân thiết của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông hơn 50 năm qua. (Ảnh do chương trình cung cấp)
Bên cạnh tân nhạc, dưới nhiều bút danh khác như Phượng Linh, Đông Phương Tử… ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng, cải lương nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975 như Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng...
Trong các giọng ca thì người hát nhạc Nguyễn Văn Đông thành công nhất chính là cố ca sĩ gốc Huế - Hà Thanh, kế tiếp là ca sĩ Giao Linh. Ca sĩ Giao Linh cũng là học trò ruột của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông từ năm 1965. Quãng đời sau này, vợ chồng nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông và vợ chồng ca sĩ Giao Linh không chỉ là mối quan hệ thầy trò mà là những người bạn vong niên cùng nhau.
Tờ nhạc ca khúc Chiều mưa biên giới, ca khúc này có bản thu đầu tiên với giọng ca của nghệ sĩ Trần Văn Trạch (em trai GS-TS Trần Văn Khê). Ảnh: Tư liệu
Trong lời kể của ca sĩ Giao Linh khi bà tham gia chương trình Ca sĩ giấu mặt vào năm 2017 thì thuở nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là giám đốc Hãng băng đĩa Continental, bà là người đầu quân về đây. Tại chính nơi này, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông từng bắt ca sĩ Giao Linh thu âm 48 lần cho một ca khúc, đến khi nào bản thu thật tốt mới ngừng. Chính sự khắt khe của thầy đã làm nên ca sĩ Giao Linh hôm nay.
-
Đó chính là nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông - người thầy đã đưa cô gái Như Mai từ Đà Lạt xuống Sài Gòn để bắt đầu con đường ca hát chuyên nghiệp, và cũng là người đặt cho cô nghệ danh Thanh Tuyền.
“Ông thầy đặt tên tôi là Thanh Tuyền - nghĩa là dòng suối, nước chảy hoài và tôi cũng sẽ hát hoài. Tôi thực sự háo hức mong đến lúc gặp lại những khán giả đã yêu thương và chờ đợi mình cùng với Chế Linh để hát cho thật “đã”, mong khoảnh khắc được sống trọn vẹn trong trời Thu Hà Nội” – từ Mỹ, giọng hát được mệnh danh “diva nhạc sến” xúc động chia sẻ trước thềm liveshow “Chế Linh – Thanh Tuyền – Con đường xưa em đi & các cặp song ca vàng hải ngoại” sẽ diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Hà Nội vào ngày 2/11 tới.
Chia sẻ về cô học trò “cưng” Thanh Tuyền, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông kể, năm 1964, ông lên Đà Lạt nghỉ dưỡng và nghe mấy người bạn kể về một cô bé tên Như Mai có giọng hát rất đặc biệt. Hỏi ra thì ông được hay, Như Mai đang là nữ sinh trường Bùi Thị Xuân nhưng hàng tuần vẫn tham gia hát ở Đài Phát thanh Đà Lạt. Sau đó, tình cờ trong lần trường Bùi Thị Xuân tổ chức lễ bế giảng năm học cũ, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông nhận lời đến tham dự.
Tại phần biểu diễn các tiết mục văn nghệ, ông nghe thấy người dẫn chương trình giới thiệu về phần trình diễn của nữ sinh Như Mai và sững sờ trước giọng hát lảnh lót, khỏe khoắn, đầy nội lực của tuổi thanh xuân, âm vang rộn rã cả sân trường. Khi ấy, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông không hề biết rằng, cô bé có vóc dáng nhỏ nhắn cùng giọng hát cao chót vót kia từ lâu đã nhen nhóm ước vọng trở thành ca sĩ. Có điều, ông cảm nhận thấy rất rõ, dường như ẩn trong giọng hát ấy là một ước mơ và hy vọng đến cháy bỏng mà cô bé muốn giãi bày.
Sau khi xem xong phần trình diễn này, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông có tìm gặp và hỏi Như Mai: “Cháu có muốn trở thành ca sĩ không?” và ngay lập tức, ông nhận được cái gật đầu dứt khoát của cô bé. Từ đó, vị nhạc sĩ tài ba quyết định gặp thân sinh của Như Mai để bàn chuyện đưa cô bé về Sài Gòn đào tạo thành ca sĩ chuyên nghiệp.
Nhớ lại, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông bảo, ban đầu bố mẹ của Như Mai cũng lo ngại vì thấy con gái còn nhỏ tuổi, nếu sống xa gia đình e gặp nhiều khó khăn. Song rốt cuộc, trở ngại này cũng được giải quyết ổn thỏa khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông nhờ vợ chồng người bạn – nhạc sĩ Mạnh Phát và ca sĩ Minh Diệu đứng ra nhận Như Mai làm con nuôi và để cô bé về tá túc trong gia đình của họ. Mọi chi phí sinh hoạt cho cuộc sống của cô bé khi lên Sài Gòn đều do hãng đĩa mà nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cùng một vài người bạn sáng lập đứng ra đài thọ.
Chưa đầy 1 năm kể từ khi lên Sài Gòn, cô bé Như Mai có tên mới - nghệ danh Thanh Tuyền, phủ sóng rộng khắp các kệ băng đĩa nhạc, xuất hiện ngang hàng với các bậc đàn anh đàn chị trên sóng Đài Phát thanh, các sân khấu lớn nhỏ và được báo giới Sài thành không ngớt lời ca ngợi. Hình của Thanh Tuyền được treo khắp các góc đường ở Sài Gòn. Giọng hát của Thanh Tuyền khi ấy được ví như con chim lạ từ xứ sương mờ, bông hoa rừng còn đẫm ướt hơi sương.
Cũng chính nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là người đã tác hợp nên cặp song ca vàng Thanh Tuyền – Chế Linh. Đó là vào năm 1967-1968, khi ấy, Chế Linh đang cộng tác với hãng đĩa của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Vì muốn tạo ra sự mới mẻ, tránh để khán giả cảm thấy nhàm chán với nghệ sĩ hát đơn ca nên vị nhạc sĩ này đã đề nghị để Thanh Tuyền song ca thử với Chế Linh. Nhớ lại, Thanh Tuyền kể, khi ấy nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đưa cho bà bài hát Hái trộm hoa rừng và đề nghị hát chung với một nam ca sĩ mới.
Đĩa nhạc đầu tiên, trong đó có bài hát này được tung ra thị trường và gây “sốt” một cách không ngờ. Tên tuổi của cặp song ca lan truyền với tốc độ ánh sáng và phủ sóng khắp làng nhạc vàng Việt Nam với hàng loạt ca khúc như: Tình bơ vơ, Phút cuối, Con đường xưa em đi… Hai giọng ca, một sang sảng và cao chót vót, một trầm ấm ngọt ngào mà vang lồng lộng đã hòa quyện vào nhau mà không cần phải dụng đến kỹ thuật hòa âm phối khí cầu kỳ nào. Nhiều nhạc phẩm sau đó đã được soạn riêng cho cặp song ca vàng này.
Nhiều năm gần đây, dù ít có dịp đứng chung sân khấu với nhau nhưng trong lòng những người yêu nhạc vàng, đặc biệt là yêu mến cặp danh ca này thì Chế Linh là người hát ăn ý nhất với Thanh Tuyền và ngược lại. Khán giả vẫn xem đây là cặp “tình nhân” đẹp nhất trong làng nhạc vàng từ trước đến nay.
Sắp tới đây, Thanh Tuyền và người cùng bà tạo nên cặp song ca nhạc vàng kinh điển – nam danh ca Chế Linh sẽ lần đầu tiên hội ngộ trên sân khấu tại Hà Nội trong liveshow chung “Chế Linh – Thanh Tuyền – Con đường xưa em đi & các cặp song ca vàng hải ngoại” (cùng với Phi Nhung, Mạnh Quỳnh, Dương Hồng Loan, Lưu Chí Vỹ, Tống Mỹ Linh….). Hồi hộp và lo lắng là tâm trạng được Thanh Tuyền gọi tên trong cuộc hội ngộ với khán giả Thủ đô vào tối 2/11 tới. Lý giải về điều này, nữ danh ca thổ lộ, so với lần đầu tiên một mình trở lại Hà Nội cách đây 5 năm, lần này bà có sự song hành của người bạn diễn ăn ý lâu năm – nam danh ca Chế Linh. Đây cũng là lần đầu tiên cặp song ca vàng xuất hiện chung trong “cuộc hẹn” với người yêu nhạc Hà thành.
SẮC HOA MÀU NHỚ và Dòng Nhạc của Nguyễn Văn Đông - Biên soạn: Phan Anh Dũng |
Năm nay tôi làm chương trình về mùa Thu trên website Cỏ Thơm hơi trễ. Lý do vì quá bận rộn mấy tháng Hè, hết chuyện riêng gia đình rồi đến việc cộng tác tổ chức Buổi Hòa Nhạc Ca Ngợi Tự Do, cả hai đều đòi hỏi thời gian và nhiều nỗ lực!
Bây giờ gần cuối tháng 9 mà tiết trời ở Richmond, Virginia vẫn chưa thấy sang Thu! Sáng nay, lá vàng đã thấy rơi trên sân nhà nhưng cây cối chung quanh vùng vẫn còn xanh tươi lắm. Cách đây mấy tuần, một người bạn ở California gởi cho nghe bài "Sắc Hoa Màu Nhớ" của Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông, lại còn cẩn thận đính kèm hình minh họa: một nữ sinh áo dài trắng nhặt từng cánh hoa phượng đỏ rơi trên vỉa hè, thật là dễ thương! Nếu không để ý kỹ thì tôi đã nghĩ chắc anh bạn này vẫn còn luyến tiếc những ngày cuối Hạ! Nhưng sau khi nhìn lời bài hát thì thấy ngay câu mở đầu: "Hoa phượng rơi đón mùa Thutới". Tôi cảm ơn anh đã khéo nhắc nhở và tôi tự nhủ khi nào lo xong chương trình "Ca Ngợi Tự Do", sẽ bắt tay vào làm một trang về Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông.
Tốt nghiệp từ Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu rồi Võ Bị Đà Lạt năm 1953, Nguyễn Văn Đông là một người lính tác chiến từ ngày đầu của Miền Nam Việt Nam, vừa độc lập từ thực dân Pháp. Những bản nhạc của Ông có giai điệu dễ nhớ, lời rất thật, tình cảm, được phổ biến rộng rãi. Một số bản nhạc đã được đại chúng và ngay cả giới thưởng ngoạn nhạc yêu mến như: Về Mái Nhà Xưa, Hải Ngoại Thương Ca, Nhớ Một Chiều Xuân, Sắc Hoa Màu Nhớ, Chiều Mưa Biên Giới ... Khi sáng tác, ngoài tên Nguyễn Văn Đông, Ông còn dùng các tên như Vì Dân, Phượng Linh, Phương Hà, Ðông Phương Tử, Hoàng Long Nguyên.
Năm 1975, Nguyễn Văn Đông là một Đại Tá phục vụ ở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi bị giam cầm 10 năm trong các trại tù tập trung của Cộng Sản, vì tình trạng sức khỏe kiệt quệ Ông được cho về với gia đình. Thật là may mắn, vì có thuốc men chữa trị nên Ông đã dần dần hồi phục và hiện vẫn còn sinh sống tại Sài Gòn.
Cảm ơn người nhạc sĩ tài hoa đã dâng cho đời những đóa hoa thật đẹp, tuy sáng tác trong thời kỳ khói lửa chiến chinh nhưng vẫn lãng đãng chất lãng mạn và đầy tình nhân bản. Kính chúc Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông cùng gia đình được nhiều sức khỏe và an hưởng hạnh phúc lúc tuổi già.
Phan Anh Dũng (Richmond, Virginia - USA; 25 tháng 9, 2010)
Sắc Hoa Màu Nhớ (theo tango) - Lệ Thanh Sắc Hoa Màu Nhớ (theo bolero) - Nhạc & lời: Nguyễn Văn Đông - Trình bày: Như Quỳnh & Thái Sơn TIỂU SỬ NHẠC SĨ NGUYỄN VĂN ĐÔNG (PDF)
Binh nghiệp và nhạc nghiệp của Nguyễn Văn Ðông - Du Tử Lê
Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=105285&z=16
Có một vài tài liệu ghi nhận rằng, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông sinh năm 1934. Nhưng theo sự xác nhận của họ Nguyễn thì, ông sinh năm 1932 tại quận Nhất, thành phố Saigon. Nguyên quán của ông là tỉnh Tây Ninh, huyện Bến Cầu. Thuở bé Nguyễn Văn Ðông học trường Huỳnh Khương Ninh, phường Ðakao, Tân Ðịnh, Saigon. Năm 1945- 1946 loạn lạc, trường Huỳnh Khương Ninh đóng cửa.
Gia đình gửi ông vào trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, ở thành phố Vũng Tàu, khi ấy ông mới 14 tuổi. Và, con đường binh nghiệp của ông, chính thức khởi đi từ đấy.
Năm 1950 Nguyễn Văn Ðông tốt nghiệp trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, cũng là nơi xuất thân của trên dưới 30 tướng lãnh thuộc quân lực VNCH cũ. Trong đó, có Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của QL/VNCH, người được coi là anh cả của Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Năm 1951, Nguyễn Văn Ðông được cử theo học khóa 4 trường Võ Bị Sĩ Quan Vũng Tàu. Họ Nguyễn tốt nghiệp thủ khoa với cấp bực thiếu úy năm 1952. Tưởng cũng nên nói thêm rằng, Ðại Tướng Cao Văn Viên, người giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH sau cùng của miền Nam Việt Nam, cũng tốt nghiệp Thiếu úy khóa 1 của trường này.
Năm 1953, Thiếu Úy Nguyễn Văn Ðông tốt nghiệp khóa “Ðại Ðội Trưởng” tại Trường Võ Bị Ðà Lạt. Cũng năm này, ông có chân trong ban giám khảo chấm thi Khóa Võ Bị Ðà Lạt 1953 do Quốc Trưởng Bảo Ðại chủ tọa lễ bế giảng khóa.
Năm 1954, họ Nguyễn lại được gửi ra Hà Nội theo học khóa “Tiểu Ðoàn Trưởng” tại Trường Chiến Thuật Hà Nội. Ra trường, ông được chỉ định vào chức vụ Tiểu đoàn trưởng Trọng Pháo 553. Ðó là năm 1955, khi họ Nguyễn mới 24 tuổi, một Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của quân đội.
Trải qua nhiều chức vụ, nhiều đơn vị và đồn trú ở nhiều nơi chốn khác nhau, trước khi được đưa về Saigon, giữ những chức vụ tương đối quan trọng; cấp bực sau cùng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông là Đại tá, Trưởng khối lãnh thổ Bộ Tổng Tham Mưu. Ông cũng từng được trao tặng huân chương cao quý nhất; đó là Bảo Quốc Huân Chương.
Khi biến cố Tháng Tư, 1975 xảy ra, như tất cả những sĩ quan QLVNCH khác, Nguyễn Văn Ðông bị tù cải tạo. Sau 9 năm 6 tháng, ông được trả về ngày 01 Tháng Giêng, 1985 với lý do:
“Ðương sự bị bệnh sắp chết, nên cho phép gia đình đem về nhà chôn cất!”
Tuy thuộc diện HO, đủ điều kiện để xin định cư tại Hoa Kỳ, nhưng gia đình thấy họ Nguyễn đau bệnh quá nặng, không biết chết lúc nào, nên đã giữ ông ở lại, thể theo ước nguyện của ông là, khi chết xin được chôn tại quê nhà.
Về sự kiện này, tác giả “Về Mái Nhà Xưa” cho biết, ông cũng không hiểu do đâu, mà Trời Phật đã nhìn lại ông và, cho ông sống, dù là một đời sống “rất lê lết” (chữ của ông), cho đến ngày hôm nay.
Về cái mà tôi muốn gọi là “nhạc nghiệp” của nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Văn Ðông, theo một số tài liệu đã được phổ biến ở hải ngoại cũng như tại Việt Nam thì: Nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông chính thức tham dự vào sinh hoạt âm nhạc ở miền Nam Việt Nam vào khoảng giữa thập niên 1950. Ông nổi danh ngay với những ca khúc đầu tay như “Chiều Mưa Biên Giới,” “Phiên Gác Ðêm Xuân,” “Súng Ðàn”... là ba ca khúc ra đời trong năm 1956 và được phổ biến rất rộng rãi. Nhưng ca khúc “Thiếu Sinh Quân Hành Khúc” bài hát được công nhận là ca khúc chính thức của trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, Nguyễn sáng tác năm 1948, khi mới 16 tuổi, mới thực sự là sáng tác đầu tay của người nhạc sĩ đa tài này.
Ngoài bút hiệu và cũng là tên thật, Nguyễn Văn Ðông, họ Nguyễn còn dùng nhiều bút hiệu khác như Phượng Linh, Phương Hà, Ðông Phương Tử, Vì Dân, Hoàng Long Nguyên.
Cũng ngay từ giữa thập niên 1950, trong vai trò trưởng đoàn văn nghệ Vì Dân ở Saigon, Nguyễn Văn Ðông đã nhận được sự hợp tác của rất nhiều ca, nhạc sĩ tên tuổi thời đó, như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Ðàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ thuộc lãnh vực kịch nghệ, điện ảnh, cải lương danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch... Ông cũng cho thấy tài tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội lớn, rất thành công tại Saigon, cũng như các tỉnh.
Về sinh hoạt liên quan tới đài phát thanh thì, ngay từ năm 1958, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông đã là trưởng ban nhạc “Tiếng Thời Gian” của đài Saigon. Ban nhạc của ông quy tụ những tên tuổi như Lệ Thanh, Anh Ngọc, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Ðàm...
Ở cấp độ quốc gia thì, năm 1959, họ Nguyễn được chọn làm trưởng ban tổ chức “Ðại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc,” tập hợp hơn 40 đoàn văn nghệ, đại diện cho toàn miền Nam; tranh giải liên tiếp 15 ngày đêm tại Saigon. Với tất cả những thành tích kể trên, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông đã được trao tặng “Giải Âm Nhạc Quốc Gia.” Bà cố vấn Ngô Ðình Nhu là người trao tặng giải thưởng này cho họ Nguyễn.
Nói tới nhạc nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông mà, không nói tới thời gian họ Nguyễn làm giám đốc hãng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, nổi tiếng một thời ở miền Nam, tôi cho là một thiếu sót quan trọng.
Ở vai trò này, với sự hợp tác tích cực của những nhạc sĩ như Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Y Vân, Lê Văn Thiện... Hai hãng đĩa của ông đã đem sự giầu có, phong phú cho sinh hoạt tân nhạc cũng như cổ nhạc miền Nam, 20 năm; với những album riêng cho từng ca sĩ.
Quay lui lại thời điểm đầu thập niên 1960, sự kiện trung tâm băng nhạc Sơn Ca cho ra đời những băng nhạc chỉ với một tiếng hát như Sơn Ca 6, tiếng hát Giao Linh; Sơn Ca 7, tiếng hát Khánh Ly; Sơn Ca 8, tiếng hát Lệ Thu; Sơn Ca 9, tiếng hát Phương Dung; Sơn Ca 10, tiếng hát Thái Thanh và ban hợp ca Thăng Long... cùng một số băng nhạc riêng, dành cho nhạc Trịnh Công Sơn, là một sáng kiến cực kỳ mới lạ. Nó mở đầu cho những album sau này, với một tiếng hát, của nhiều trung tâm băng nhạc khác.
Lại nữa, tôi cho rằng chúng ta cũng sẽ không phải với nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông, một người, không chỉ tận tụy cống hiến trọn cuộc đời mình cho nền tân nhạc miền Nam, 20 năm; mà ông còn là người có công đầu trong nỗ lực khai sinh, hình thành rồi phát triển một hình thái nghệ thuật mà, sau này chúng ta quen gọi là hình thái âm nhạc “Tân Cổ Giao Duyên.”
Trước khi đi sâu vào lịch sử hình thành của hình thái nghệ thuật từng được chào đón tại miền Nam Việt Nam, tính đến Tháng Tư, năm 1975, chúng tôi muốn nhắc tới bài “Tân cổ giao duyên” đầu tiên của hình thái phối hợp nghệ thuật đặc biệt này. Ðó là bài “Khi Ðã Yêu” sáng tác của Phượng Linh và soạn giả Ðông Phương Tử. Do 2 nghệ sĩ nổi tiếng của sân khấu cải lương là Thanh Nga, Minh Phụng thu âm lần đầu, năm 1963, tại Saigòn. Bài “Tân cổ giao duyên” này, sau đó, đã được nhà xuất bản Hồng Hoa ấn hành thành nhạc bản.
Tuy là hai bút hiệu khác nhau, nhưng sự thực, chỉ là một.
Những người yêu nhạc Nguyễn Văn Ðông hẳn không quên, với bút hiệu Phượng Linh, ông là tác giả của những ca khúc nổi tiếng như “Bóng Nhỏ Giáo Ðường,” “Niềm Ðau Dĩ Vãng,” “Ðom Ðóm,” “Khi Ðã Yêu,” “Thương Muộn,” “Lời Giã Biệt” v.v... Và, bút hiệu Ðông Phương Tử họ Nguyễn dùng cho tất cả những sáng tác liên quan đến phần cổ nhạc.
Nhưng phải đợi tới sáng tác “Tân cổ giao duyên” thứ hai, cũng của Nguyễn Văn Ðông, đó là bài “Mùa Sao Sáng,” do Mộng Tuyền trình bày, thì phong trào “Tân cổ giao duyên” mới thực sự rộ lên, không chỉ tại Saigon mà, khắp mọi miền đất nước.
Vì ca khúc “Mùa Sao Sáng” ký tên Nguyễn Văn Ðông, nên bài Tân cổ giao duyên “Mùa Sao Sáng” được phổ biến với hai tên: Nhạc Nguyễn Văn Ðông, Soạn giả Ðông Phương Tử. Bài tân cổ giao duyên này, theo thiển ý của chúng tôi, rất thích hợp cho những mùa Lễ Giáng Sinh của người Việt Nam, nơi quê người.
Du Tử LêMột số bài viết về Nguyễn Văn Đông "Bài viết về Nguyễn Văn Đông" (pdf) - Du Tử Lê Tình Ca Nguyễn Văn Đông (pdf) - Thy Nga - 12/2006 "Bài viết về Nguyễn Văn Đông" (pdf) - Trường Kỳ "Người Lính Trong Nhạc Nguyễn Văn Đông" (pdf) - Lê Hữu Nhạc Hòa Tấu Saigon Chamber Ensemble (San Jose, CA - USA) hòa tấu: Hải Ngoại Thương Ca (video) Hải Ngoại Thương Ca (mp3) Ban nhạc Trung Nghĩa (1993): Chiều Mưa Biên Giới (mp3) Tiếng đàn Vô Thường: Chiều Mưa Biên Giới Phiên Gác Đêm Xuân Sắc Hoa Màu Nhớ Nhạc Sĩ Thanh Trang hòa tấu: Nhớ Một Chiều Xuân Hải Ngoại Thương Ca Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp Nhớ Người Viễn Xứ Chương Trình Phát Thanh về Nguyễn Văn Đông
Người Lính Trong Nhạc Và Thơ - Bích Huyền - VOA - 10/2008
Dòng Nhạc Nguyễn Văn Đông - Hoài Nam, SBS Radio, Úc ChâuMột số bản nhạc của Nguyễn Văn Đông (bấm vào tên bản nhạc để nghe) Anh - Khánh Ly Về Mái Nhà Xưa - Hà Thanh Dáng Xuân Xưa - Anh Khoa Lời Giã Biệt - Hà Thanh Mấy Dặm Sơn Khê - Thái Thanh Sắc Hoa Màu Nhớ (slow rock) - Duy Trác Sắc Hoa Màu Nhớ (tango) - Thanh Tuyền Phiên Gác Đêm Xuân - Thế Sơn Phiên Gác Đêm Xuân - Thanh Tuyền Tâm Hảo: Anh / Tình Thu Trên Sông Seine / Viễn Xứ Ca Tình Cố Hương / Nhớ Người Viễn Xứ (viết chung với Lâm Tuyền) Mây Chiều / Nhớ Một Chiều Xuân / Hải Ngoại Thương Ca Chiều Mưa Biên Giới Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp Trái Tim Việt Nam / Núi Và Gió / Vô Thường / Bông Hồng Cài Áo Lam Phương & Nguyễn Văn Đông Đêm Buồn (Nhạc & lời: Lam Phương & NVĐ) - Bạch Yến Thu Hoài Cảm - Thanh Lan Cung Thương Ngày Cũ (Nhạc: NVĐ; Lời: NVĐ & Mạnh Phát) - Lệ Thanh Hải Ngoại Thương Ca - Hà Thanh Về Mái Nhà Xưa - Thái Thanh Nhớ Một Chiều Xuân (theo tango) - Nhật Trường Sắc Hoa Màu Nhớ - Lệ Thanh Ave Maria - Thái Thanh Mùa Sao Sáng - Khánh Ly Đêm Thánh Huy Hoàng - Việt Thảo Hai Mùa Sao - Thanh Vũ Núi và Gió - Elvis Phương Vô Thường - Giao Linh & Đức Minh Khi Đã Yêu - Thanh Tuyền Chiếc Bóng Công Viên - Hà Thanh Thương Về Mùa Đông Biên Giới - Hoàng Oanh Bà Mẹ Hai Con - Khánh Ly Anh Trước, Tôi Sau - Uyên Phương Lá Thư Người Lính Chiến - Khánh Ly Niềm Đau Dĩ Vãng - Lệ Thu Hải Ngoại Thương Ca - Minh Châu, Ngọc Diệp, Tường Vân Liên Khúc Chiều Mưa Biên Giới & Mấy Dăm Sơn Khê - Mai Thiên Vân & Thanh Tuyền Nguyện Cầu Trên Bến Ngàn Năm - Thanh Tuyền & ACM Trái Tim Việt Nam - Tuấn Ngọc Thác Đa - Tình Yêu của Tôi - Giao Linh Bóng Nhỏ Giáo Đường - Ngọc Lan Hiến Dâng - Thanh Thúy Dạ Sầu - Thanh Lan Khúc Xuân Ca - Ánh Tuyết & ACM Bài Ca Hạnh Phúc - Như Ý & Duy Quang Thương Muộn - Thanh Tuyền Đom Đóm - Giao Linh Dáng Xuân Xưa - Sĩ Phú Tình Mùa Hoa Phượng - Thanh Tuyền Xin Đừng Trách Anh - Hùng Cường Khúc Xuân Ca - Như Ý Nếu Có Em Bên Anh - Duy Quang >> Hà Thanh hát một số nhạc của Nguyễn Văn Đông
Mời nghe toàn bộ: CD "Thác Đa - Tình Yêu của Tôi - phát hành năm 2003
1. Thác Đa, Tình Yêu Của Tôi - Giao Linh 2. Chiếc Bóng Công Viên - Nancy Tâm Huy
3. Trái Tim Việt Nam - Đức Minh 4. Bài Ca Hạnh Phúc - Nguyễn Phi Hùng & Nancy Tâm Huy 5. Dòng Sông Hò Hẹn - Giao Linh 6. Người Tình Yêu Dâu - Hồng Ngọc 7. Khi Đã Yêu - Nancy Tâm Huy 8. Núi Và Gió - Elvis Phương 9. Thầm Kín - Nancy Tâm Huy 10. Nếu Có Em Bên Anh - Lam Trường 11. Bông Hồng Cài Áo Trắng - Nancy Tâm Huy 12. Vô Thường - Giao Linh & Đức Minh
Vài kỷ niệm với nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Chu Tất Tiến, Apr 18, 2005
Hầu như những người miền Nam thuộc lứa tuổi trung niên trở nên, đều đã từng thưởng thức giòng tân nhạc Nguyễn Văn Đông nở rộ trong thập niên 60. Mỗi khi nhắc đến nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, người ta nhớ ngay đến “Chiều Mưa Biên Giới” với những câu triết lý bất hủ: “Lòng trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn còn nhiều, anh ơi!” Với những ai mê nhạc thính phòng, bản “Về Mái Nhà Xưa” của Nguyễn văn Đông cũng là bản gợi lên những cung điệu tha thiết, trữ tình: “Về đây ngơ ngác chim bay tìm đàn, về đây hoang vắng lạnh buốt cung đàn...” Hoặc nghe câu: “Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người, chạnh lòng tôi khơi bao niềm nhớ...” lại thấy “Nhớ một chiều xuân”. Tuy nhiên, một điều mà rất ít người mê những bản nhạc lừng danh dưới bút hiệu Phượng Linh như trong Dạ Sầu: “Hết rồi người ấy đã xa ta, những ngày vui cũng theo qua...” hay “Khi Đã Yêu thì mơ mộng nhiều...” và những vở kịch cải lương của Đông Phương Tử lại không biết rằng “Phượng Linh” hay “Đông Phương Tử” cũng chỉ là những bút hiệu khác của Nguyễn văn Đông. Ngoài ra, khán giả của những vở kịch viết bởi kịch tác gia Hoàng Dũng do Nghệ Sĩ Kim Cương thủ diễn đã làm cho bao giọt nước mắt rơi, bao nụ cười muốn vỡ tung rạp như “Dưới Hai Mầu Áo”... cũng không bao giờ nghĩ rằng những vở kịch đó đều có sự tham dự của ngòi bút Nguyễn văn Đông, người nhạc sĩ đã được cấp bằng Tiến Sĩ Âm Nhạc Pháp.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông với hai đệ tử Nancy Tâm Huy và Giao Linh
Riêng với tôi, Nhạc sĩ Nguyễn văn Đông vừa là người anh đáng kính vừa là người Thầy với tất cả ý nghĩa cao đẹp của hai chữ ấy trong khi tôi lại là một đứa học trò không nên thân. Khi tôi gặp anh sau 1978, anh đã bệnh nặng. Anh không đi, đứng được vì xương đầu gối biến dạng. Tất cả các ngón tay của anh bị chứng phong thấp làm cho co quắp. Các đốt xương ngón tay sưng to đến nỗi anh không còn cầm được đũa nữa. Anh chỉ có thể cặp đũa vào giữa hai lóng tay để đưa thức ăn lên miệng một cách khó khăn. Dĩ nhiên, anh không thể nào cầm bút. Điều quan trọng là người nhạc sĩ đa tài ấy đã chấp nhận bệnh tật và những cơn đau một cách thản nhiên. Chưa bao giờ tôi thấy anh nhăn mặt hoặc kêu đau một tiếng, khi tôi dư biết anh đang lên cơn đau lắm. Nhất là vào mùa lạnh, những trận gió ban đêm làm cho chứng thấp khớp có cơ hội hành hạ anh kinh người. Những “cục” vôi ở xương đầu gối, bàn tay, lưng... đè lên giây thần kinh nhất định đã tạo cho anh những cơn đau buốt như dao cắt. Nhưng, dù cho giọng nói anh có khàn đặc và mệt mỏi, anh vẫn chứng tỏ cho đàn em thấy bệnh tật không thể hủy hoại ý chí anh. Những cái nhếch môi thay cho nụ cười không bao giờ tắt.
Lúc ấy, tôi đã tập tành viết được một số bài hát. Trong một lần ăn cơm chung, tôi hứng chí khoe anh và hát cho anh nghe. Vừa nghe xong, anh nhăn mặt:
-Viết vậy mà cũng đòi viết! Chẳng có quy luật hòa âm gì cả!
Rồi anh quặp lấy đũa, chỉ cho tôi những sai sót trong tiến trình của các âm giai, và bắt tôi viết lại. Vì trước đó, tôi đã từng học lõm bõm nhiều thầy, và ghi nhớ từ mỗi thầy một chút, nhạc lý của tôi cộng lại thành một mớ hỗn tạp, nên sau khi sửa lại, tôi vẫn mắc nhiều lỗi. Anh la tôi rất nặng, rồi kiên nhẫn dậy lại cho tôi từ căn bản. Khi giảng, anh ngồi xổm trên giường, dùng ngón chân cái và ngón kế của bàn chân phải, kẹp lấy cây bút chì rồi nguệch ngoạc những chữ to gần bằng viên bi trên tờ giấy. Nhìn anh cố gắng với những chữ viết quẹo qua quẹo lại, tôi thấy lòng dâng lên một xúc động khôn tả. Vì vậy, tôi cũng hết sức cố gắng học tất cả những gì mà người Thầy đầy thiện chí kia dậy bảo.
Sau khi thấy những bản nhạc tôi viết ra dần dần ít lỗi, anh đột nhiên bảo tôi:
-Anh thấy em nên học thêm vọng cổ!
Tôi đớ người:
-Em... dân Bắc Kỳ ăn cá rô cây, làm sao học vọng cổ được?
Anh nhếch môi:
-Anh có bảo em ca vọng cổ đâu mà vội chối? Viết vọng cổ cho người ta hát thì đâu cần Bắc Kỳ hay Nam Kỳ! Miễn là em thích viết!
Nghe anh nói thấy hay hay, tôi vội “dạ”. Từ đó, anh bắt đầu dậy tôi những cung bậc “hò, xừ, xê, xang, cống...” Tuy sức khỏe anh rất kém, anh vẫn cố hát từng câu, từng đoạn, lặp đi lặp lại cho tôi hát theo. Sau một thời gian, anh bảo tôi viết sáu câu vọng cổ cho anh duyệt. Tôi vâng lời, vừa viết vừa hát. Nghe tên học trò Bắc Kỳ hát vọng cổ, anh cười:
-Em hát nháp cho ca sĩ thứ thiệt hát theo thì được, em mà ca biểu diễn chắc bị khán giả xúm lại đánh quá!
Hai anh em cười vui. Nhưng bất ngờ, đang cười, tôi chợt nhìn thấy một giòng máu nhỉ ra từ khóe môi của anh. Tôi vội kêu lên cho anh biết, anh bình tĩnh lấy tay áo chùi đi và tiếp tục dậy nữa. Quá lo sợ cho sức khỏe của anh, tôi xua tay:
-Thôi! Thôi! Anh nghỉ đi! Đang chẩy máu miệng mà!
Anh lắc đầu:
-Không sao! Kệ nó! Học tiếp đi!
Tôi nhất định không học, và ép anh phải nằm nghỉ. Anh thở dài, nhìn tôi:
-Em chưa học xong, lỡ anh có mệnh hệ gì, thì anh cũng không an tâm. Bệnh của anh như thế này rồi, biết đâu còn thì giờ dậy em nữa!
Những lời nói chí tình của một người Thầy như thế làm tôi nghẹn ngào. Tôi cố nuốt từng giọt lệ, không cho rơi xuống tờ giấy viết nhạc mà anh vẫn dùng ngón chân cong queo để viết từng chữ một cách khó khăn. Những giòng chữ như nhẩy múa trước mắt tôi. Những giọt máu vẫn chầm chậm ứa ra từ khóe môi của anh như chẩy ra từ trái tim một người nghệ sĩ chân chính. Tôi không thể nào quên được hình ảnh đó, và hình ảnh anh được chở trên băng-ca ra bệnh viện điều trị ngay hôm sau. Dáng anh mảnh khảnh lọt trong lòng chiếc băng-ca trông cô đơn làm sao...
Nhiều năm tiếp theo, đến thăm anh trong các bệnh viện khác nhau, thấy anh ngồi lên được, tôi đã mừng. Rồi anh về nhà và đi điều trị thuốc Nam, thuốc Bắc. Không biết loại thuốc nào đã làm anh dần dần khỏe lại và đi lại được, dù chống gậy, nhưng dáng đi của anh vẫn chắc chắn và điềm tĩnh như ngày nào.
Thời gian trôi qua. Nghe tin một số bản nhạc của anh đã được hát lại trong thành phố, những bản nhạc không già với thời gian; không phân biệt Nam, Trung, Bắc, hải ngoại hay trong nước, lòng tôi rộn lên như chú bé được mẹ cho quà. Giòng nhạc của anh lại bắt đầu chẩy mạnh trong lòng dân tộc.
Chu Tất Tiến
Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông là Giám Đốc Nghệ Thuật của
Trung Tâm Sản Xuất Băng Dĩa Nhạc: Continental, Sơn Ca và Premier trước 1975
Dưới đây là thí dụ một số băng dĩa của 3 Trung Tâm trên sản xuất:
Hình trên: Sau bìa một bản nhạc xuất bản vào năm 1962
Nhạc sĩ Nguyễn văn Đông, Trưởng Đoàn Văn nghệ Vì Dân, đi trình diễn văn nghệ ở các tỉnh Miền Nam Việt Nam với các nghệ sĩ:
- Hàng đầu, từ trái sang phải: Trần Ðô (chuyên viên sân khấu); nghệ sĩ Kiều Hạnh (thân mẫu của ca sĩ Mai Hương); tam ca nhi đồng Phước Vân, Bích Vân, Ngọc Vân (và một em bé tập sự); nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông, trưởng đoàn (có dấu “X”); bà kịch sĩ Ba Vân; ca sĩ Khánh Ngọc; ca sĩ Minh Diệu; nghệ sĩ Trần Văn Trạch; vũ sư Trịnh Toàn; ca sĩ Mai Ly; nhạc sĩ Mạnh Phát; diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim; các ca sĩ Kim Lan, Kim Oanh. - Hàng thứ nhì, từ trái sang phải: Anh Việt (chuyên viên ánh sáng); Trần Quang, Trần Thịnh, Trọng Tuyến (các chuyên viên âm thanh); nghệ sĩ Ba Vân; các ca sĩ Ngọc Quang, Thanh Nguyên; nghệ sĩ Bảy Xê; nhạc sĩ Minh Kỳ; nhạc sĩ Thu Hồ; nghệ sĩ Quách Ðàm, nhạc sĩ Hoài Linh. Các hàng sau là tài xế, nhân viên an ninh... (Ảnh chụp tại chân Tháp Mười tầng, Gò Tháp, một địa danh lịch sử oai hùng, trong chuyến lưu diễn văn nghệ ỡ vùng Đồng Tháp Mười ngày 11 và 12/4/1959)
Nhạc sĩ Nguyễn văn Đông, Trưởng Đoàn văn nghệ Vì-Dân và nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, Trưởng Đoàn văn nghệ Việt-Nam, cùng phối hợp trong một chương trình văn nghệ. Từ mặt sang trái: Nhạc sĩ Nguyễn văn Đông, Lê Thương, Út trà Ôn, Lê Mộng Bảo, Thẩm Thuý Hằng, MC Ngọc Phu, Tùng Lâm, Bạch Yến, Anh Sơn, vũ sư Trịnh Toàn, Trần văn Trạch, Thu Hồ, Mạnh Phát, Minh Diệu, Minh Kỳ, Quách Đàm, Hoài Linh, Hoàng Thi Thơ, Bảy Xê, Anh Lân, Túy Hoa, Túy Phượng, Mai Ly và nhiều tài danh khác. (Ành chụp ngày Thứ Sáu 11/8/1961 tại Phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn.)
>> Xem ảnh ở trên khổ lớn hơn (jpg)
Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông trả lời trong một phỏng vấn: "Cô Hà Thanh hát hầu hết các tác phẩm của tôi. Bài nào tôi cũng thích, cũng vừa ý, có lẽ vì vậy mà tôi không nghĩ đến chuyện viết bài đặc biệt cho riêng cô. Tôi nhớ lại một chuỗi những sáng tác trong thời binh lửa chiến tranh như Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Mấy Dặm Sơn Khê, Lá Thư Người Lính Chiến, Phiên Gác Đêm Xuân, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giã Biệt ..vân vân, đều rất hợp với tiếng hát Hà Thanh và cô hát rất thành công. Tôi cho rằng Hà Thanh không chỉ hát mà còn sáng tạo trong khi hát. Hà Thanh đã tạo thêm những nốt luyến láy rất truyền cảm, rất mỹ thuật làm cho bài hát của tôi thêm thăng hoa, trong giai điệu cũng như trong lời ca. Tôi cho rằng khi hát cô Hà Thanh đã sống và cùng đồng điệu sẻ chia với tác gỉa khi trình bày một bản nhạc có tầm vóc nghệ thuật. "
(hình trong bìa: Ca sĩ Hà Thanh)
(hình trong bìa: Nguyễn Văn Đông)
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông kể lại: “Bản nhạc Chiều Mưa Biên Giới được viết vào năm 1956. Khi ấy tôi là trung úy trưởng phòng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười là người có trách nhiệm đề ra những phương án tác chiến. Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt.
Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn thì xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời. Và từng chập gió buốt kéo về như muới sát vào thịt da. Từ trong cảnh ấy, tận đáy lòng mình đã nghe nẩy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu tiên buồn bã cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu…”
>> Trần Văn Trạch hát: "Chiều Mưa Biên Giới"
Nguyễn Văn Đông, Trần Văn Trạch, Lê Thương
Thiên Hương (Tiny Yong) & Trần Văn Trạch hát: "Chiều Mưa Biên Giới"
Lệ Thanh & Trần Văn Trạch hát: Mấy Dặm Sơn Khê
>> Giao Linh hát: " MÙA SAO SÁNG" - trong băng nhạc Sơn Ca 3 - Nhạc Giáng Sinh
MỜI QUÝ VỊ XEM TRANG ĐẶC BIỆT:
|
http://cothommagazine.com/
MÙA XUÂN TRONG NHẠC CỦA NGUYỄN VĂN ĐÔNG - Biên soạn: Phan Anh Dũng |
Chúng ta đã nghe và yêu mến những ca khúc trữ tình của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, nhất là những tình cảm dành cho người lính Việt Nam Cộng Hòa.
Năm 2010, tôi có cảm hứng biên soạn một trang về Ông ở website Cỏ Thơm:
Đó là một trang nhạc được nhiều người ghé thăm nhất trong những trang tôi biên soạn về các nhạc sĩ. Nếu bàn về những ca khúc Xuân của Nhạc sĩ Nguyễn văn Đông, có lẽ chúng ta phải nhắc tới 2 ca khúc được phổ biến rộng rãi: "Nhớ Một Chiều Xuân", sáng tác để kỷ niệm chuyện tình lãng mạn với một thiếu nữ bản xứ khi Ông đi tu nghiệp ở Hawaii năm 1957; và "Phiên Gác Đêm Xuân" - sáng tác từ một kinh nghiệm có thật đêm 30 Tết ở một tiền đồn vùng Đồng Tháp Mười năm 1956. Trong lúc biên soạn, tôi khám phá nét đẹp của "Dáng Xuân Xưa", một tình khúc ít phổ biến mà Sĩ Phú diễn tả lời ca trong bài rất nhẹ nhàng tình tứ: "bâng khuâng thấy hoa mỉm cười chạnh nhớ đến người ... lòng ta lơ đãng mà Xuân vẫn sang".
Sau 1975, Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vẫn tiếp tục sáng tác một số ca khúc đầy tình tự quê hương như: "Trái Tim Việt Nam"- Tuấn Ngọc hát , "Nguyện Cầu Trên Bến Ngàn Năm" - Thanh Tuyền hát... và dù trong hoàn cảnh khó khăn, Ông vẫn âm thầm sáng tác và trải bày tâm sự với thính giả qua "Núi và Gió" - Tâm Hảo hát , "Vô Thường" - Giao Linh & Đức Minh song ca ...
Một số thân hữu yêu nhạc ngạc nhiên vì thấy qua thời gian, Ông vẫn sáng tác với những ca khúc đầy ý tình lãng mạn nồng nàn như: "Nếu Có Em Bên Anh", "Khúc Xuân Ca". Riêng tôi yêu quý "Tình Cố Hương", ca khúc nói lên lòng nhung nhớ quê nhà sâu đậm của người viễn xứ mỗi độ Xuân về.
Cảm ơn Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã dâng tặng những đóa hoa Xuân tuyệt đẹp cho đời. Kính chúc Ông được nhiều sức khỏe và an vui trong cuộc sống.
Phan Anh Dũng (Richmond, Virginia tháng 2, 2015)
> Mời quý vị nghe toàn bộ: Nhạc Xuân của Nguyễn Văn Đông
Dáng Xuân Xưa - Sĩ Phú - Hòa âm & kèn clarinet: Văn Phụng
Phiên Gác Đêm Xuân - Hà Thanh: MP3 Youtube (Liên Như thực hiện, có nhắc kỷ niệm về Tết Mậu Thân 1968 ở Huế)
Khúc Xuân Ca - Như Ý
Nếu Có Em Bên Anh - Duy QuangNhớ Một Chiều Xuân (slow rock) - Tâm Hảo - Hòa âm: Thanh Trang MP3 Youtube Mùa Xuân Trong Nhạc của Nguyễn Văn Đông - Cát Linh (RFA) - youtube: Vọng Ngày Xanh thực hiện >> Bản nhạc Tình Cố Hương (pdf) >> Bản nhạc Nhớ Một Chiều Xuân - slowrock (pdf) >> Bản nhạc Nhớ Một Chiều Xuân - tango (pdf) Một chút lai lịch về bản nhạc "Nhớ Một Chiều Xuân" - (Thy Nga - RFA 2006)
Ngoài tài sáng tác nhạc, Nguyễn Văn Đông còn hát và sử dụng được nhiều nhạc cụ như kèn, trống, mandoline và guitare Hawaiienne. Năm 1957, Nguyễn Văn Đông đi tu nghiệp khóa “Chỉ huy và Tham mưu” tại Hawaii. Trên bãi biển thơ mộng, tiếng đàn Hawaiienne của chàng Trung úy tài hoa 25 tuổi đã làm say mê Gina, một thiếu nữ bản xứ lai Pháp.
Một buổi chiều Xuân năm sau đó, khi nỗi nhớ chất ngất, chàng nhạc sĩ viết nên bài “Nhớ một chiều Xuân”. Mời quý vị nghe qua giọng hát Lệ Thanh, ca sĩ đầu tiên trình bày bài này. Đây là âm thanh trong dĩa hát Việt Nam thâu vào khoảng thập niên 60 (tiếng đàn Hạ Uy Cầm: nhạc sĩ Đan Phú, em của nhạc sĩ Đan Thọ)Cuộc tình ấy, anh đành khép lại khi mãn khóa tu nghiệp, trở về nước. Thời đó, tức là cách nay nửa thế kỷ, kết hôn với người ngoại quốc là điều khó khăn lắm, anh chỉ còn biết tiếc nhớ …
Câu hát “Người yêu dấu bên bờ thành Vienne” làm nhiều người thắc mắc, không hiểu tại sao lại có thành Vienne ở đó? Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn đã hỏi và được tác giả Nguyễn Văn Đông giải thích là hình ảnh của Gina trong tâm tưởng ông đã gắn liền với nhạc bản “A beautiful Vienna” mà ông đàn nhiều lần cho nàng nghe vì nàng thích bài này …
>> Bản nhạc Dáng Xuân Xưa (pdf) >> Bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân (pdf)
Lai lịch bài "Phiên Gác Đêm Xuân" (trích bài phỏng vấn NS Nguyễn Văn Đông của Hoàng Lan Chi)
Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn xanh nhưng tâm tình đã nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đã gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.
Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những gò đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Gãy Cờ Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng còn lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên Gò Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hóa, nằm sát biên giới Việt Nam-Campuchia, sau này là Tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị của tôi đã có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết. Vì còn độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phãi được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh của người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ.
Tiền đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời tối đen như mực, phút giao thừa lạnh lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương khói gia đình. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những bóng tháp canh mờ nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đình đoàn tụ lúc xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật khẩu lên phiên gác. Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn bão dưới chiến hào thắp sáng lên như đón chào năm mới thì cũng là lúc những tràng súng liên thanh nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao hòa, vạn vật như hòa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền nhân. Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của mình rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy lên những cung bậc đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:
“Đón giao thừa một phiên gác đêm chào Xuân đến súng xa vang rền. Xác hoa tàn rơi trên báng súng ngở rằng pháo tung bay ngờ đâu hoa lá rơi…” Rồi mơ ước rất đời thường: “Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh mơ rằng đây mái nhà tranh mà ước chiếc bánh ngày xuân cùng hương khói vương niềm thương…”
Bài Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời trong hoàn cảnh như thế, cách đây nửa thế kỷ, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về đời lính như Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư Người Lính Chiến, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giã Biệt… vân vân. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời chìm nổi của tôi.
>> Bản nhạc Nếu Có Em Bên Anh (pdf) >> Bản nhạc Khúc Xuân Ca (pdf)
Xin vui lòng gởi ý kiến xây dựng về Phan Anh Dũng: dathphan1@gmail.com
|
----------------------------------------------------------------------------------------
Even in darkness light dawns for the upright, for those who are gracious and compassionate and righteous. Psalm 112:4
Mục-đích của sự răn-bảo, ấy là sự yêu-thương, bởi lòng tinh-sạch, lương-tâm tốt và đức-tin thật mà sanh ra. I Ti-mô-thê 1:5