Học làm người lương thiện . P1
Trên đời này có một người đàn ông bình thường nhưng yêu bạn nhất trên đời!
Bố là một người đàn ông bình thường, nhưng lại dành cho bạn một tình yêu chẳng hề tầm thường. Bạn từng trách bố vì sao lúc nào cũng bận rộn, từng sợ hãi mỗi lần bố giận dữ, từng thấy phiền khi bố mãi chẳng chịu hiểu bạn... Mãi đến khi lớn lên rồi, bạn mới hiểu được bố luôn muốn được bên bạn, nhưng cũng muốn mang những gì tốt đẹp nhất trên thế giới này đến cho bạn.
Bố yêu bạn nhiều thì cũng yêu cầu ở bạn rất nhiều, thế nhưng dù thế nào đi chăng nữa, bố cũng luôn là người hùng trong lòng bạn, dù người hùng ấy cũng có lúc già đi...
Không phải bố yêu công việc hơn yêu bạn, mà vì yêu bạn nên bố mới tận tụy với công việc mình đang làm
Ai chẳng muốn được ở bên con mình mọi lúc mọi nơi, nhưng vì cuộc sống, bố không thể không đi sớm về khuya
Bố là người chẳng bao giờ kén chọn, lúc nào cũng xuề xòa, quần áo nào cũng mặc, món nào cũng có thể ăn nhưng bố sẽ luôn để dành cho bạn phần thức ăn ngon nhất, chiếc áo đẹp nhất...
Những gì bố dành cho bạn có thể không phải tiền bạc, giàu sang hay thứ gì to tát nhưng chắc chắn nó là thứ tốt nhất bố có thể làm được vì bạn
Trong mắt chúng ta, bố lúc nào cũng như một siêu anh hùng, cái gì cũng biết, cái gì cũng làm được. Nhưng thực tế thì bố cũng đã phải học hỏi rất nhiều để có thể trở thành người hùng đúng nghĩa
Người hùng của chúng ta không có một siêu năng lực đặc biệt nào nhưng vẫn có thể đứng sau trợ giúp chúng ta mỗi khi chúng ta cần
Với bố, bạn là tất cả, mọi yêu cầu của bạn, bố đều sẽ cố gắng hoàn thành. Chỉ cần bạn thấy vui là bố cũng vui rồi
Hạnh phúc của bố chính là được thấy nụ cười của bạn, vậy nên bố chẳng nề hà làm bất cứ việc gì miễn là khiến bạn vui
Nhưng sau tất cả, bố là bố nhưng bố cũng là một người đàn ông bình thường nữa, bố cũng biết mệt, biết đau nhưng vì chúng ta, bố sẽ đặt sự mệt mỏi, đặt nỗi đau ấy sang một bên và tiếp tục kiên cường chống đỡ
Bố chẳng bao giờ khóc, chẳng bao giờ than mệt, bố lúc nào cũng giấu diếm cảm xúc của mình để bạn không cảm thấy lo lắng
Những lúc bố giận dữ, bạn cảm thấy bố thật đáng sợ, thậm chí còn thấy ghét bố. Nhưng bạn biết không, bố đánh bạn, bạn đau một thì bố phải đau mười cơ
Bạn nghịch ngợm, bạn làm bố phiền lòng, bố đánh bạn không phải vì không thương bạn mà vì muốn bạn sửa sai, bố chỉ muốn tốt cho bạn mà thôi
Bố không giống mẹ, bố không giỏi biểu lộ tình cảm nhưng điều đó không có nghĩa bố không yêu bạn. Chỉ là yêu thương của bố có phần trầm lặng hơn, sâu lắng hơn...
Bố vốn đã gắn với hình tượng khô khan, ít nói mà, nhưng chỉ cần nhìn ánh mắt tự hào của bố khi nhắc về bạn là đủ hiểu bố yêu bạn nhiều như thế nào rồi
Người hùng của chúng ta cũng không thể chống lại quy luật khắc nghiệt của thời gian. Người đàn ông mạnh mẽ ấy rồi cũng sẽ có một ngày tóc bạc đi, lưng còng xuống, bước chân dần thêm chậm chạp
Người từng nâng bạn lên cao tưởng chừng chạm tới bầu trời lúc này đây thậm chí còn cần người đỡ mỗi khi bước đi...
Thế nhưng, thời gian dù có vô tình đến đâu thì nó cũng chẳng thể làm phai nhạt đi tình yêu bố dành cho bạn. Tình yêu của bố như ngọn núi, luôn sừng sững vượt qua tháng năm. Bạn có tin hay không, dù một ngày kia bố quên đi chính mình thì chắc chắn bố cũng không bao giờ quên yêu bạn
Ngày hôm nay, bạn đã nói yêu bố chưa?
http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/2.html
Lòng tin và khả năng tự đề kháng
Vương Trí NhànVăn hóa Nghệ An, số 306, 10/12/2015
12:43' CH - Thứ hai, 01/02/2016
Theo
một con số thống kê sơ bộ thì khoảng 70% dân nghiện ma tuý ở các mức độ
khác nhau có độ tuổi mới 25. Dưới đây chúng tôi thử đưa ra một cách
giải thích cái hiện tượng nguy hại đó dưới góc độ văn hoá - đạo đức.
Khi
một thanh niên vào con đường nghiện ngập tức anh ta đang tự huỷ hoại
thân xác. Trước mắt mọi người anh ta là hiện thân của một kẻ bạc nhược
mất hết ý chí. Một sự suy đồi về tính cách chính thức bắt đầu.
Đúng ra phải gọi là một cái chết đến sớm.
Tại sao ai cũng biết vậy, mà trong xã hội, tệ nạn ấy ngày một phát triển và không biết bao giờ mới có thể triệt bỏ?
Khi nêu câu hỏi này với một số người, tôi thường được nghe những câu trả lời đại khái:
- Tại nhà trường xã hội buông lỏng giáo dục
- Tại các cửa khẩu bị lũng đoạn để hàng lậu nhập vào.
- Ôi giời, vốn một mà lãi trăm lãi ngàn! Ông bà nào muốn hốt bạc của thiên hạ thật nhanh thì chỉ có cách đi vào con đường buôn bán cái thứ hàng đó.
Nhưng tôi cho rằng bên cạnh những nguyên nhân khách quan nói trên, ở đây còn có nguyên nhân chủ quan, tức bản thân “cơ địa”, cái đời sống tâm lý của một số thanh niên hiện nay, nó đang là mảnh đất lý tưởng để sự hư hỏng hoành hành.
Và đây có lẽ là một ví dụ rõ nhất chứng minh cho cái điều đơn giản -- các hiện tượng tiêu cực bao giờ cũng cócăn nguyên văn hoá - đạo đức sâu xa của chúng.
NUÔNG CHIỀU QUÁ MỨC
Tội lỗi nhiều khi chỉ bắt đầu từ một phút yếu lòng, một sự buông thả. Tệ hút xách cũng không ra ngoài quy luật đó. Nhiều nạn nhân đã đến với tử thần do chỗ a dua với bạn bè, nhẹ dạ ham chơi ham của lạ, và khi biết mình “tay đã nhúng chàm” thì không rút ra nổi.
Có vẻ như trong trường hợp này, các đương sự đáng được giảm nhẹ tội lỗi: Cái lối sống bầy đàn theo đuôi nhau, cái bệnh học đòi đua đả nhau, thanh niên thời nào chẳng có?
Nhưng khi để cho một bộ phận thanh thiếu
niên trở nên ẽo uột và dễ bị lôi kéo như vậy, thì trách nhiệm của những
người lớn tuổi lại nặng nề hơn bao giờ hết.
Ở đây có những thói quen, thoạt nhìn vô can, song lại tai hại vô kể.
Nhiều người chúng ta, lớn lên trong những hoàn cảnh cơ cực, khi đã khá giả hơn một chút, thương thân mình rồi thương lây sang con, thường muốn cho con ăn tiêu thật thoải mái.
Không ai cho là có lỗi khi trót nuông chiều trẻ quá mức.
Trong nhiều gia đình, lớp trẻ chỉ biết có quyền lợi mà không biết đến trách nhiệm.
Các trường học bây giờ lại có lối cho điểm học trò thật cao để lấy thành tích. Trong sự dễ dãi với nhau, ta càng dễ hơn với trẻ. Và trẻ cứ thế nghênh ngang vào đời với sự tự tin chúng là những ông tướng.
Trong khi kêu trời với nhau rằng thanh thiếu niên giờ đây nhiều em ích kỷ, ham hưởng thụ, dửng dưng với việc đời, với cái hay cái dở... nhiều người quên rằng chính mình đã góp phần nhào nặn nên những tính cách đó. Giá kể như chúng ta sớm biết đề ra những yêu cầu cao với trẻ, biết dạy dỗ chúng trở nên những con người nhạy cảm, có lòng vị tha, có nghị lực theo đuổi mục đích cao đẹp... thì đâu đến nỗi!
TƯỚC BỎ MẤT SỨC ĐỀ KHÁNG
Theo như cách nói của y học, cơ thể nào cũng có sức tự đề kháng. Trước sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh, cơ thể huy động mọi bản năng để tự vệ, tức để duy trì sự sống.
Thành thử đòn đánh mạnh nhất đối với một cơ thể là đánh vào khả năng tự đề kháng này.
Bấy giờ cơ thể trở nên vô cùng yếu ớt, mọi sự thuốc thang chạy chữa chỉ còn rất ít ý nghĩa.
Đối với sức khoẻ tinh thần, tình hình cũng có nhiều phần tương tự. Khả năng tự đề kháng nói ở đây là sự phân biệt hay dở xấu tốt và lòng tin rằng người ta cần phải tốt và có thể tốt.
Thiếu đi lòng tin ấy, con người ta sẽ mất hết khả năng tự kiềm chế và tự phấn đấu, sẽ sống buông thả, tuỳ tiện, rồi rơi vào tội lỗi lúc nào không biết.
Tiếc thay, cách cư xử của người lớn trong một số gia đình hiện nay khiến con cái họ cứ ngấm dần căn bệnh quái ác kia. Tức là một số thanh niên đang mất dần sức đề kháng trước sự cám dỗ của thói xấu, không còn khả năng chống đỡ.
THƯỜNG TRỰC BÀY RA NHỮNG TẤM GƯƠNG XẤU
Như các nhà nghiên cứu giáo dục vẫn nhận xét, thanh thiếu niên thường rất ngại phải nghe những lời giáo huấn từ phía người lớn, nhưng lại thường xuyên quan sát xem người lớn sống ra sao để rồi tìm ra kết luận cần thiết cho việc xử thế.
Vậy thì làm sao chúng có thể ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành khi biết rằng bố mẹ chúng chỉ phất lên nhờ khéo léo luồn lọt và giờ đây đang tìm cách tô điểm cho bản thân bằng mấy tấm bằng rởm?
Việc nhà nước giao chỉ làm cầm chừng, cái gì có lợi riêng mới sốt sắng thúc đẩy.
Giữa các đồng nghiệp nếu không móc ngoặc được với nhau thì đấu đá kèn cựa.
Dửng dưng trước mọi lời chê trách.
Vào cửa nào cũng tính chuyện lót tay, chạy chọt, và quả thật “nén bạc đâm toạc tờ giấy”, đồng tiền đã thành một thứ dầu mỡ bôi trơn mọi mối quan hệ...
...
Đó là những thói xấu hiện thời đang khá phổ biến trong xã hội, và khó lòng nói rằng chúng không ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của lớp trẻ. Cộng với những kém cỏi của nhà trường (cổ lỗ trong kiến thức và phương pháp giảng dạy; nghèo nàn trong quan niệm về đào tạo; và rồi cũng làm ăn, mua bài, xin điểm, bán bằng cấp...), có thể nói bao nhiêu yếu tố tiêu cực mà hàng ngày mọi người quan sát thấy ở mình và mọi người, và một phần được nói lên trên báo chí, đã làm cho tâm hồn một số thanh thiếu niên trở nên cằn cỗi.
Chúng dễ cảm thấy cuộc đời vô nghĩa. Những khái niệm mà xã hội cho là đúng đắn đối với chúng trở thành giả dối.
Thậm chí có những em không thiết sống. Tôi nhớ có lần được nghe kể: một thanh niên vừa đến tuổi trưởng thành thì phạm tội, bị án tử hình. Có mấy cô mấy bác có mặt ở phiên toà, thương tình, bảo cháu xin giảm án. Có dịp giáp mặt với cái chết, người thanh niên gạt nước mắt nói ra cái điều có lẽ là nghiêm chỉnh nhất trong đời mình:
- Cháu xin giảm án
để làm gì ? Ở nhà bố mẹ không thương xót cháu; đi học nhà trường bất
công; học không có chỗ, học xong không có việc làm - cháu sống để cùng
kéo dài cái kiếp dài rạc như các cô các bác hay sao?
Những kẻ đã chết một phần tâm hồn thường dành cho mình quyền làm bất cứ việc gì chúng thích, không biết đến lương tâm, càng không biết đến pháp luật. Và trước mắt, đám trẻ này chỉ thèm hưởng thụ. Còn có môi trường lý tưởng nào với chúng, hơn cảnh nghiện hút?
KHÔNG PHẢI HÔM NAY TRẺ MỚI HƯ HỎNG NHƯNG CHƯA CÓ THỜI NÀO TRẺ HƯ HỎNG NHƯ THỜI NAY
Trong nếp sinh hoạt cũ của ông cha ta, ngoài nhiều đức tính tốt cũng đầy rẫy nếp sống tiêu cực.
Cả "Việt Nam phong tục" của Phan Kế Bính lẫn "Việt Nam văn hoá sử cương"
của Đào Duy Anh đều có một chương riêng nói về cuộc tiêu khiển, trong
đó có mục phiện phò hút xách, và nói rõ cái hại của tục này.
Trần Trọng Kim trong "Việt Nam sử lược" cũng nói người mình phải cái thích chơi bời, mê cờ bạc. Ca dao ghi lại trình tự làm ăn sinh hoạt các tháng trong năm, mở đầu bằng hai câu:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè
Xưa ta hay bảo đó là nếp sống suy đồi của bọn thống trị. Nhưng giai cấp thống trị cũng là một bộ phận của dân tộc.
Vả chăng, thói xấu chẳng chừa một ai, càng những con người cùng cực khi đã trở nên lưu manh càng trở nên bất cần, liều lĩnh.
Vậy là xét về bề nào cũng thấy nạn nghiện hút – và nói chung là mọi thói xấu -- trong lớp trẻ hiện nay có những căn nguyên sâu xa trong cách sống của chúng ta, thậm chí cả trong đạo lý cũng như truyền thống văn hoá. Chừng nào mà những căn nguyên đó chưa được làm rõ và thay đổi, thì những mầm mống bệnh tật còn có cơ nảy nở. Trị đám buôn bán thứ hàng độc hại ấy là rất cần. Song duy trì được đời sống tinh thần lành mạnh để những tệ nạn ấy không có đất mà phát triển - cái đó mới thật là việc cơ bản phải lo. Bởi đây là công việc có ý nghĩa văn hoá, nên giới văn hoá phải có mặt.
Ai chịu trách nhiệm cho sự bền vững của cá nhân?
Tạp chí Tia Sáng (2010)
Tôi
đã đọc tạp chí Tia Sáng số tháng 11.2004 thấy có đăng một số bài về
phát triển bền vững. Đây cũng là đề tài gần đây được giới báo chí bình
luận nhiều. Những vấn đề như phát triển kinh tế phải để mắt tới thiên
nhiên, các chính sách phát triển phải đảm bảo được sự cân bằng cả về
kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, đến cả sự bền vững của một doanh
nghiệp. Tôi rất ủng hộ quan điểm cần phải có sự phát triển bền
vững, bởi nếu chúng ta chỉ chăm chăm vào những kết quả nhãn tiền, chúng
ta sẽ chẳng để lại được gì, thậm chí còn tàn phá môi trường sống của con
cháu, như vậy chẳng khác gì chúng ta là những kẻ huỷ diệt.
Tuy nhiên, có một khía cạnh nữa của phát triển bền vững mà tôi chưa thấy được phân tích thấu đáo. Đó là sự phát triển bền vững của mỗi cá nhân trong xã hội, của mỗi công dân trong một quốc gia. Tác giả chính của cuốn First Things First, một cuốn sách bán chạy nhất nước Mỹ, Stephen Covey đã tổng kết, để bền vững mỗi cá nhân phải biết chăm lo cho 4 nhu cầu hay phương diện sống: thể lý, xã hội, trí não và tinh thần. Thể lý đề cập đến sự an toàn về kinh tế, sức khỏe. Xã hội thể hiện quan hệ giữa con người với con người. Trí não bao trùm nhu cầu được học hỏi, không ngừng rèn luyện bản thân. Tinh thần là nhu cầu đỉnh cao, khi con người ta được giúp đỡ người khác, được cống hiến cho mục đích cao đẹp, được để lại những di sản có ý nghĩa cho thế hệ mai sau.
Xét theo góc độ này, tôi dám khẳng định phần lớn chúng ta chẳng ai "bền vững". Còn ngỡ ngàng trước "sức nặng" của đồng tiền từ khi đất nước mở cửa nền kinh tế, chúng ta quá chú trọng đến vấn đề tiền bạc. Song thực ra lại chưa thật coi trọng nhu cầu thể lý theo đúng nghĩa. Chúng ta ăn uống, chơi bời, tiêu tốn tiền bạc vào thời trang, hàng triệu mà không biết dành dụm để đầu tư cho tương lai. Đúng là nhiều trung tâm thể hình, các câu lạc bộ sức khỏe được dựng lên, nhưng chúng chỉ để thỏa mãn ham muốn "thời thượng". Chúng ta ăn để "khoái khẩu", không chú trọng vào chế độ dinh dưỡng hợp lý cho cơ thể, nếu có bệnh thì viện ngay đến thuốc tây, bắc, đông, nam đủ cả.
Chúng ta rèn luyện cật lực, sẵn sàng ngồi mòn ghế phòng hành chính mấy năm trời, có khi chỉ để trực điện thoại, pha trà cho sếp, vì ta biết rằng "có công mài sắt có ngày nên kim", một ngày nào đó khi vị nào về hưu hay "cán cân" thay đổi, vị trí "ngon ăn" kia sẽ thuộc về mình. Còn chuyên môn thì chỉ cần vừa đủ để làm những việc thiết yếu, trên đời này có mọt sách nào làm quan? ở mảng khác, lại có những người sống đường đường chính chính, nhưng chẳng có nhu cầu rèn rũa nhiều làm gì. Ra trường, đi làm một vài năm tích lũy, lập gia đình, làm việc chỉ để lấy vui, chuyện trau dồi chuyên môn để dành cho bọn học sinh, sinh viên, những kẻ "ngựa non háu đá". Đến khi môi trường thay đổi, cơ quan sa thải những người lạc hậu, lúc đấy mới trắng mặt ra, hoặc lui về nhà làm hậu phương, hoặc xoay xở một chỗ khác ít bị tác động bởi yếu tố bên ngoài.
Nếu rảnh rỗi, bạn chỉ cần ngồi ngoài quán nước cũng hiểu kha khá sự đời. Mấy bác xích lô túm năm tụm ba đánh tá lả, hút thuốc phì phèo, bàn chuyện ông nọ bà kia tham ô, tham nhũng, ăn cắp của công, thế mà cũng đòi là "đầy tớ của dân". "Đời này lắm trái ngang", các bác vừa chửi vừa nhỏ toẹt bãi nước trà vừa súc miệng ra ngoài đường , ai vô phúc đi qua thì nếm đủ. Về nhà đang cơn "phấn khích", vợ con mà lèo nhèo thì cũng ăn đủ luôn. Ngay trong trường học cũng có nhiều chuyện làm ta ngẩn người. Một cô bạn ngồi cạnh tôi thản nhiên phát biểu: "thì những người lên đến chức cao thế cũng phải được hưởng lợi xứng đáng chứ", khi cả lớp thảo luận về chuyện tham nhũng trong giới quan chức.
Tuy nhiên, có một khía cạnh nữa của phát triển bền vững mà tôi chưa thấy được phân tích thấu đáo. Đó là sự phát triển bền vững của mỗi cá nhân trong xã hội, của mỗi công dân trong một quốc gia. Tác giả chính của cuốn First Things First, một cuốn sách bán chạy nhất nước Mỹ, Stephen Covey đã tổng kết, để bền vững mỗi cá nhân phải biết chăm lo cho 4 nhu cầu hay phương diện sống: thể lý, xã hội, trí não và tinh thần. Thể lý đề cập đến sự an toàn về kinh tế, sức khỏe. Xã hội thể hiện quan hệ giữa con người với con người. Trí não bao trùm nhu cầu được học hỏi, không ngừng rèn luyện bản thân. Tinh thần là nhu cầu đỉnh cao, khi con người ta được giúp đỡ người khác, được cống hiến cho mục đích cao đẹp, được để lại những di sản có ý nghĩa cho thế hệ mai sau.
Xét theo góc độ này, tôi dám khẳng định phần lớn chúng ta chẳng ai "bền vững". Còn ngỡ ngàng trước "sức nặng" của đồng tiền từ khi đất nước mở cửa nền kinh tế, chúng ta quá chú trọng đến vấn đề tiền bạc. Song thực ra lại chưa thật coi trọng nhu cầu thể lý theo đúng nghĩa. Chúng ta ăn uống, chơi bời, tiêu tốn tiền bạc vào thời trang, hàng triệu mà không biết dành dụm để đầu tư cho tương lai. Đúng là nhiều trung tâm thể hình, các câu lạc bộ sức khỏe được dựng lên, nhưng chúng chỉ để thỏa mãn ham muốn "thời thượng". Chúng ta ăn để "khoái khẩu", không chú trọng vào chế độ dinh dưỡng hợp lý cho cơ thể, nếu có bệnh thì viện ngay đến thuốc tây, bắc, đông, nam đủ cả.
Nếu nói chúng ta không tập trung vào
"quan hệ" thì quả là quan liêu. Thực ra chúng ta "quan hệ" rất nhiều,
nhiều đến mức từ "quan hệ" trở thành danh từ, tính từ để bổ nghĩa cho
các từ khác như "chi phí", "khiếu"... Tiếc thay, ngoài những quan hệ
kiểu vụ lợi đó, ít ai làm nó xuất phát từ trái tim mình. Thậm chí những
hoạt động từ thiện cũng bị lạm dụng, đóng góp thì ít mà quan hệ với giới
báo chí để họ khuyếch trương cho thì nhiều. Chúng ta tươi cười niềm nở
với người ở tận đầu tận đâu vì người ta biết tán dương những hành động
"hào hiệp" của mình, còn với bố mẹ, vợ chồng, con cái trong gia đình thì
ta chỉ quan hệ vì nghĩa vụ.
Chúng ta rèn luyện cật lực, sẵn sàng ngồi mòn ghế phòng hành chính mấy năm trời, có khi chỉ để trực điện thoại, pha trà cho sếp, vì ta biết rằng "có công mài sắt có ngày nên kim", một ngày nào đó khi vị nào về hưu hay "cán cân" thay đổi, vị trí "ngon ăn" kia sẽ thuộc về mình. Còn chuyên môn thì chỉ cần vừa đủ để làm những việc thiết yếu, trên đời này có mọt sách nào làm quan? ở mảng khác, lại có những người sống đường đường chính chính, nhưng chẳng có nhu cầu rèn rũa nhiều làm gì. Ra trường, đi làm một vài năm tích lũy, lập gia đình, làm việc chỉ để lấy vui, chuyện trau dồi chuyên môn để dành cho bọn học sinh, sinh viên, những kẻ "ngựa non háu đá". Đến khi môi trường thay đổi, cơ quan sa thải những người lạc hậu, lúc đấy mới trắng mặt ra, hoặc lui về nhà làm hậu phương, hoặc xoay xở một chỗ khác ít bị tác động bởi yếu tố bên ngoài.
Nếu rảnh rỗi, bạn chỉ cần ngồi ngoài quán nước cũng hiểu kha khá sự đời. Mấy bác xích lô túm năm tụm ba đánh tá lả, hút thuốc phì phèo, bàn chuyện ông nọ bà kia tham ô, tham nhũng, ăn cắp của công, thế mà cũng đòi là "đầy tớ của dân". "Đời này lắm trái ngang", các bác vừa chửi vừa nhỏ toẹt bãi nước trà vừa súc miệng ra ngoài đường , ai vô phúc đi qua thì nếm đủ. Về nhà đang cơn "phấn khích", vợ con mà lèo nhèo thì cũng ăn đủ luôn. Ngay trong trường học cũng có nhiều chuyện làm ta ngẩn người. Một cô bạn ngồi cạnh tôi thản nhiên phát biểu: "thì những người lên đến chức cao thế cũng phải được hưởng lợi xứng đáng chứ", khi cả lớp thảo luận về chuyện tham nhũng trong giới quan chức.
Chúng ta
chỉ biết phàn nàn, biết "chửi đổng" vì những thứ đó vô thưởng vô phạt.
Nhưng khi phải dấn thân vào guồng máy, phải chịu trách nhiệm thực sự thì
chẳng còn mấy ai dũng cảm trụ lại. Phê phán, bài xích những thứ xấu xa,
tệ nạn là việc cần làm. Nhưng mong rằng những người đưa ra các tuyên bố
đó hãy nhìn lại mình rồi hãy phán xét người khác, phán xét xã hội.
Đừng sống bằng sự dối trá
Alexander Solzhenitsyn, The Washington Post (5 Aug 2005)Thái Phục Nhĩ dịch - Alan Phan
Đã
có thời thậm chí rỉ tai nhau chúng ta cũng không dám! Bây giờ thì chúng
ta viết và đọc sách báo chui, và thỉnh thoảng có tới Viện Khoa Học hút
thuốc gặp nhau thì cũng thành thật mà phàn nàn với nhau rằng: Chúng đang
giở trò gì đây? Chúng còn xỏ mũi ta tới đâu nữa? Quê hương vừa nghèo
vừa điêu tàn mà chúng cứ huyênh hoang khoe nhau những thành tựu trên vũ
trụ.
Chúng ôm mấy cái chế độ cai trị lạc hậu và dã man, rồi thổi cho lửa nội chiến bùng lên. Chúng rút ruột để nuôi Mao Trạch Đông một cách vô tội vạ – rồi tống cổ chúng ta ra chiến trường đánh nhau với hắn, mà chúng ta phải đi. Trốn sao cho thoát? Chúng thích đưa ai ra tòa thì đưa, chúng nhốt người tỉnh táo vào nhà thương điên – chúng nó luôn giở những trò đó, còn chúng ta thì bất lực.
Mọi thứ sắp rớt xuống đáy cùng. Tinh thần chúng ta đã chết hết, còn thân xác chúng ta và cả con cái chúng ta nữa, cũng sắp bị ném vào lửa cháy rụi. Thế mà chúng ta vẫn bình chân như vại, cứ nhếch mép cười một cách tiểu nhân, và lưỡi không bị ngọng mà vẫn lúng búng trong miệng. Nhưng chúng ta biết làm gì mà ngăn nó cho được? Hay là chúng ta không đủ sức?
Chúng ta bị tước đoạt nhân tính một cách tàn bạo tới mức chỉ vì miếng cơm manh áo qua ngày thôi mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ mọi nguyên tắc và linh hồn của mình, mọi nỗ lực của tiền nhân và mọi cơ hội của hậu thế – miễn sao đừng đụng tới sự tồn tại mong manh của mình là được. Chúng ta không có khí phách, không có tự trọng, không có nhiệt tình. Vũ khí hạch tâm, thế chiến thứ ba chúng ta không sợ. Chúng ta đã nấp kĩ trong hang rồi. Chúng ta chỉ sợ làm người công dân có dũng khí.
Chúng ta chỉ sợ tụt lại phía sau đàn và phải bước đi một mình và đột nhiên thấy mình không có bánh mì ăn, không có lò sưởi ấm và không có một đăng ký hộ khẩu Moscow. Chúng ta đã được tuyên truyền trong các khóa học chính trị, và theo cùng một cách giống hệt nhau, đã được bồi dưỡng các ý tưởng sống yên thân, và mọi thứ sẽ tốt đẹp trong phần còn lại của cuộc đời. Bạn không thể thoát khỏi môi trường và điều kiện xã hội. Cuộc sống hàng ngày định hình ý thức. Cái đó có liên quan gì với chúng ta? Chúng ta có thể làm gì với nó?
Được chứ, được tất cả là đàng khác. Nhưng chúng ta dối lòng mình để an thân. Đừng trách bọn chúng, có trách thì trách chúng ta đi. Có người vặn hỏi: thì ông muốn nghĩ gì mà chẳng được. Chúng đã dém miệng chúng ta. Có ai chịu nghe chúng ta, có ai thèm đoái hoài chúng ta. Làm sao mà bắt chúng nghe chúng ta nói được? Không thể nào thay đổi được não trạng của chúng.
Tất nhiên là có thể đầu phiếu để loại bọn chúng, nhưng mà đất nước này làm gì có tuyển cử. Ở phương Tây người ta có bãi công và biểu tình phản đối, còn chúng ta thì bị đàn áp thẳng tay, có những cảnh mới nghĩ tới đã thấy rùng mình: ai dám thình lình bỏ việc mà xuống đường? Song le, những con đường chết chóc mà dân tộc Nga đã mò mẫm trong đau khổ suốt thế kỉ qua không phải dành cho chúng ta, mà quả thật chúng ta không cần đi lại những con đường như vậy.
Alekxandr Isayevich Solzhenitsyn (1918-2008) là nhà văn, nhà viết kịch của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga đoạt giải Nobel Văn học năm 1970
Bây giờ cái rìu đã làm xong việc, hạt giống gieo xuống đã nảy mầm, chúng ta có thể thấy là những kẻ còn trẻ tuổi mà cuồng vọng, cho là có thể dùng khủng bố, cách mạng đẫm máu và nội chiến để mang lại bình đẳng và hạnh phúc cho đất nước chúng ta, chính họ là những kẻ lạc lối. Thế đủ rồi, xin cảm ơn các vị giác ngộ cách mạng tiên phong! Bây giờ chúng ta mới biết phương pháp xú uế tất sinh kết quả xú uế. Hãy để cho tay của chú
Cái vòng trói buộc này đã đóng chặt rồi sao? Không còn lối thoát? Và chúng ta chỉ còn một đường duy nhất thôi, là khoanh tay đợi? Đợi cho tới khi có biến? Chừng nào mỗi ngày chúng ta đều thừa nhận, ca ngợi, và nuôi dưỡng – chứ không tự mình chém phăng đi một điều không ai không thấy, là sự dối trá – thì đừng mong có chuyện gì xảy ra.
Bạo động len lỏi vào cuộc sống an bình, cái mặt nó toát ra vẻ ngạo mạn, y như đang khoác một ngọn cờ và hô to: “Bạo động đây. Tránh ra, nhường đường cho tao, không tao nghiến nát tụi bay.” Nhưng mà bạo động mau già. Rồi nó mất hết tự tín, và để giữ cho cái mặt ra vẻ khả kính nó rước thằng dối tra về làm đồng minh – vì không phải ngày nào nó cũng thò bàn tay thô bạo của nó ra được, mà thò ra được cũng bất tất chụp hết mọi người. Nó chỉ cần chúng ta ngoan ngoãn phục tùng dối trá và hàng ngày thực hành dối trá – đây chính là yếu huyệt của mọi sự trung thành.
Cái chìa khóa đơn giản nhất và dễ làm nhất mở ra cánh cửa tự do, tự do mà bấy lâu nay chúng ta lãng quên, là: mỗi người cùng tẩy chay dối trá. Mặc dù dối trá che giấu tất cả, mặc dù dối trá phủ lấy tất cả, nhưng tôi tuyệt không nhúng tay.
Làm vậy tức là mở một lối thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn hoang tưởng do chúng ta khoanh tay đứng nhìn mà ra. Cách đó vừa dễ làm nhất vừa tiêu diệt dối trá mau nhất. Vì rũ bỏ dối trá, tức là cắt đứt đường sống của nó. Dối trá giống như bệnh dịch, chỉ có thể sống bám vào một sinh vật.
Chúng ta không cần phải ám thị mình. Chúng ta chưa đủ già dặn để tiến vào các quảng trường mà gào lên sự thật hay biểu hiện tư tưởng của mình. Chưa tới lúc phải làm thế. Nguy hiểm nữa. Chỉ cần điều gì mình không nghĩ thì chúng ta từ chối đừng nói là được.
Đó là con đường của chúng ta, con đường dễ nhất ai cũng làm được, con đường đã chiếu cố sự hèn nhát thâm căn cố đế của chúng ta. Nó dễ hơn phương pháp công dân bất phục tùng của Gandhi xiển dương – dễ tới mức viết những lời này còn nguy hiểm hơn.
Con đường của chúng ta là tránh xa chỗ thối nát. Nếu chúng ta đừng ghép đống xương tàn và lớp vảy khô của ý thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta đừng mất công vá lại mớ giẻ rách, thì chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy là sự dối trá sẽ hóa ra bất lực và tiêu ma nhanh chóng. Lúc đó, cái gì cần lột trần mới thực phơi ra trước cả và thiên hạ.
Vì thế, dù có dè dặt, mỗi chúng ta hãy lựa cho mình: hoặc là, cam tâm làm nô lệ cho hư ngụy – tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng con cái mình trong tinh thần dối trá không phải vì đó là bản tính của chúng ta, mà chẳng qua là để kiếm ăn nuôi gia đình – hoặc là rũ sạch mọi sự dối trá làm một người lương thiện xứng đáng được con cái và người đồng thời kính trọng.
Con đường của chúng ta là không tự nguyện ủng hộ bất kì sự dối trá nào. Khi chúng ta đã biết bản chất của hư ngụy ở đâu, thì chúng ta mỗi người sẽ biết cách nhìn ra đâu là dối, đâu là thật.
Và từ đó trở đi chúng ta sẽ:
• bằng mọi cách không viết, kí, hay in một lời nào chúng ta cho là bóp méo sự thật;
• không nói những lời như thế, dù là nói chuyện riêng hay nói trước đông người, tự ý mình hay theo ý người khác, dù làm công tác cỗ vũ, dạy học, giáo dục hay đóng trò trên sân khấu;
• không mô tả, cổ vũ, hay truyền đi một ý tưởng nào chúng ta thấy rõ ràng là sai hay bóp méo sự thật, dù bằng hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc;
• không trích lời người khác nói hoặc viết mà không đặt lời trích vào ngữ cảnh, để lấy lòng ai đó, hay để lót đường cho mình, hay để thành công trong công việc nếu mình không hoàn toàn đồng ý với ý tưởng trích dẫn, hoặc nếu ý trích dẫn đó không phản ánh chân thực bản chất vấn đề;
• không để cho mình bị ép phải dự những cuộc biểu dương hay hội họp nào trái với sở thích hay ý nguyện mình, không cầm hoặc giương lên những tiêu ngữ hay biểu ngữ nào mình không hoàn toàn chấp nhận;
• không giơ tay biểu đồng tình cho một đề xuất mà ta không thành thật tán đồng, không bầu cho người mình cho không xứng đáng hay đáng ngờ về tài năng, dù bầu công khai hay bí mật;
• không để cho mình bị lôi tới những cuộc họp mà mình đoán người ta sẽ bức mình thảo luận hoặc bóp méo một vấn đề;
• lập tức bước ra khỏi những cuộc họp, hội nghị, thuyết trình, biểu diễn, chiếu phim nếu nghe thấy diễn giả nói láo, rêu rao những rác rưởi ý thức hệ, hoặc những lời tuyên truyền lố bịch;
• không đóng góp hoặc mua những báo chí bóp méo thông tin hoặc giấu giếm những sự thật hiển nhiên.
Tất nhiên là chúng ta chưa liệt kê hết mọi biến thái hư ngụy cần phải liệt kê. Nhưng người nào thanh luyện mình sẽ nhờ lương tâm trong sạch mà phân biệt được chân ngụy.
Những người chọn con đường này ban đầu cuộc sống sẽ rất thay đổi. Có người bị mất việc. Những người trẻ muốn sống chân thật, thì những việc như thế này sẽ làm cho đời thanh xuân của họ ra phức tạp, vì khóa học bắt buộc nào cũng nhét toàn dối trá, không thể không chọn lọc.
Nhưng không có lối đi nào dễ dãi hơn cho người muốn làm người lương thiện. Ngày nào chúng ta cũng có người phải đối diện ít nhất là một trong những tình huống trên, cho dù là trong những ngành khoa học kĩ thuật vô thưởng vô phạt dễ tìm được chỗ nương náu nhất. Hoặc là chân thật, hoặc là hư ngụy: một đường đi tới tự do tinh thần, một đường đi tới nô lệ tinh thần.
Còn những kẻ không đủ dũng khí bảo vệ linh hồn mình– các người chớ vin vào mấy quan điểm ‘tiến bộ’ của mình mà kiêu ngạo, chớ huyênh hoang mình là hàn lâm học sĩ, là nghệ sĩ nhân dân, là yếu nhân có nhiều công trạng, hay là đại tướng – các người hãy tự nói với mình: Mình thà ở lại đàn làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng thì thôi.
Lối phản kháng này tuy nhu nhược nhất trong mọi lối phản kháng cũng không phải là dễ. Tất nhiên là dễ hơn tự thiêu hay tuyệt thực: lửa sẽ không dìm thân anh, mắt anh không bị nung cho nổ ra, và gia đình anh sẽ không lúc nào thiếu cơm ăn nước uống.
Một dân tộc vĩ đại ở châu Âu, dân Tiệp Khắc, họ bị chúng ta phản bội và lừa dối, chẳng là họ đã cho chúng ta thấy nếu trong lồng ngực có một trái tim cao thượng thì tấm ngực mỏng manh kia có thể đứng lên chống lại xe thiết giáp đấy sao?
Anh bảo làm thế không dễ? Nhưng trong mọi cách thì cách đó là dễ nhất. Cách đó có thể nguy tới tánh mạng, nhưng muốn cứu linh hồn thì không còn cách nào khác. Phải, con đường đó không phải là con đường dễ đi. Nhưng mà có nhiều người, rất nhiều nữa là khác, năm này qua năm nọ đã theo đuổi lí tưởng ấy, chỉ vì họ lấy chân thật làm lẽ sống.
Cho nên anh không phải là người đầu tiên chọn đi đường này, anh chỉ gia nhập dòng người đã dấn thân vào đó. Nếu chúng ta nâng đỡ nhau và sát cánh nhau thì con đường này sẽ dễ đi và ngắn bớt lại. Nếu chúng ta đông tới hàng ngàn người thì bọn chúng sẽ không làm gì được chúng ta. Nếu chúng ta lên tới hàng vạn người thì đất nước này sẽ khoác bộ mặt mới đến mức chúng ta không còn nhận ra nữa. Nếu chúng ta khiếp nhược quá, thì đừng trách người ta đàn áp mình mãi.
Chính chúng ta đang tự mình đàn áp mình đấy. Lúc đó thì hãy khom lưng xuống nữa, hãy rên xiết nữa, và đợi tới ngày những người anh em của chúng ta, các nhà sinh học, tìm ra cách đọc được tư tưởng của chúng ta, một thứ tư tưởng vô giá trị và tuyệt vọng.
Và nếu thậm chí đã chọn con đường yên thân mà chúng ta vẫn rơi vào chỗ cùng khốn, thì chúng ta đúng là đồ bỏ đi, không còn cách gì cứu vớt được. Lúc đó, chúng ta đáng dành cho những lời khinh bỉ này của Pushkin:
“Đồ súc sinh thì làm gì có tự do. Muôn đời di sản của nó chỉ là ách nặng và roi vọt.”
Chúng ôm mấy cái chế độ cai trị lạc hậu và dã man, rồi thổi cho lửa nội chiến bùng lên. Chúng rút ruột để nuôi Mao Trạch Đông một cách vô tội vạ – rồi tống cổ chúng ta ra chiến trường đánh nhau với hắn, mà chúng ta phải đi. Trốn sao cho thoát? Chúng thích đưa ai ra tòa thì đưa, chúng nhốt người tỉnh táo vào nhà thương điên – chúng nó luôn giở những trò đó, còn chúng ta thì bất lực.
Mọi thứ sắp rớt xuống đáy cùng. Tinh thần chúng ta đã chết hết, còn thân xác chúng ta và cả con cái chúng ta nữa, cũng sắp bị ném vào lửa cháy rụi. Thế mà chúng ta vẫn bình chân như vại, cứ nhếch mép cười một cách tiểu nhân, và lưỡi không bị ngọng mà vẫn lúng búng trong miệng. Nhưng chúng ta biết làm gì mà ngăn nó cho được? Hay là chúng ta không đủ sức?
Chúng ta bị tước đoạt nhân tính một cách tàn bạo tới mức chỉ vì miếng cơm manh áo qua ngày thôi mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ mọi nguyên tắc và linh hồn của mình, mọi nỗ lực của tiền nhân và mọi cơ hội của hậu thế – miễn sao đừng đụng tới sự tồn tại mong manh của mình là được. Chúng ta không có khí phách, không có tự trọng, không có nhiệt tình. Vũ khí hạch tâm, thế chiến thứ ba chúng ta không sợ. Chúng ta đã nấp kĩ trong hang rồi. Chúng ta chỉ sợ làm người công dân có dũng khí.
Chúng ta chỉ sợ tụt lại phía sau đàn và phải bước đi một mình và đột nhiên thấy mình không có bánh mì ăn, không có lò sưởi ấm và không có một đăng ký hộ khẩu Moscow. Chúng ta đã được tuyên truyền trong các khóa học chính trị, và theo cùng một cách giống hệt nhau, đã được bồi dưỡng các ý tưởng sống yên thân, và mọi thứ sẽ tốt đẹp trong phần còn lại của cuộc đời. Bạn không thể thoát khỏi môi trường và điều kiện xã hội. Cuộc sống hàng ngày định hình ý thức. Cái đó có liên quan gì với chúng ta? Chúng ta có thể làm gì với nó?
Được chứ, được tất cả là đàng khác. Nhưng chúng ta dối lòng mình để an thân. Đừng trách bọn chúng, có trách thì trách chúng ta đi. Có người vặn hỏi: thì ông muốn nghĩ gì mà chẳng được. Chúng đã dém miệng chúng ta. Có ai chịu nghe chúng ta, có ai thèm đoái hoài chúng ta. Làm sao mà bắt chúng nghe chúng ta nói được? Không thể nào thay đổi được não trạng của chúng.
Tất nhiên là có thể đầu phiếu để loại bọn chúng, nhưng mà đất nước này làm gì có tuyển cử. Ở phương Tây người ta có bãi công và biểu tình phản đối, còn chúng ta thì bị đàn áp thẳng tay, có những cảnh mới nghĩ tới đã thấy rùng mình: ai dám thình lình bỏ việc mà xuống đường? Song le, những con đường chết chóc mà dân tộc Nga đã mò mẫm trong đau khổ suốt thế kỉ qua không phải dành cho chúng ta, mà quả thật chúng ta không cần đi lại những con đường như vậy.
Alekxandr Isayevich Solzhenitsyn (1918-2008) là nhà văn, nhà viết kịch của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga đoạt giải Nobel Văn học năm 1970
Bây giờ cái rìu đã làm xong việc, hạt giống gieo xuống đã nảy mầm, chúng ta có thể thấy là những kẻ còn trẻ tuổi mà cuồng vọng, cho là có thể dùng khủng bố, cách mạng đẫm máu và nội chiến để mang lại bình đẳng và hạnh phúc cho đất nước chúng ta, chính họ là những kẻ lạc lối. Thế đủ rồi, xin cảm ơn các vị giác ngộ cách mạng tiên phong! Bây giờ chúng ta mới biết phương pháp xú uế tất sinh kết quả xú uế. Hãy để cho tay của chú
Cái vòng trói buộc này đã đóng chặt rồi sao? Không còn lối thoát? Và chúng ta chỉ còn một đường duy nhất thôi, là khoanh tay đợi? Đợi cho tới khi có biến? Chừng nào mỗi ngày chúng ta đều thừa nhận, ca ngợi, và nuôi dưỡng – chứ không tự mình chém phăng đi một điều không ai không thấy, là sự dối trá – thì đừng mong có chuyện gì xảy ra.
Bạo động len lỏi vào cuộc sống an bình, cái mặt nó toát ra vẻ ngạo mạn, y như đang khoác một ngọn cờ và hô to: “Bạo động đây. Tránh ra, nhường đường cho tao, không tao nghiến nát tụi bay.” Nhưng mà bạo động mau già. Rồi nó mất hết tự tín, và để giữ cho cái mặt ra vẻ khả kính nó rước thằng dối tra về làm đồng minh – vì không phải ngày nào nó cũng thò bàn tay thô bạo của nó ra được, mà thò ra được cũng bất tất chụp hết mọi người. Nó chỉ cần chúng ta ngoan ngoãn phục tùng dối trá và hàng ngày thực hành dối trá – đây chính là yếu huyệt của mọi sự trung thành.
Cái chìa khóa đơn giản nhất và dễ làm nhất mở ra cánh cửa tự do, tự do mà bấy lâu nay chúng ta lãng quên, là: mỗi người cùng tẩy chay dối trá. Mặc dù dối trá che giấu tất cả, mặc dù dối trá phủ lấy tất cả, nhưng tôi tuyệt không nhúng tay.
Làm vậy tức là mở một lối thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn hoang tưởng do chúng ta khoanh tay đứng nhìn mà ra. Cách đó vừa dễ làm nhất vừa tiêu diệt dối trá mau nhất. Vì rũ bỏ dối trá, tức là cắt đứt đường sống của nó. Dối trá giống như bệnh dịch, chỉ có thể sống bám vào một sinh vật.
Chúng ta không cần phải ám thị mình. Chúng ta chưa đủ già dặn để tiến vào các quảng trường mà gào lên sự thật hay biểu hiện tư tưởng của mình. Chưa tới lúc phải làm thế. Nguy hiểm nữa. Chỉ cần điều gì mình không nghĩ thì chúng ta từ chối đừng nói là được.
Đó là con đường của chúng ta, con đường dễ nhất ai cũng làm được, con đường đã chiếu cố sự hèn nhát thâm căn cố đế của chúng ta. Nó dễ hơn phương pháp công dân bất phục tùng của Gandhi xiển dương – dễ tới mức viết những lời này còn nguy hiểm hơn.
Con đường của chúng ta là tránh xa chỗ thối nát. Nếu chúng ta đừng ghép đống xương tàn và lớp vảy khô của ý thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta đừng mất công vá lại mớ giẻ rách, thì chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy là sự dối trá sẽ hóa ra bất lực và tiêu ma nhanh chóng. Lúc đó, cái gì cần lột trần mới thực phơi ra trước cả và thiên hạ.
Vì thế, dù có dè dặt, mỗi chúng ta hãy lựa cho mình: hoặc là, cam tâm làm nô lệ cho hư ngụy – tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng con cái mình trong tinh thần dối trá không phải vì đó là bản tính của chúng ta, mà chẳng qua là để kiếm ăn nuôi gia đình – hoặc là rũ sạch mọi sự dối trá làm một người lương thiện xứng đáng được con cái và người đồng thời kính trọng.
Con đường của chúng ta là không tự nguyện ủng hộ bất kì sự dối trá nào. Khi chúng ta đã biết bản chất của hư ngụy ở đâu, thì chúng ta mỗi người sẽ biết cách nhìn ra đâu là dối, đâu là thật.
Và từ đó trở đi chúng ta sẽ:
• bằng mọi cách không viết, kí, hay in một lời nào chúng ta cho là bóp méo sự thật;
• không nói những lời như thế, dù là nói chuyện riêng hay nói trước đông người, tự ý mình hay theo ý người khác, dù làm công tác cỗ vũ, dạy học, giáo dục hay đóng trò trên sân khấu;
• không mô tả, cổ vũ, hay truyền đi một ý tưởng nào chúng ta thấy rõ ràng là sai hay bóp méo sự thật, dù bằng hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc;
• không trích lời người khác nói hoặc viết mà không đặt lời trích vào ngữ cảnh, để lấy lòng ai đó, hay để lót đường cho mình, hay để thành công trong công việc nếu mình không hoàn toàn đồng ý với ý tưởng trích dẫn, hoặc nếu ý trích dẫn đó không phản ánh chân thực bản chất vấn đề;
• không để cho mình bị ép phải dự những cuộc biểu dương hay hội họp nào trái với sở thích hay ý nguyện mình, không cầm hoặc giương lên những tiêu ngữ hay biểu ngữ nào mình không hoàn toàn chấp nhận;
• không giơ tay biểu đồng tình cho một đề xuất mà ta không thành thật tán đồng, không bầu cho người mình cho không xứng đáng hay đáng ngờ về tài năng, dù bầu công khai hay bí mật;
• không để cho mình bị lôi tới những cuộc họp mà mình đoán người ta sẽ bức mình thảo luận hoặc bóp méo một vấn đề;
• lập tức bước ra khỏi những cuộc họp, hội nghị, thuyết trình, biểu diễn, chiếu phim nếu nghe thấy diễn giả nói láo, rêu rao những rác rưởi ý thức hệ, hoặc những lời tuyên truyền lố bịch;
• không đóng góp hoặc mua những báo chí bóp méo thông tin hoặc giấu giếm những sự thật hiển nhiên.
Tất nhiên là chúng ta chưa liệt kê hết mọi biến thái hư ngụy cần phải liệt kê. Nhưng người nào thanh luyện mình sẽ nhờ lương tâm trong sạch mà phân biệt được chân ngụy.
Những người chọn con đường này ban đầu cuộc sống sẽ rất thay đổi. Có người bị mất việc. Những người trẻ muốn sống chân thật, thì những việc như thế này sẽ làm cho đời thanh xuân của họ ra phức tạp, vì khóa học bắt buộc nào cũng nhét toàn dối trá, không thể không chọn lọc.
Nhưng không có lối đi nào dễ dãi hơn cho người muốn làm người lương thiện. Ngày nào chúng ta cũng có người phải đối diện ít nhất là một trong những tình huống trên, cho dù là trong những ngành khoa học kĩ thuật vô thưởng vô phạt dễ tìm được chỗ nương náu nhất. Hoặc là chân thật, hoặc là hư ngụy: một đường đi tới tự do tinh thần, một đường đi tới nô lệ tinh thần.
Còn những kẻ không đủ dũng khí bảo vệ linh hồn mình– các người chớ vin vào mấy quan điểm ‘tiến bộ’ của mình mà kiêu ngạo, chớ huyênh hoang mình là hàn lâm học sĩ, là nghệ sĩ nhân dân, là yếu nhân có nhiều công trạng, hay là đại tướng – các người hãy tự nói với mình: Mình thà ở lại đàn làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng thì thôi.
Lối phản kháng này tuy nhu nhược nhất trong mọi lối phản kháng cũng không phải là dễ. Tất nhiên là dễ hơn tự thiêu hay tuyệt thực: lửa sẽ không dìm thân anh, mắt anh không bị nung cho nổ ra, và gia đình anh sẽ không lúc nào thiếu cơm ăn nước uống.
Một dân tộc vĩ đại ở châu Âu, dân Tiệp Khắc, họ bị chúng ta phản bội và lừa dối, chẳng là họ đã cho chúng ta thấy nếu trong lồng ngực có một trái tim cao thượng thì tấm ngực mỏng manh kia có thể đứng lên chống lại xe thiết giáp đấy sao?
Anh bảo làm thế không dễ? Nhưng trong mọi cách thì cách đó là dễ nhất. Cách đó có thể nguy tới tánh mạng, nhưng muốn cứu linh hồn thì không còn cách nào khác. Phải, con đường đó không phải là con đường dễ đi. Nhưng mà có nhiều người, rất nhiều nữa là khác, năm này qua năm nọ đã theo đuổi lí tưởng ấy, chỉ vì họ lấy chân thật làm lẽ sống.
Cho nên anh không phải là người đầu tiên chọn đi đường này, anh chỉ gia nhập dòng người đã dấn thân vào đó. Nếu chúng ta nâng đỡ nhau và sát cánh nhau thì con đường này sẽ dễ đi và ngắn bớt lại. Nếu chúng ta đông tới hàng ngàn người thì bọn chúng sẽ không làm gì được chúng ta. Nếu chúng ta lên tới hàng vạn người thì đất nước này sẽ khoác bộ mặt mới đến mức chúng ta không còn nhận ra nữa. Nếu chúng ta khiếp nhược quá, thì đừng trách người ta đàn áp mình mãi.
Chính chúng ta đang tự mình đàn áp mình đấy. Lúc đó thì hãy khom lưng xuống nữa, hãy rên xiết nữa, và đợi tới ngày những người anh em của chúng ta, các nhà sinh học, tìm ra cách đọc được tư tưởng của chúng ta, một thứ tư tưởng vô giá trị và tuyệt vọng.
Và nếu thậm chí đã chọn con đường yên thân mà chúng ta vẫn rơi vào chỗ cùng khốn, thì chúng ta đúng là đồ bỏ đi, không còn cách gì cứu vớt được. Lúc đó, chúng ta đáng dành cho những lời khinh bỉ này của Pushkin:
“Đồ súc sinh thì làm gì có tự do. Muôn đời di sản của nó chỉ là ách nặng và roi vọt.”
Không có gì tử tế trên nền văn hóa kém
Hoàng Hạnh (Thực hiện)Phụ nữ Today
Chúng
ta rất đau khổ vì nền kinh tế của chúng ta những năm trước tăng trưởng
7-8% mà năm nay có khi chỉ tăng được 5% thôi, nhưng chúng ta không hề
xấu hổ, không đau khổ trước việc chúng ta chế biến thịt súc vật chết để
bán cho mọi người. Chúng ta chỉ xấu hổ vì nghèo đi mà chúng ta quên mất
xấu hổ vì sự xấu đi về mặt đạo đức. Chuyện đó là chuyện quan trọng hơn
tất cả những gì chúng ta bàn ở trên – ông Nguyễn Trần Bạt.
Chúng ta chưa có kinh nghiệm mô tả sự thậtPV: -Tuần vừa rồi, bài phát biểu ngắn kết thúc năm học của một giáo viên Trường trung học Wellesley, bang Massachusetts, Mỹ đã được dư luận Mỹ tiếp nhận như một lời nói thật, một cảnh báo giáo dục: “Các em chẳng có gì đặc biệt cả”. Xin ông hãy lý giải, tại sao một đất nước tôn trọng tư duy độc lập cá nhân như Mỹ, lời nhận xét trên đáng lẽ là bình thường nhưng lại được tiếp nhận một cách cầu thị nồng nhiệt đến vậy?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Điều đó thể hiện người Mỹ đã thức tỉnh. Từ xưa tới nay, họ luôn luôn coi mình là tiêu chuẩn, nước Mỹ luôn là "miền đất hứa".
Mặc dù sống khá lâu trong sự thành đạt nhưng khủng hoảng kinh tế và tài chính hiện nay đã khiến họ bỗng nhận ra tính bình thường của xã hội mình.
Và đấy là một dấu hiệu vĩ đại của nước Mỹ khi nó còn giữ được năng lực thức tỉnh, nhận ra chính mình, biết đón chào một ý kiến như vậy.
Tôi hoan nghênh nước Mỹ, hoan nghênh thái độ ấy và hoan nghênh cả ông thầy dám đưa ra tuyên bố trái với thói quen vốn có của người Mỹ.
Tôi rất thích ví dụ bạn đưa ra và tôi thích câu hỏi này. Tôi đề nghị trong chừng mực nào đó, báo chí các bạn giúp cho những ông bố và bà mẹ Việt Nam nên có thái độ này, những cô giáo thầy giáo Việt Nam nên có thái độ này và các nhà lãnh đạo Việt Nam nên có thái độ này.
Chúng ta cũng nên chào đón thái độ khiêm nhường đó của các nhà lãnh đạo, của các thầy các cô như người Mỹ đang làm. Đây là một ví dụ tốt, là một ví dụ mà tôi rất thích, một ví dụ rất đẹp về giáo dục.
PV: - Người Việt mình có câu “thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng”, theo ông, trên thực tế chúng ta có thói quen nói thật và nghe được lời nói thật hay không? Tại sao những lời nói thật hay những phản biện lại khó lọt tai đến thế, trong khi ai cũng tưởng rằng mình cởi mở, sẵn lòng nghe góp ý dù có… trái với mình đến đâu đi nữa?
"
Nếu lời nói thật được mô tả một cách hấp dẫn, có văn hóa thì khả năng
được tiếp nhận của nó sẽ cao hơn. Tất nhiên, cũng không loại trừ khả
năng, người phải nghe sự thật có văn hóa thấp mà lại là người mạnh.
Chúng ta không bao giờ nên đối thoại với những người như thế."
Nguyễn Trần Bạt
|
Tôi muốn kể với bạn câu chuyện như thế này. Có hai anh em nhà nghèo bữa ăn chỉ có cơm không, không có thức ăn gì. Hai anh em bảo nhau, bây giờ em ăn trước, nhưng để em ăn cho ngon thì anh mô tả sự ngon ngọt của thức ăn để em có cảm giác ăn ngon.
Cậu anh mô tả con gà quay lên như thế nào, món bò xào như thế nào, món cá kho như thế nào… Người em tiết hết dịch vị ra và ăn bát cơm không rất ngon lành. Người em ăn xong, đến lượt người em mô tả cho người anh ăn. Người em ăn no rồi cho nên chỉ nói một câu đơn giản: ước gì có một con bò để làm thịt cho anh ăn.
Đấy là hai cách tiếp cận khác nhau đối với một sự thật là người ta cần phải được hỗ trợ kỹ thuật để ăn cho ngon một bữa cơm nghèo. Một ví dụ khác: Một vị nhà giàu đi tuyển người thuyết phục người làm như sau: "Bác ở với người ta, sáng ăn rồi mãi đến chiều mới được ăn. Chứ bác đến ở với nhà em là cứ sáng ăn - chiều ăn, sáng ăn - chiều ăn". Sáng ăn và chiều ăn là một sự thật nhưng ở hai cách mô tả này hoàn toàn khác nhau.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, cách mô tả nào hấp dẫn hơn.Sự thật không phải là một khái niệm đơn giản, sự thật là một khái niệm phức tạp, có nội hàm phong phú và nó là một trong ba khía cạnh của cái đẹp,chỉ có điều chúng ta không được rèn luyện, không đủ bản lĩnh, không đủ kinh nghiệm để mô tả sự thật.
Chúng ta vẫn thường bảo là "thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng". Sự thật mà biến nó, sắp xếp nó, cân đong đo đếm nó tương đương với thuốc đắng thì chúng ta là kẻ ngốc nghếch không biết giá trị của sự thật và không biết cách thể hiện sự thật. Chúng ta phải rèn luyện khả năng biết mô tả sự thật để làm cho người ta "xơi" nó mà không cảm thấy vị đắng của thuốc.
Thật không dễ nghe khi sự thật được nói ra xâm phạm tới lợi ích của người đối thoại. Trong trường hợp này, phải làm rõ, lợi ích của người đó có chính đáng hay không, nếu có, thì người nói ra sự thật đó có lỗi.
Nếu lợi ích ấy không chính đáng, việc người đó có nghe hay không là phụ thuộc vào nghệ thuật mô tả của người nói. Nếu lời nói thật được mô tả một cách hấp dẫn, có văn hóa thì khả năng được tiếp nhận của nó sẽ cao hơn.
Tất nhiên, cũng không loại trừ khả năng, người phải nghe sự thật có văn hóa thấp mà lại là người mạnh. Chúng ta không bao giờ nên đối thoại với những người như thế, phải dùng một cách khác, không phải là tiếp cận văn hóa mà là tiếp cận sức mạnh, sức mạnh của số đông chính nghĩa.
Vì sao phụ huynh Việt Nam tự “đánh lừa” mình?
PV: -Ở Việt Nam, có một nghịch lý đang tồn tại trong việc giáo dục các cô các cậu học trò nhỏ: Trong nhà thì bố mẹ ông bà ra sức chăm sóc, chiều chuộng…thầm hy vọng con mình sẽ là “thiên tài” hoặc có tài năng độc đáo….nhưng ra ngoài xã hội thì chính họ lại rất sợ cụm từ “học trò cá biệt”, “học sinh đặc biệt”... Hiện tượng này phản ánh điều gì vậy, thưa ông? Liệu nó có ảnh hưởng gì đến chuyện trẻ con không có tư duy độc lập, mà thường bị hòa vào đám đông?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Xã hội nào cũng thế. Xã hội của bầy thú cũng thế. Nó sống được, tự tin được làvì vẻ đẹp riêng của chính nó và vì những giá trị mà nó nghĩ rằng nó có. Nhưng nó tồn tại được, thoát chết được bằng sự kín đáo của nó.
Hai trạng thái ấy chính là hai trạng thái khuyến khích hình thành bản lĩnh của con người: yêu mình, tự tin vào bản lĩnh, sức mạnh, sự hoành tráng của mình với kín đáo, khôn khéo, đi, bò, trườn dưới tên bay đạn lạc.
Về khía cạnh thứ hai, tư duy độc lập và nói ra tư duy độc lập tùy thuộc môi trường vĩ mô. Nếu từ nhỏ không được diễn đạt tư duy độc lập, nếm trải cái đúng và cái sai của nó, nếm trải sự ném đá và sự hoan hô trước mỗi một tư duy độc lập được diễn đạt ấy, thì người ta sẽ không có kinh nghiệm.
Và nếu phải phê phán, hãy phê phán môi trường vĩ mô khiến trẻ con không biết nói tiếng nói độc lập của mình, chứ không thể dồn sai lầm đó vào khuyết tật có tính nhân chủng học của người Việt.
PV: -Như ông nói, đó là phản ứng tự nhiên. Vậy nguyên nhân nào về mặt xã hội khiến phụ huynh Việt Nam hành xử theo cách như vậy?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Việc quảng bá quá nhiều về tài năng, luôn luôn “nhắc nhở” các bậc phụ huynh rằng hiền tài là nguyên khí quốc gia, đã làm hỏng người Việt. Coi nhân tài là "nguyên khí" dẫn đến việc phụ huynh sẽ cố gắng để trong nhà mình có chút "nguyên khí".
Và họ đành tự đánh lừa mình để yên tâm mà sống. Chúng ta nói quá nhiều chuyện hiền tài là nguyên khí quốc gia, trong khi quên mất rằng con người mới là nguyên khí của đời sống.
“’… Chúng ta đang biến vô đạo đức trở thành sản phẩm giáo dục”?
PV: - Dư luận đã lên tiếng khá nhiều về sự vô cảm thậm chí nhẫn tâm với đồng loại như nạn thực phẩm bẩn, độc hại tràn lan ngày càng nhiều và không có dấu hiệu suy giảm. Cái quả đắng này phải chăng nảy sinh từ những vấn đề cơ bản trong giáo dục thế hệ tương lai hiện nay: nạn chạy trường, chạy điểm, không chú ý giáo dục nhân cách sống…?
"Con
người đang chế tạo ra những sản phẩm phi đạo đức một cách rất có trình
độ. Những người không học tốt về hóa rất khó để có thể cho melamine vào
sữa. Phải có trình độ khoa học và năng lực nhất định mới có thể tạo ra
trạng thái sữa có melamine, xay thịt trộn mắm tép thơm lừng để ngụy
trang thịt xúc vật chết. Chúng ta đang chểnh mảng trong việc giáo dục
đạo đức cho nên các hiện tượng vô đạo đức đã lẻn vào đời sống của nhà
trường và đời sống của xã hội".
Nguyễn Trần Bạt
|
Nói như vậy để thấy, những hiện tượng bạn nói ở trên không phải là hệ quả trực tiếp của giáo dục. Chúng là hệ quả của một thứ quan trọng hơn giáo dục, là cha đẻ của giáo dục: VĂN HÓA.
Nạn thực phẩm bẩn, độc hại tràn lan, lấy thịt lợn chết làm mắm tép chưng thịt là một biểu hiện “rực rỡ” về sự thoái hóa đạo đức, thoái hóa văn hóa của con người.
Nhưng điều đáng báo động hơn là, chúng không phải là trạng thái hoang dã mà là trạng thái có giáo dục của tính hoang dã, trạng thái phát triển ổn định và bền vững của trạng thái phi đạo đức của con người.
Con người đang chế tạo ra những sản phẩm phi đạo đức một cách rất có trình độ. Những người không học tốt về hóa rất khó để có thể cho melamine vào sữa.
Phải có trình độ khoa học và năng lực nhất định mới có thể tạo ra trạng thái sữa có melamine, xay thịt trộn mắm tép thơm lừng để ngụy trang thịt xúc vật chết. Chúng ta đang chểnh mảng trong việc giáo dục đạo đức cho nên các hiện tượng vô đạo đức đã lẻn vào đời sống của nhà trường và đời sống của xã hội.
Chúng ta rất đau khổ vì nền kinh tế của chúng ta những năm trước tăng trưởng 7-8% mà năm nay có khi chỉ tăng được 5% thôi, nhưng chúng ta không hề xấu hổ, không đau khổ trước việc chúng ta chế biến thịt súc vật chết để bán cho mọi người. Chúng ta chỉ xấu hổ vì nghèo đi mà chúng ta quên mất xấu hổ vì sự xấu đi về mặt đạo đức. Chuyện đó là chuyện quan trọng hơn tất cả những gì chúng ta bàn ở trên.
Vậy mà cho đến thời điểm này, chưa có một tiếng kêu cứu có chất lượng nhà nước nào, tổ chức nào, đặc biệt là tổ chức giáo dục. Tôi mong các vị lãnh đạo ở các Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông… hãy nghe tiếng kêu cứu này.
PV: -Trong một bài phỏng vấn mới đây, GS Hoàng Tụy cho rằng: “Không thể nào có một nền kinh tế tăng trưởng lành mạnh dựa trên một nền văn hóa suy đồi. Người ta lý giải chuyện đó là sự lệch pha giữa văn hóa và kinh tế”. Ý kiến của một chuyên gia kinh tế như ông như thế nào?
Ông Nguyễn Trần Bạt: Tôi thích câu nói ấy của bác Hoàng Tụy. Tôi khái quát vấn đề của bác Hoàng Tụy lên là: Không thể xây dựng được bất kỳ cái gì tử tế trên cái nền đồi bại của văn hóa.
PV: -Theo cá nhân ông, làm thế nào để khắc phục được vấn đề trên?
Ông Nguyễn Trần Bạt: Câu hỏi đó phải đi thường xuyên với con người, với tư cách là một nỗi niềm của mỗi một con người. Rằng chúng ta đang làm đồi bại một nền văn hóa hay chúng ta là thành viên của một nền văn hóa đồi bại.
Ra khỏi sự đồi bại về văn hóa bằng cách nào? Điều gì là động lực của sự đồi bại hóa của nền văn hóa đến như vậy? Truyền thông có nghĩa vụ phải làm thế nào để ý kiến của GS Hoàng Tụy đã được tôi khái quát hoá lên thành một câu hỏi có mặt trong từng bữa cơm, giấc ngủ, từng nụ hôn của con người.
Tôi không khái quát hóa việc ra khỏi sự đồi bại về văn hoá như thế nào? Vì mỗi người góp phần vào sự đồi bại hóa của nền văn hóa một cách khác nhau, với những “công nghệ” khác nhau. Chúng ta chỉ cần thức tỉnh, rút các yếu tố làm đồi bại nền văn hóa của mình ra khỏi xã hội, tự nhiên xã hội sẽ sạch sẽ.
10.922 - 12/02/2016 11:13' SA
Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì?
Thái Kim Lan, Phạm Toàn, Phạm Minh NgọcTalawas
05:37' CH - Thứ sáu, 12/02/2016
Tri
thức, đặc biệt là tri thức triết học có tầm bao quát nhiều thời đại,
liên kết toàn bộ lịch sử loài người tới từng vấn đề thời sự của mọi nơi,
mọi lúc trên hành tinh. Một tiểu luận "Trả lời câu hỏi: Khai Sáng là gì?"
của Immanuel Kant, triết gia Đức viết năm 1783, đặt nền móng cho kỷ
nguyên Khai Sáng của nhân loại, vẫn mang những giá trị hết sức thời sự
với người Việt chúng ta. Năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày mất của
ông, nhiều dịch giả đã gửi đăng tại trang web Talawas những bản dịch
khác nhau của bài tiểu luận như một sự cố gắng chuyển tải tư tưởng cách
mạng này của I. Kant sang tiếng Việt, dành cho người Việt.
Immanuel Kant (1724-1804)
Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì?
(Thái Kim Lan dịch và chú thích)
Immanuel Kant (sinh ngày 22.04.1724 tại Königsberg- Preussen - mất ngày 12. 02. 1804 tại Königsberg-Preussen) thường được xem là triết gia Ðức lớn nhất, hơn nữa là triết gia lớn nhất của thời cận đại (Neuzeit), của nền văn hóa tân tiến (moderne Kultur) và của nhiều lãnh vực khoa học nhân văn khác. Học thuyết ""Triết học siêu việt" (Transzendental-philosophie) của ông đã đưa triết học Ðức bước vào một kỷ nguyên mới. "Danh tiếng của ông đã đẩy lùi những gì đi trước vào bóng tối và tỏa sáng lên trên những gì đi sau", như nhận xét của triết sử gia J.Hirschberger. Trong tương quan với triết học thế giới của thời khai sáng, triết học của ông đã cống hiến những lý thuyết cơ bản cho tư tưởng khai sáng của thời cận đại.
Nhân dịp 200 năm ngày mất của triết gia lỗi lạc này xin giới thiệu tiểu luận "Beantwortung der Frage: Was ist die Aufklärung?" (Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì?). Bản tiếng Ðức trong "KANT, WERKE IN XII BAENDEN, XI, THEORIE - WERKAUSGABE, SUHRKAMP 1968, tr 53- 61.Trong bài dịch, những chữ in lớn viết hoa là của chính tác giả, những chữ in đậm do người dịch thêm vào hầu giúp người đọc dễ theo dõi nội dung.
(5. 12. 1783 trang 516 [1] )
KHAI SÁNG LÀ SỰ THOÁT LY CỦA CON NGƯỜI RA KHỎI TÌNH TRẠNG VỊ THÀNH NIÊN DO CHÍNH CON NGƯỜI GÂY RA. VỊ THÀNH NIÊN [2] là sự bất lực không thể vận dụng trí tuệ của mình một cách độc lập mà không cần sự chỉ đạo của người khác. Tình trạng vị thành niên này là do TỰ MÌNH GÂY RA, một khi nguyên nhân của nó không phải do sự thiếu sót trí tuệ, mà do sự thiếu sót tính cương quyết và lòng can đảm, dám tự mình dùng trí tuệ phục vụ cho mình mà không cần đến sự chỉ đạo của người khác. Sapere aude [3] ! Hãy có can đảm tự sử dụng trí tuệ CỦA CHÍNH MÌNH! đó là câu phương châm của Khai Sáng.
Lười biếng và hèn nhát là những nguyên nhân, tại sao một phần lớn số người như thế của nhân loại, sau khi thiên nhiên đã giải phóng họ ra khỏi sự chỉ đạo ngoại lai (naturaliter maiorennes) mà suốt đời lại vẫn thích lưu lại trong tình trạng vị thành niên; và là nguyên nhân tại sao thật là dễ dàng cho một số người khác, tự ném mình giao phó mình cho người đỡ đầu. Ở trong tình trạng vị thành niên thì thật là khỏe khoắn. Tôi có một cuốn sách, quyển sách ấy có trí tuệ thay tôi, có một người đỡ đầu linh hồn, người ấy có lương tâm giùm tôi, có một người thầy thuốc, vị ấy chẩn định sự ăn kiêng cho tôi, vv và vv: như thế tôi khỏi phải lo lắng cho chính mình. Tôi không cần phải suy nghĩ bận tâm, nếu tôi chỉ có thể trả tiền; người khác sẽ chu tất cho tôi mọi công việc phiền não. Sự kiện một phần lớn nhất của nhân loại (trong đó có phái rất đẹp) còn cho rằng bước tiến đến trưởng thành, ngoài việc bước ấy rất khó khăn, còn là rất nguy hiểm; điều ấy những người đỡ đầu kia đã lo chu tất, những người đã hết lòng nhận lãnh cho mình trách nhiệm giám thị tối cao trên những kẻ vị thành niên. Sau khi họ đã làm cho đàn gia súc của họ trước hết ngu đần đi, và chăn giữ một cách cẩn thận không cho những sinh vật yên lặng này được phép dám mạo hiểm một bước ra khỏi chiếc xe kéo, trong đó họ giam những sinh vật ấy; sau đó họ chỉ cho những kẻ ấy sự hiểm nguy đang đe doạ, nếu những người này tìm cách đi một mình. Thật ra thì chính sự nguy hiểm này cũng không to tát chi cho lắm, bởi lẽ những kẻ ấy rốt cùng cũng sẽ học đi trong một vài trường hợp; tuy nhiên chỉ một thí dụ theo cách ấy cũng có thể làm rụt rè nhũn lòng, và thường làm nhát sợ xa lánh tất cả những bước thăm dò khác.
Như thế thật là khó khăn cho mỗi một người, tự mình gắng sức vươn lên để thoát ra khỏi tính vị thành niên hầu như đã trở thành một bản tính tự nhiên cho mình. Người ấy lại còn đâm ra yêu thích tính ấy và thật sự không còn khả năng để tự sử dụng trí tuệ của chính mình, bởi vì người ta đã không bao giờ để cho người ấy làm thử. Những nội qui và những công thức, loại dụng cụ máy móc cho công dụng hợp lý hay đúng hơn cho sự lạm dụng năng khiếu tự nhiên ấy, đều là những xích chân của một tình trạng vị thành niên dai dẳng vĩnh viễn. Kẻ nào vất bỏ nó đi, kẻ ấy cũng sẽ chỉ làm một bước nhảy không chắc chắn qua cái hố nhỏ hẹp, bởi vì kẻ ấy không quen làm động tác tự do theo kiểu ấy. Cho nên chỉ có một số ít thành công trong việc tự giải tỏa mình ra khỏi tình trạng vị thành niên qua sự thao luyện tinh thần, và tạo ra một bước đi vững chãi.
Nhưng sự kiện một QUẦN CHÚNG (Publikum) tự mình khai sáng cho mình, điều ấy có triển vọng; vâng điều ấy, nếu người ta chỉ để cho công chúng ấy TỰ DO thôi, hầu như chắc chắn có thể thực hiện được. Bởi vì trong trường hợp ấy sẽ luôn luôn tìm ra được một vài nhà tư tưởng độc lập, ngay cả trong nhóm những người đỡ đầu có nhiệm vụ canh chừng đống gia súc lớn kia, những người sau khi đã tự tay vất bỏ cái gông vị thành niên, họ sẽ quảng bá quanh mình tinh thần biết đánh giá hợp lý về giá trị thực sự và khuynh hướng thiên phú của mỗi con người nằm ở tư duy tự lập. Ðặc biệt ở đây là: nhóm công chúng trước đó bị những người đỡ đầu đưa vào gông cùm, chính công chúng này sau đó lại bắt buộc những người kia ở lại trong gông, nếu họ bị khiêu khích phải hành động như thế do một vài kẻ trong những người đỡ đầu ấy tự mình không có khả năng khai sáng; gieo trồng những định kiến thật tai hại đến như thế, bởi vì chúng sẽ trả thù lại chính những kẻ đã gây ra qua nhiều thế hệ. Do đấy quần chúng có thể chỉ nên dần dần đạt đến khai sáng mà thôi. Khai sáng bằng một cuộc cách mạng có lẽ sẽ chỉ đem đến sự truất phế một chế độ chuyên chế độc tài và sự đàn áp đầy tham muốn hưởng lợi và cai trị người khác của cá nhân độc tài, nhưng không bao giờ đem đến một sự sửa đổi chân chính thật sự cho cách thế tư duy cả; ngược lại những định kiến mới lại sẽ được sử dụng giống hệt như những cái cũ dùng để làm đường lối chỉ đạo cho đám lau nhau vô đầu óc kia.
Thực hiện khai sáng này không đòi hỏi gì hơn ngoài TỰ DO và là một tự do nguyên vẹn nhất trong tất cả những gì có thể gọi là tự do, đó là: hoàn toàn có thể SỬ DỤNG CÔNG KHAI LÝ TRÍ CỦA CHÍNH MÌNH. Thế nhưng giờ đây tôi nghe khắp mọi phiá đều kêu lên: ÐỪNG CÓ LÝ LUẬN! Ông sĩ quan nói: đừng lý luận, hãy thực hành! Ông cố vấn tài chánh: đừng lý luận! Hãy móc túi trả tiền! Nhà tôn giáo: đừng lý luận, hãy tin tưởng! (chỉ có một Ngài trên thế giới nói: HÃY LÝ LUẬN nhiều như các người muốn và về những gì các người thích; nhưng HÃY VÂNG LỜI!) Theo trên sự giới hạn tự do xảy ra ở tất cả các lãnh vực. Nhưng giới hạn nào sẽ cản trở sự khai sáng? giới hạn nào không cản trở mà ngược lại còn hỗ trợ nó? - Tôi trả lời: sự sử dụng CÔNG KHAI của lý trí phải được TỰ DO bất cứ lúc nào, và chỉ có nó mới có thể đem lại khai sáng đến với con người; còn sự sử dụng RIÊNG TƯ của lý trí thì có thể nhiều khi nên được giới hạn rất chặt chẽ mà không làm cản trở đặc biệt bước tiến của khai sáng. Nhưng tôi hiểu dưới sự sử dụng công khai lý trí của chính mình là sự sử dụng mà một người với tư cách là HỌC GIẢ có thể vận dụng lý trí trước tòan thể công chúng của THẾ GIỚI ÐỘC GIẢ. Tôi gọi sự sử dụng là riêng tư để chỉ sự sử dụng mà người học giả trong CHỨC VỊ công dân hay nhiệm sở mà người ấy được tín nhiệm giao cho. Ta nhận rằng, một số công việc có liên hệ đến quyền lợi cộng đồng cần có một guồng máy phục vụ, nhờ phương tiện đó một vài phần tử của cộng đồng chỉ cần hành sự một cách thụ động, để tạo nên một sự nhất trí giả tạo nào đó cho chính quyền nhằm phục vụ cho những mục đích công khai hay ít nhất để tránh sự phá hoại những mục đích ấy. Dĩ nhiên ở đây không được phép lý luận; mà phải tuân lời. Nhưng bao lâu phần tử của guồng máy đồng thời cũng là phần tử của cả cộng đồng, và hơn nữa của cả xã hội công dân thế giới, với phẩm cách của một người học giả, đang hướng về độc giả với những tác phẩm văn học trong tinh thần tự lập: trong trường hợp này nhất thiết người ấy có thể lý luận, mà không vì thế công vụ bị phiền nhiễu, công vụ này ông được ủy nhiệm phần nào với tư cách một hội viên thụ động. Cho nên trong trường hợp của vị sĩ quan, sẽ rất có hại, nếu người ấy đang được lệnh của cấp trên phải thi hành một lệnh để phục vụ cho mục đích và ích lợi của lệnh ấy mà lại muốn lý luận oang oang; người ấy phải vâng lời. Nhưng với tư cách là học giả thì khả dĩ có thể dành cho người ấy quyền nhận xét về những lỗi lầm trong công tác phục vụ chiến tranh và trình bày những nhận xét ấy trước công chúng để họ phán đoán. Người công dân không thể cưỡng lại không làm những việc mà anh ta được giao phó trách nhiệm; ngay cả một lời trách cứ vui vui về những công việc, khi chúng được giao phó cho anh ta có bổn phận phải hoàn thành, một lời trách cứ nhẹ thôi cũng có thể bị trừng phạt như một một điều bêu riếu (có thể gây nên những trường hợp bất tuân lệnh tổng quát). Nhưng chính người ấy sẽ không hành động ngược lại với bổn phận của một người công dân, nếu người ấy với tư cách của một học giả công khai dám phát biểu tư tưởng của mình chống lại sự vụng về hay sự bất công của những điều luật đưa ra. Cũng thế một người linh mục có bổn phận phải diễn giải cho môn sinh thụ giáo lý và giáo xứ của ông biểu tượng của nhà thờ mà ông ta phục vụ; bởi vì ông đã được thâu nhận với những điều kiện trên. Nhưng với tư cách học giả ông không những có đầy đủ tự do, vâng mà còn thấy đó là một nhiệm vụ hợp lý trong việc thông tin cho quần chúng tất cả những tư tưởng đã được kiểm điểm chặt chẽ và đầy thiện ý về tính cách sai lầm của biểu tượng kia, cũng như những đề nghị cho sự xây dựng tốt hơn thực thể tôn giáo và nhà thờ. Nơi đây không có gì có thể gây phiền toái cho lương tâm cả. Bởi vì những gì ông truyền dạy tuân theo chức vụ nhiệm sở của mình với tư cách là người thi hành công việc của nhà thờ, điều đó ông đã thuyết giảng trong giới hạn của bổn phận, trong đó ông không có chủ lực tự do để giảng dạy theo tư tưởng của riêng ông, và được chỉ định phải diễn giải theo với các điều lệ và nhân danh của một cá nhân khác. Ông ta sẽ nói rằng: nhà thờ của chúng ta dạy điều này hay điều nọ; đây là những dẫn chứng mà nhà thờ sử dụng... Sau đó ông ta rút ra tất cả những ích lợi cho giáo đồ từ những nội qui, mà chính ông sẽ không ký tên với tất cả sự thuyết phục, mặc dù ông có thể làm một vài diễn văn về đề tài đó, bởi lẽ có thể trong đó cũng có một phần nào chân lý, trong đó hoàn toàn không bao hàm điều gì mâu thuẫn với tôn giáo nội tâm của ông. Bởi vì nếu ông ta tìm thấy trong đó điều gì mâu thuẫn với tôn giáo nội tâm thì ông ta sẽ không thể điều hành chức vụ của mình với lương tâm yên ổn được, ông ta phải từ chức. Như thế sự sử dụng lý trí mà một vị Thầy giáo nhậm chức thực hiện trước nhóm quần chúng của ông chỉ là một SỰ SỬ DỤNG RIÊNG TƯ, vì nhóm quần chúng này vẫn chỉ là một cuộc tập họp nội gia, dù cho có lớn đến bao nhiêu; và trong tương quan với nó ông ta với tư cách là nhà giảng đạo, không tự do, cũng không được phép tự do, bởi vì ông ta đang thực hiện một công việc ngoại lai. Ngược lại với tư cách một học giả nói với công chúng thực sự, công chúng ấy là toàn thế giới, qua các tác phẩm của mình, và do đó là vị linh mục trong việc SỬ DỤNG CÔNG KHAI lý trí của mình, vị ấy phải được hưởng một tự do không hạn chế dùng lý trí của chính mình và phát ngôn trong nhân cách của riêng mình. Bởi lẽ sự kiện chính các người đỡ đầu của nhân dân (trong những việc tinh thần) lại cũng vị thành niên, là một sự lạc vần, chạy dài đến vô cực của sự lạc điệu.
Nhưng một tập đoàn của những vị linh mục, ví dụ một đại hội nhà thờ, hay giai cấp (Classis) đáng kính (như họ tự mệnh danh như thế giữa người Hoà Lan) có nên được có thẩm quyền tuyên thệ với nhau tự cho mình có bổn phận đối với một biểu tượng nào đó bất di bất dịch, để thực hành càng mạnh hơn một chính sách đỡ đầu tối cao trên đầu mỗi người trong hội viên của họ và qua đó trên đầu nhân dân, và từ đó vĩnh viễn hoá chính sách ấy không?
Tôi nói: điều ấy hoàn toàn không thể được. Một thoả ước hầu chận đứng vĩnh viễn tất cả những khai sáng lâu dài hơn của loài người, được ký kết như thế, là tuyệt đối không được và không thể có được; và ngay cả trong trường hợp nó được xác nhận bởi một quyền lực tối cao, bởi hội đồng nhà nước và những hiệp ước hoà bình trọng thể nhất. Một thời đại không thể tự cấu kết với nhau và thề nguyền đặt thời đại kế tiếp trong một tình trạng, mà trong đó đối với thời đại đi sau mọi khả năng mở rộng những tri thức còn nhất thời, để tẩy sạch những sai lầm, và có thể tiến xa hơn trong sự khai sáng đều bị tiêu diệt. Ðiều đó sẽ là một tội ác nghịch lại bản chất con người, mà định nghiã nguyên thủy của nó nằm chính trong sự tiến bộ ấy; và như thế những kẻ hậu sinh hoàn toàn có quyền bác bỏ những quyết định đã được chấp nhận một cách vô thẩm quyền và càn bậy. Viên đá thử của tất cả những gì được xem là luật pháp quyết định trên nhân dân, đều nằm trong câu hỏi: rằng người dân có thể tự mình bó buộc vào một thứ pháp luật như thế không? Ðiều này có thể có trong một giai đoạn ngắn, trong khi chờ đợi một luật pháp tốt hơn, hầu tạo ra một trật tự nhất định nào đó; đồng thời người ta dành cho mỗi một người công dân, nhất là người linh mục được tự do, với tư cách của một nhà học giả, công khai, có nghĩa là qua những tác phẩm văn học, trình bày những nhận xét của ông về sự sai lầm của tổ chức ngày trước, trong lúc ấy trật tự đã được thiết lập vẫn còn luôn luôn tồn tại, cho đến khi nhận thức về sự hình thành của các tổ chức ấy đạt đến mức kiện toàn và được xác nhận rằng nhận thức ấy qua sự thống nhất của các tiếng nói (nếu không phải là của tất cả) có thể đưa ra trước ngai vàng một đề nghị, để bảo vệ cho những giáo xứ đã đồng ý với nhau sau khi nắm vững tri thức toàn thiện hơn về một cơ sở tôn giáo được thay đổi, mà không cản trở những giáo xứ vẫn còn bằng lòng với hình thức cũ. Nhưng thỏa thuận với nhau về một hiến chương tôn giáo cố định bất di bất dịch, không ai được quyền nghi ngờ một cách công khai, dù chỉ trong vòng thời gian của một đời người, và qua đấy đồng thời tiêu hủy một khoảng thời gian về sau dành cho sự tiến hoá của nhân loại trong hướng cải thiện, và làm cho vô hiệu quả, từ đó làm thiệt hại cho thế hệ sau, là một điều nhất thiết không được phép. Cho cá nhân mình, và cũng chỉ trong một thời gian ngắn, trong lúc phải tìm hiểu học hỏi, một người có thể hoãn lại sự khai sáng; nhưng triệt tiêu sự khai sáng, dù cho một cá nhân, mà hơn nữa còn cho cả thế hệ hậu sinh, điều ấy có nghiã vi phạm và chà đạp quyền thiêng liêng của nhân loại.
Vả chăng điều gì mà một dân tộc không bao giờ được phép quyết định cho chính mình, điều ấy một vị quân vương càng ít được quyền quyết định trên đầu của dân tộc hơn nữa; bởi vì uy tín ban hành luật pháp của ông thật sự nằm ở điểm ông là người hợp nhất toàn thể ý muốn của nhân dân. Nếu ông chỉ chú ý đến điều này: tất cả sự cải thiện chân thật hay sai lạc đều tồn tại chung với trật tự công dân: như thế ông chỉ cần để cho những kẻ bề tôi của ông tự ý làm những điều mà họ thấy cần thiết cho sự cứu rỗi linh hồn của họ; điều đó không can dự gì đến ông, nhưng có lẽ để đề phòng người này ngăn cản kẻ khác một cách bạo động, không cho kẻ ấy xây dựng số phận và sự thăng tiến của mình theo với khả năng riêng của người ấy. Vị quân chủ ấy sẽ làm thiệt hại uy thế đế vương, nếu ông ta cũng xen vào việc ấy, bằng cách đánh giá những tác phẩm theo sự giám thị của chính quyền ông, những tác phẩm mà nhờ đó kẻ thần dân của ông tìm cách thâu lượm những nhận thức trung thực, cũng như nếu ông phán xét từ nhận thức cao siêu nhất của chính riêng ông, chính ở đó ông sẽ bị người ta trách thán theo thành ngữ: ông vua không đứng trên những nhà văn phạm (Caesar non est supra grammaticos); cũng như thế trong những trường hợp kế tiếp, nếu ông hạ thấp quyền lực tối cao nhất của mình đến mức độ hỗ trợ chính thể chuyên chế tôn giáo của vài kẻ độc tài trong quốc gia của ông đối với những thần dân khác của ông.
Bây giờ nếu có câu hỏi đặt ra: Có phải chúng ta đang sống trong một thời đại đã được khai sáng không? Câu trả lời sẽ là: Không, nhưng chúng ta đang ở trong một thời đại của sự khai sáng!
Trong tình hình hiện tại, nói chung sự kiện con người có khả năng hay có thể được hướng dẫn vào trong khả năng ấy để tự vận dụng một cách vững chắc và thuần thục trí tuệ của mình mà không cần đến sự chỉ đạo của người khác trong những vấn đề tôn giáo, chính nơi đây vẫn còn thiếu sót rầt nhiều. Có điều bây giờ một cánh đồng đã được khai hoá cho con người có thể tự thân bồi đắp một cách tự do và những trở ngại ngăn cản sự khai sáng tổng quát hay sự thoát ly ra khỏi tình trạng vị thành niên do tự mình gây ra dần dần trở nên ít hơn, về những điều ấy chúng ta thấy có những dấu hiệu thật rõ rệ. Trong nhận xét ấy, thời đại này là thời đại của khai sáng hay thế kỷ của FRIEDRICH [4] .
Một vị lãnh chúa, đã không thấy điều ấy là không xứng đáng cho mình, khi nói rằng, ông xem đó là BỔN PHẬN của ông, trong vấn đề tôn giáo không truyền lệnh cho con người, mà để họ hoàn toàn tự do trong việc ấy, cũng là người từ chối không nhận cho mình danh hiệu cao ngạo là BAO DUNG (Toleranz): chính vị lãnh chuá này đã được khai sáng và xứng đáng được cả thế giới hôm nay và thế giới mai sau đầy biết ơn ca ngợi là người đã giải phóng lần đầu tiên loài người ra khỏi tình trạng vị thành niên, ít nhất là từ phía chính quyền, và để cho mỗi người tự do, tự sử dụng lý trí của chính mình trong tất cả những gì thuộc vấn đề lương tâm. Dưới quyền ông, với tư cách của người học giả, những nhà linh mục đáng kính được quyền trình bày một cách tự do và công khai cho thế giới kiểm thảo những phán đoán và nhận thức của họ về những điểm vượt ra ngoài biểu tượng nhà thờ đã được công nhận; nhưng còn hơn thế nữa, dưới trướng của ông, mỗi một người không bị giới hạn vì bổn phận nhiệm sở đều được hành động như thế. Tinh thần tự do này cũng lan rộng ra ngoài giới hạn, ngay ở nơi mà nó phải tranh đấu với những chướng ngại bên ngoài của một chính phủ tự ngộ nhận mình. Bởi vì một thí dụ sẽ làm gương giác ngộ cho chính quyền ấy: rằng với tự do sẽ không có điều gì đáng lo sợ cho sự an dân công khai và sự nhất trí của cộng đồng cả. Con người tự mình dần dần sẽ rèn luyện mình vươn lên khỏi tính thô sơ, nếu người ta không cố ý nắn nót giả tạo để giữ con người lại trong trạng thái thô sơ ấy.
Tôi đã đặt điểm chính của sự khai sáng, trong nghiã sự thoát ly của con người ra khỏi tình trạng vị thành niên do chính con người gây ra, chủ yếu trong tương quan với những vấn đề tôn giáo: bởi vì đối với nghệ thuật và các ngành khoa học những người lãnh đạo của chúng ta không quan tâm đóng vai người đỡ đầu trên đầu kẻ tôi tớ của họ. Hơn nữa, cũng chính vì tình trạng vị thành niên trong tôn giáo không những là tình trạng tai hại nhất mà còn là tình trạng làm ô nhục nhất. Nhưng đường lối tư duy của một vị nguyên thủ quốc gia, nhân vật ưu việt cho trường hợp trên đây, còn đi xa hơn nữa và nhận chân được rằng: ngay cả trong tương quan với sự BAN HÀNH LUẬT PHÁP của ông thật sự không có gì nguy hiểm, khi cho phép người dân được quyền SỬ DỤNG CÔNG KHAI lý trí của mình, cũng như trình bày cho thế giới biết những tư tưởng của họ về sự biên soạn hoàn hảo hơn cho bộ luật kia, ngay cả với một sự phê bình khoáng đạt tự do về những điều đã có sẵn; chúng ta đã có một thí dụ sáng ngời về cách suy nghĩ trên, thí dụ cho thấy chưa có một vị quân chủ nào đi trước người mà chúng ta ngưỡng kính.
Nhưng cũng chỉ có người nào - chính mình đã được khai sáng,- không sợ bóng tối, và đồng thời có trong tay một đội quân đông đảo, có tinh thần kỷ luật nhằm bảo đảm sự an bình công khai, chỉ có người ấy mới có thể nói điều mà một quốc gia tự do (Freistaat) không dám mạo hiểm: HÃY LÝ LUẬN, NHIỀU NHƯ CÁC NGƯỜI MUỐN, VÀ VỀ NHỮNG GÌ CÁC NGƯỜI THÍCH; CHỈ NÊN VÂNG LỜI! Lời tuyên bố cho thấy một đường lối nhân sinh bất ngờ đáng kinh ngạc, hơn nữa nếu quan sát nó trong đại thể, thì hầu như tất cả mâu thuẫn đều bao hàm trong đó. Một cường độ khá lớn cho TỰ DO công dân có vẻ thuận lợi cho TỰ DO của tinh thần dân tộc nhưng đồng thời cũng đặt cho TỰ DO (dân tộc) này những giới hạn không thể vượt qua: một cường độ ít hơn của thứ tự do kia ngược lại có thể tạo ra cho tự do này khoảng không gian, có thể phóng rộng khả năng của nó ra tất cả mọi hướng. Bởi vì một khi thiên nhiên đã bóc ra hạt nhân nằm dưới cái vỏ cứng mà thiên nhiên đã chăm lo cho nó một cách nâng niu nhất, hạt nhân của lòng yêu TƯ DUY TỰ DO và chức năng thiên phú TƯ DUY TỰ DO: như thế dần dần hạt nhân này sẽ tác động trở lại trên cách thế cảm tính của nhân dân (nhờ đó nhân dân từ từ trở nên có khả năng TỰ DO để HÀNH ÐỘNG) và cuối cùng tác động ngay lên cả những nguyên tắc của chính quyền, một chính quyền bấy giờ nhận ra được rằng, đối xử con người theo đúng với phẩm cách của con người, con người như một thực thể hơn máy móc, thật là ích lợi cho chính thể.
I. Kant, Königsberg tại Preussen, ngày 30 tháng 9 năm 1784
[1]Chú thích của người dịch: tiểu luận này I. Kant đã viết để trả lời câu hỏi "Khai sáng là gì?"mà Linh muc Zoellner đặt ra trong bài viết của ông đăng trong tờ Nguyệt san Bá linh ngày 5. 12. 1783 trang 516, như chính Kant đã chú thích sau tựa đề: * Ghi chú trên về số trang (516) của tờ nguyệt san "Berlinische Monatsschrift" (Nguyệt san Bá linh) liên quan đến lời nhận xét sau đây trong bài viết đã đăng trong tờ báo ấy của ông linh mục Zoellner "Lành mạnh hoá sự kết hôn theo nhà thờ có thuận lợi hay không?", ông ta viết: "KHAI SÁNG LÀ GÌ? Câu hỏi này hầu như cũng quan trọng không kém câu hỏi: CHÂN LÝ là gì, cần phải được trả lời thoả đáng trước khi người ta khởi công khai sáng! Tuy nhiên tôi đã không tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi ấy ở đâu cả!"
[2]Vị thành niên: dịch nghĩa từ tiếng Ðức "Unmündigkeit". Ở đây tưởng nên nêu ra sự khác biệt tư tưởng nằm trong cách dùng chữ chỉ trạng thái "trưởng thành hay "không trưởng thành" của con người. Trong lúc thành ngữ "vị thành niên" theo tiếng Hán Việt dùng để chỉ tình trạng chưa trưởng thành của một con người tính theo năm tháng trên phương diện sinh vật lý thiên nhiên, trong ngôn ngữ Ðức có hai cụm từ: "volljährig" = thành niên theo năm tháng và "mündig" = trưởng thành trong tư tưởng và hành động. Từ ngữ Ðức "Unmündigkeit" được tạo thành từ chữ gốc"MUND" có nghiã là MỒM, MIỆNG, từ đó tĩnh từ "mündig" dùng để chỉ những gì thuộc về lãnh vực MỒM MIỆNG, hay nói cách khác thuộc về lãnh vực TIẾNG NÓI, PHÁT NGÔN, theo nghiã bóng một người là "mündig" có nghiã là người ấy trưởng thành, hay nói khác đi người ấy biết "ăn nói" vững vàng và có tiếng nói trong xã hội như một người công dân. Ðiều lý thú là trong ngôn ngữ dân gian Việt nam chúng ta cũng có một thành ngữ để chỉ thái độ ứng xử của một người chứng tỏ đã trở nên khôn ngoan trưởng thành tương tự như tiếng Ðức: người ấy biết "ĂN NÓI" hay "biết ăn biết nói biết gói biết mở". Danh từ "MÜNDIGKEIT" được tạo thành từ tĩnh từ "mündig" có nghiã là TRƯỞNG THÀNH (trong NGÔN TỰ, trong cách ĂN NÓI), cho thấy quan niệm của người Ðức về sự trưởng thành, hay sự thành NHÂN nằm ở cung cách ĂN NÓI, PHÁT NGÔN của mỗi con người, xa hơn nữa trên phương diện chính trị là người được quyền có tiếng nói (Stimme) trong việc bầu cử. Tình trạng ngược lại là "Unmündigkeit", không trưởng thành. Một người chưa trưởng thành về cách ĂN NÓI cần phải có một nguời đỡ đầu trước pháp luật, tiếng Ðức gọi là "VORMUND ", "VOR" là trạng từ chỉ nơi chốn hay thời gian có nghiã là: Ở TRƯỚC, ÐẰNG TRƯỚC, TRƯỚC ÐẤY. Người "Ở TRƯỚC MIỆNG" được gọi là ngưòi đỡ đầu, theo đó chức vụ của người đỡ đầu là nói thay cho những người chưa trưởng thành.
Kant đã xử dụng chữ "UNMÜNDIGKEIT" trong lúc lý giải tinh thần khai sáng, bởi vì theo ông yếu tính của KHAI SÁNG nằm ở KHẢ NĂNG, Ý CHÍ (CAN ÐẢM CƯƠNG QUYẾT) và QUYỀN ĂN NÓI của mỗi con người khi đã rời khỏi tình trạng NÓI THEO vị thành niên - để có thể TỰ MÌNH PHÁT NGÔN ÐỘC LẬP khởi từ sự suy nghĩ tự lập của mỗi người. Từ đó theo Kant phương tiện thích hợp để khai sáng đại đa số quần chúng là sự quảng bá công khai và rộng rãi các tác phẩm văn chương văn học của những học giả trong quần chúng để giúp quần chúng tự khai sáng thay vì đại đa số quần chúng phải có những vị "VORMUND" nói thay cho họ.
Tiểu luận của Kant cho thấy lập luận suy diễn rất chặt chẽ đi từ ý nghĩa của từng khái niệm, bởi vì chính ngôn ngữ là căn nhà của tư tưởng. Từ đó cũng có thể thấy được nét đặc thù của tư duy và triết học Ðức.
[3]Sapere aude: thành ngữ La tinh: sapere: biết, tri thức. Aude: dám, mạo hiểm: sapere aude: có cam đảm dám biết, dám tri thức.
[4]FRIEDRICH: Vị vua mà Kant nói ở đây là Friedrich II, der Grosse (1712 - 1786), vua nước Ðức- Phổ (Preussen) thời bấy giờ, người đã bảo trợ tinh thần khai sáng trong thời cận đại tại nước Ðức. Ông đã cho phép phong trào khai sáng Pháp (Voltaire, Maupertuis, Lametrie) thành lập một diễn đàn trong viện Hàn Lâm Khoa Học Bá Linh để quảng bá tư tưởng khai sáng, ngay cả những tư tưởng duy vật cực đoan nhất.
Trả lời câu hỏi: Thế nào là giác ngộ?
(Bản dịch của Phạm Toàn)
Giác ngộ là trạng thái ta thoát khỏi cảnh tự mình khư khư buộc mình trong tư thế kẻ không trưởng thành. Không trưởng thành là không có khả năng tự mình dùng hiểu biết của mình mà cứ phải có người đỡ đầu. Nguyên nhân của tình trạng đó không phải vì thiếu trí năng mà do thiếu quyết đoán cũng như thiếu dũng cảm đem trí năng của mình ra dùng, bất cần đến kẻ khác phải chỉ bảo cho. Tiếng Latin nói: Sapere aude! có nghĩa "Hãy dũng cảm đem trí năng mình ra dùng!"- thì đó cũng là phương châm của giác ngộ.
Lười và hèn là nguyên nhân khiến cho vô số con người ngay cả khi đã thoát từ lâu khỏi những dắt dẫn tự bên ngoài mà rồi cả đời vẫn cứ cam chịu cảnh lệ thuộc, và đó cũng là nguyên nhân để kẻ khác dễ dàng tự phong cho họ chức lính canh. Sống phụ thuộc như vậy bao giờ cũng thật dễ chịu. Có sách để sách hiểu biết hộ mình, có mục sư để mục sư lo ý thức cho mình, có thầy thuốc để thầy thuốc quyết định cách ăn cách nhịn cho mình, cứ như thế, và chẳng có gì đáng lo sợ hết. Chẳng cần suy nghĩ, chỉ cần bỏ tiền ra, mọi người sẽ làm mọi điều vớ vẩn hộ ta.
Những ông bảo vệ vốn đã ưu ái nẫng lấy cho mình công việc đỡ đầu sớm muộn sẽ thấy rằng phần đông con người (kể cả chị em phái đẹp) thường coi sự trưởng thành là một con đường không những khó khăn mà còn vô cùng nguy hiểm. Mới đầu các ông bảo vệ làm cho đàn gia súc biết ngoan ngoãn nghe lời và đoan chắc rằng chúng chẳng dám làm một điều cỏn con nào mà lại thiếu cái ách kéo xe chòng cổ, sau đó các ông bảo vệ sẽ chỉ cho họ thấy mối hiểm nguy một khi chúng định tìm cách thoát ra để một mình đi đó đi đây. Song thực ra thì mối hiểm nguy đâu có lớn, vì chỉ cần họ thoát ra vài bận là họ liền học đựoc ngay cách tự đi một mình. Nhưng chỉ cần một lần sảy chân là sẽ khiến họ trở nên nhút nhát và thường làm cho họ tránh xa mọi lần thử sức sau này.
Vậy là, thật vô cùng khó khăn cho một cá nhân khi định thoát ra khỏi cách sống không có người đỡ đầu, cái cung cách hầu như đã thành bản chất của họ. Anh ta đã quen đến mức đem lòng yêu tình trạng của mình, và giờ đây anh ta thực sự không có khả năng đem dùng trí năng của mình, vì chưa từng có một ai cho phép anh ta thử làm điều ấy. Những xiềng xích của một sự bảo trợ mãi mãi kéo dài đó là các lệ luật và công thức, những thứ công cụ cứng quèo của cách sử dụng hợp lý (hoặc đúng hơn là cách không biết sử dụng) các năng lực thiên bẩm của mình. Có ai xua đuổi anh ta thì cũng chỉ khiến anh ngỡ ngàng nhảy qua một cái rãnh, vì anh ta chưa bao giờ quen với cách chuyển động tự do như thế. Thế là, có thật ít người thành công khi tự mình suy nghĩ để giải phòng mình khỏi sự bất lực và có được một bước đường chắc chắn.
Có nhiều khả năng mọi người tự giác ngộ được chính mình. Điều này thực ra gần như không tránh khỏi nếu con người được tự do. Bởi vì bao giờ thì cũng vẫn còn một nhóm người ít ỏi suy nghĩ cho chính mình, thậm chí đó là những người nằm ngay trong đám bảo vệ canh giữ đám đông. Những ông bảo vệ đó, một khi chính họ quăng đi được cái ách của sự không trưởng thành, sẽ truyền bá cái tinh thần kính trọng hợp lý đối với giá trị cá nhân và với cái nhiệm vụ mỗi con người phải tư duy cho chính mình. Điều đáng chú ý ở đây là, nếu như quần chúng, những người trước đây đã bị bọn lính gác chòng cái ách lên vai họ, nay lại đủ sức bị khuấy động bởi vài ba ông lính canh không có khả năng giác ngộ, khi ấy hệ quả sẽ là họ sẽ cầm giữ được các ông lính gác dưới chòng ách. Vì truyền bá các định kiến thật rất tai hại, cuối cùng chúng sẽ quật lại vào đầu chính những con người đã khuyến khích các định kiến (hoặc những kẻ trước đó đã từng làm như vậy). Và thế là mọi người chỉ có thể được giác ngộ từ từ. Một cuộc cách mạng rất có thể lật đổ một nền chuyên chế cá nhân hoặc một sự áp bức tham lam hoặc bạo hành, nhưng sự thay đổi như vậy không khi nào tạo ra một sự đổi mới đích thực về cung cách tư duy. Hơn nữa, những định kiến mới sẽ lại được dùng như cũ để đóng ách lên đám đông quần chúng chẳng có tư duy gì hết.
Để thực sự được giác ngộ thì chẳng đòi hỏi gì ngoài sự tự do, và đó là cái tự do vô hại nhất trong những thứ có thể công khai đem dùng trí năng của mình vào mọi vấn đề. Nhưng tôi đang nghe thấy khắp bốn phương đang la lên "Không lý sự gì hết!" Ông sĩ quan nói: "Không lý sự gì hết, luyện kỹ năng đi!" Ông thu thuế nói: "Không lý sự gì hết, nộp tiền đi!" Ông thầy tu nói: "Không lý sự gì hết, hãy tin đi!" Chỉ có một ông hoàng trên thế giới này nói rằng "Tha hồ mà lý sự đi, hãy lý sự đủ mọi chuyện đi, nhưng hãy phục tòng!"
Khắp nơi nơi, đâu đâu tự do cũng bị bớt xén. Nhưng đâu là chỗ bớt xén làm cản trở sự giác ngộ và đâu là chỗ bớt xén nhưng không cản trở mà lại còn thúc đẩy sự giác ngộ? Tôi cho rằng, bao giờ cũng phải tự do công khai đem dùng trí năng, và chỉ riêng điều đó cũng đem lại được sự giác ngộ đến cho con người. Còn nếu trí năng được đem dùng riêng tư thường khi có thể rất hạn hẹp song cũng chẳng cản trở tiến trình giác ngộ. Tôi quan niệm rằng, công khai đem dùng trí năng là như trong trường hợp người có học đối với những người biết đọc sách. Còn tôi quan niệm dùng trí năng riêng tư là khi dùng trên cương vị riêng của mình hoặc trong văn phòng của mình.
Có nhiều vụ việc tiến hành vì quyền lợi của cộng đồng đòi hỏi phải có một cơ chế để những thành viên cộng đồng chỉ cần thực thi thụ động với một bề ngoài nhất trí, sao cho chính phủ có thể dắt dẫn tất cả đến cái đích cuối cùng, hoặc chí ít là ngăn cản để không làm tổn hại những mục đích tối hậu kia. Trong những trường hợp này, hẳn là không được phép lý sự - mọi người ai cũng phải phục tùng. Thế nhưng chừng nào một cá nhân còn vận hành như một bộ phận của cỗ máy lại cũng tự coi mình như một thành viên của cả khối cộng đồng hoặc thậm chí của một xã hội công dân thế giới, và khi ấy, với tư cách người có học, qua các bài viết của mình anh ta sẽ hướng tới quần chúng (theo ý nghĩa đúng đắn nhất), khi đó anh ta có thể bàn bạc lý sự mà không làm tổn thương gì đến công việc anh ta được thuê làm trong cái thời gian anh ta hoạt động trong tư cách thành viên thụ động của mình.
Vậy là sẽ có tác hại khi một viên sĩ quan đang hành nhiệm mà khi nhận mệnh lệnh của cấp trên lại bàn tán lý sự về tính đúng đắn hoặc tính hữu ích của mệnh lệnh ấy; ông ta chỉ có quyền phục tùng thôi. Nhưng thật hợp lý khi không cấm anh ta với tư cách con người có học được đưa ra những nhận xét về những sai lầm trong việc quân và đưa những chuyện đó ra cho quần chúng phán xét. Người công dân cũng không thể từ chối nghĩa vụ đóng thuế; những lời phê phán táo tợn về các khoản thuế má mà anh ta phải nộp có thể bị trừng trị vì coi như là sự xúc phạm khả dĩ dẫn tới sự bất phục tòng của đông đảo mọi người. Song cũng con người ấy vẫn làm đúng nghĩa vụ công dân của mình một khi trong tư cách con người có học anh ta nói công khai các tư tưởng của mình về sự không đúng đắn hoặc thậm chí về sự bất công của những biện pháp thu thuế ấy.
Tương tự như vậy, người giáo sĩ có bổn phận rao giảng trước học trò và giáo dân của mình theo đúng những giáo thuyết Nhà thờ ông ta phụng sự, bởi vì ông ta được thuê làm việc đó theo những điều khoản đó. Thế nhưng, với tư cách người có học, ông ta hoàn toàn tự do và cũng hoàn toàn bị buộc phải chia sẻ với quần chúng mọi suy tư chín chắn và thiện chí về những điều còn lệch lạc trong các giáo thuyết kia nhằm tổ chức tốt hơn việc đạo và giáo dân. Và làm như vậy thì chẳng có gì khiến lương tâm ông ta áy náy hết. Vì những điều ông ta rao giảng được xem như là hệ quả của công việc với tư cách là đại diện của Nhà thờ, và ông không có quyền muốn rao giảng ra sao mặc lòng; đó là công việc ông được thuê làm theo cách được quy định sẵn và tiến hành nhân danh một ai khác. Ông ta sẽ nói: "Nhà thờ của ta dạy điều này điều nọ, và đây là những lý lẽ được dùng để biện hộ chúng." Sau đó, ông ta sẽ trình ra càng nhiều giá trị thực tiễn càng tốt cho dân xứ đạo mình theo, nhưng lại là những tín điều ông hoàn toàn không thực lòng tin nhưng lại chưa khi nào trình bày ra cho rành rẽ rằng thực sự những điều đó khó có thể chứa đựng chút chân lý nào. Xét cho cùng thì chẳng thấy có gì là ngược lại với bản chất của tôn giáo trong các giáo thuyết đó. Vì nếu viên giáo sĩ nhận ra trong đó chút gì nghịch lại như vậy, thì hẳn ông ta chẳng thể nào yên lòng chịu chức và hành nghề, và hẳn sẽ xin từ nhiệm. Do đó, nếu có ai dùng cách của ông giáo sĩ để bàn cãi lý sự trước các giáo dân thì đó cũng chỉ là thuần tuý riêng tư, vì dù có đông đúc tới đâu thì đám giáo dân cũng chẳng khi nào khác một cuộc tập hợp kiểu gặp gỡ trong nhà. Nhìn nhận theo cách đó, vị giáo sĩ không hề và không thể tự do với tư cách giáo sĩ, chỉ vì ông ta hoạt động theo quy định tự bên ngoài. Ngược lại, với tư cách người trí thức qua các bài viết của mình mà nói với đám quần chúng thực thụ (tức là với toàn thể mọi người), người giáo sĩ phô bầy công khai trí năng của mình, và khi đó ông ta có được sự tự do vô hạn độ đem trí năng của riêng mình lên tiếng nhân danh chính mình. Thật là một điều ngu xuẩn nếu giữ rịt các ông lính gác tâm linh nhân dân trong tình trạng không trưởng thành, điều đó rốt cuộc lại làm cho những điều ngu xuẩn được thường xuyên tồn tại.
Thế nhưng liệu có chăng một cộng đồng giáo sĩ, chẳng hạn như hội đồng nhà thờ hoặc một chủng viện danh tiếng (kiểu như ở Hà Lan) có quyền đứng tên tuyên thệ trước một hệ giáo lý vững chãi nhằm giữ cho thời nào cũng có được quyền bề trên đỡ đầu mọi thành viên của mình và thông qua đó duy trì quyền lực bảo hộ đến tất cả mọi người? Tôi cho rằng điều đó hoàn toàn không thể có được. Một hợp đồng dạng đó nhằm vĩnh viễn ngăn chặn mọi khả năng giác ngộ mai sau của nhân loại, đó là điều tuyệt đối không có giá trị ngay cả khi nó được thông qua bởi các cơ quan quyền lực tối cao, các nghị viện, hoặc các hoà ước ký kết trịnh trọng nhất. Một thế hệ này không thể tuyên thệ gia nhập một liên minh để rồi một thế hệ khác bị rơi vào tình trạng không có khả năng mở rộng hoặc điều chỉnh sự hiểu biết của mình, sửa chữa sai lầm và đi con đường tiến dần đến giác ngộ. Làm như vậy có thể coi là một tội ác chống lại bản chất con người, cái bản chất ngay từ khởi nguyên đã chỉ có một nhiệm vụ là tiến đến sự giác ngộ. Những thế hệ mai sau do đó hoàn toàn có quyền khước từ những thoả thuận coi như là không được phép hoặc như là tội ác.
Muốn đo xem liệu một giải pháp riêng biệt nào đó có thể thành luật đem áp dụng cho mọi người, chúng ta chỉ cần nêu câu hỏi là liệu nhân dân có định áp đặt chính giải pháp đó cho họ hay không. Nếu đó là nhằm cho một giai đoạn ngắn định đưa ra một trật tự nào đó trong lúc chờ đợi có một giải pháp tốt hơn, thì rất có thể đưa ra giải pháp áp đặt lắm. Điều này cũng hàm nghĩa là từng công dân, nhất là người giáo sĩ, với tư cách người có học, cần được quyền tự do nêu ý kiến công khai, thí dụ như trong các bài viết, nói lên những điều bất cập của các thiết chế đang tồn tại. Đồng thời, cái trật tự mới xác lập cũng phải được tiếp tục cho tới khi có sự thức tỉnh của quần chúng về bản chất các vấn đề đang diễn tiến đó và đủ độ để chứng minh được là có sự tán đồng rộng rãi (nếu không phải là đồng ý trăm phần trăm), khi đó một kiến nghị có thể được trình lên nhà vua. Làm như vậy thì sẽ bảo vệ được những cộng đồng giáo dân đã đồng ý chẳng hạn như thay đổi thiết chế tôn giáo của họ theo các quan điểm nhận thức cao hơn của họ, đồng thời cũng vẫn không ngăn chặn những ai muốn duy trì sự vật như cũ. Nhưng cũng tuyệt đối không cho phép dù chỉ trong thời gian ngắn đồng ý với một thể chế tôn giáo thường trực mà không một ai có quyền tra vấn công khai. Vì như vậy thì trên thực tế sẽ vô hiệu hoá một chặng đường tiến lên của con người, làm cho nó không sinh kết quả nữa, thậm chí làm hại đến nhiều thế hệ về sau. Con người có thể trì hoãn giác ngộ những vấn đề anh ta cần nhận biết cho mình và trong một giai đoạn không hạn định, nhưng nếu khước từ hoàn toàn sự giác ngộ đó, dù là cho bản thân hoặc cho những thế hệ sau, có nghĩa là vi phạm và chà đạp những quyền năng thiêng liêng của nhân loại. Thế nhưng, có cái gì đó con người thậm chí không thể tự áp đặt cho mình thì lại càng không thể để cho một đấng chuyên chế áp đặt; bởi vì uy quyền về lập pháp của nhà vua hoàn toàn lệ thuộc vào sự hoà làm một giữa ngài với nguyện vọng chung của đám dân của ngài. Chừng nào ngài còn thấy đó hoàn toàn là chân lý hoặc ngài hình dung ra những điều cải thiện phù hợp với trật tự của người dân, thì ngài có thể hoặc là để cho thần dân mình làm mọi điều họ thấy là cần thiết nhằm cứu vớt chính họ, không coi đấy là việc riêng của nhà vua. Nhưng nhà vua lại có nhiệm vụ phải chặn lại bất kỳ ai cố tình ngăn chặn kẻ khác đang gắng sức xác định và nâng cao khả năng cứu rỗi chính họ. Nhà vua thực ra sẽ bớt giá trị một khi can thiệp vào các việc này và cứ bị lệ thuộc vào những điều thần dân viết ra để nói rõ các ý tưởng về tôn giáo cho bề trên xét. Nhà vua có thể làm điều này khi nhận chân ý nghĩa câu châm ngôn "Đấng tối thượng thì cũng không đứng trên luật lệ" (Caesar non est supra grammaticos). Song nhà vua sẽ chỉ làm mất uy danh mình khi ngài ủng hộ sự chuyên chế về tinh thần cuả vài ba tên bạo chúa chống lại đám thần dân còn lại.
Nếu có ai hỏi chúng ta "Hiện nay chúng ta có đang sống trong một thời đem lại cho con người sự giác ngộ?", thì câu trả lời là "Không", nhưng chính là chúng ta lại đang sống trong một thời khai sáng. Giờ đây, chúng ta còn xa mới đến chỗ mọi con người có đủ khả năng (hoặc có thể có được khả năng) dùng trí năng của mình một cách đúng đắn và tự tin vào những vấn đề tôn giáo mà không cần người chỉ bảo. Nhưng chúng ta cũng có những chỉ số khác cho thấy rõ ràng rằng con người có thể tự do tiến lên theo hướng đó, và ngày càng ít đi những trở ngại để đạt tới sự giác ngộ đầy đủ, tức là tới chỗ con người thoát ra khỏi tư thế kẻ không trưởng thành. Về phương diện này, thời đại chúng ta là thời khai sáng, thế kỷ của hoàng đế Frederick.
Một ông hoàng không thấy rằng mình không xứng đáng có nghĩa vụ không áp đặt gì hết cho mọi người về những vấn đề tôn giáo mà trao cho họ trọn vẹn tự do, một ông hoàng khi đó thậm chí không nhận rằng mình là kẻ khoan dung, thì đó là một con người đã giác ngộ và đáng được thế giới và hậu thế biết ơn như là kẻ đầu tiên giải phóng nhân loại khỏi trạng thái không trưởng thành và để cho mọi con người tự do dùng trí năng của mình vào mọi vấn đề thuộc ý thức của họ. Dưới sự trị vì của ông hoàng đó, các chức sắc nhà thờ, bất kể chức vị nào, với tư cách là người có học, có thể tự do và công khai để cho mọi người đánh giá các nhận định và ý kiến của mình, kể cả khi nơi này nơi khác việc làm có chệch hướng so với giáo thuyết chính thống. Điều này lại càng áp dụng được mạnh hơn với mọi người không kể chức trách nào. Tư tưởng tự do này sẽ vượt xa hơn mảnh đất này, thậm chí đến cả những nơi nó phải đấu tranh chống lại những cản trở áp đặt bởi những chính phủ nào vẫn còn hiểu sai chức năng của họ. Vì chỉ thấy một cái mẫu là đủ để mở mắt cho các chính phủ kia thấy rằng tự do là có thật và là nguyên nhân của thanh bình, ổn định của cả cộng đồng. Con người sẽ tự mình dần dần thoát ra khỏi sự mông muội một khi những điều giả tạo cố tình không còn kìm giữ họ lại được trong vòng mông muội đó nữa.
Tôi lấy tiêu điểm là các vấn đề tôn giáo để nói về sự giác ngộ, tức là vấn đề con người thoát ra khỏi cảnh tự mình khư khư buộc mình trong tư thế kẻ không trưởng thành. Sở dĩ làm như vậy trước hết là vì các nhà cầm quyền của ta không chú ý đến việc giữ vai trò lính canh thần dân đối với những vấn đề hiện đang được khoa học và nghệ thuật quan tâm, và sau đó là vì sự không trưởng thành về tôn giáo là thứ nguy hiểm chết người và làm ô danh con người nhất hạng. Nhưng thái độ tư duy của người nguyên thủ quốc gia ủng hộ tự do cho nghệ thuật và khoa học còn mở rộng đi xa hơn nữa, vì ông ta thấy rằng chẳng có gì nguy hiểm ngay cả cho quyền hành của mình khi ông ta cho thần dân có quyền công khai sử dụng trí năng của họ để đưa ra trước quần chúng các tư tưởng của mình về những cung cách làm luật pháp tốt hơn, ngay cả khi đó sẽ có những lời phê phán trực diện đối với luật pháp hiện thời. Trước mặt chúng ta là một mẫu mực về chuyện đó, chuyện không một nhà cầm quyền chuyên chế nào có thể vượt xa hơn đấng quân vương chúng ta đang trọng vọng.
Nhưng chỉ khi nào một người cầm quyền tự mình đã giác ngộ và chẳng sợ gì ma quỉ và trong tay vẫn có vô vàn quân sĩ nghiêm minh để bảo đảm an ninh công cộng, chỉ người đó mới có khả năng cất lời nói rằng: Hãy lý sự bao nhiêu tuỳ thích và lý sự mọi điều tuỳ ý, nhưng hãy phục tòng! Không một nền cộng hoà nào dám cả gan nói năng như vậy. Điều này cho chúng ta thấy một cái mẫu kỳ quặc và bất ngờ về những xu thế trong mọi việc của con người mà nhìn rộng ra ta chỉ có thể nói đó là những gì thật nghịch lý. Một trình độ tự do cao hơn cho mọi công dân có lợi cho tự do tư tưởng của mọi con người mặc dù vẫn có những rào cản không ai vượt nổi. Ngược lại, một trình độ tự do thấp cũng vẫn đem lại cho từng đầu óc cá nhân mở rộng hết cỡ khả năng của từng người. Và một khi cái mầm mang tính bản chất người này vẫn nảy nở bên trong cái vỏ cứng, thì nó vẫn dần dần tác động lên tính cách tư duy của mọi người, rồi sau đó dần dần đủ sức sử dụng cái tự do của họ. Cuối cùng, điều đó tác động lên các nguyên tắc cai trị, chính quyền sẽ thấy ở đó mối lợi khi cư xử với con người theo cung cách phù hợp với tư cách người, không phải cỗ máy.
Thành phố Königsberg, nước Phổ, 30 tháng 9 năm 1874.
Trả lời câu hỏi: Khai Sáng là gì?
(Bản dịch của Phạm Minh Ngọc)
Khai sáng là sự vùng thoát của con người khỏi tình trạng lệ thuộc mà anh ta đã tự cột mình vào. Tình trạng lệ thuộc là khi người ta không có khả năng sử dụng được trí tuệ của mình nếu không có sự giám hộ của kẻ khác. Tình trạng lệ thuộc tự cột là khi người ta có trí tuệ nhưng không đủ quyết tâm và dũng khí để sử dụng nó nếu không có sự giám hộ của kẻ khác. Vì vậy khẩu hiệu của khai sáng chính là: Tri thức là sức mạnh! Hãy dũng cảm sử dụng trí tuệ của chính mình!
Lười biếng và hèn nhát là nguyên nhân khiến cho nhiều người, ngay cả khi tự nhiên đã giải phóng họ khỏi giai đọan cầm tay chỉ việc đáng ghét [1] , vẫn lấy làm sung sướng được làm trẻ con suốt đời. Cũng vì lí do đó mà nhiều kẻ mới trở thành người bảo hộ một cách dễ dàng đến thế. Đóng vai con trẻ mới dễ chịu làm sao! Nếu tôi có một cuốn sách chứa giùm tri thức cho tôi, nếu tôi có một cố vấn giữ giùm lương tri cho tôi, nếu tôi có một bác sĩ coi giùm chế độ dinh dưỡng cho tôi vv và vv. thì tôi sẽ chẳng phải cố gắng một chút nào hết. Tôi không cần suy nghĩ gì hết, cứ có tiền là xong, người khác sẽ làm tất cả những việc chán ngấy ấy thay tôi.
Những người giám hộ một khi tự nguyện giành lấy công việc giám sát sẽ mau chóng nhận ra rằng đa số nhân loại (bao gồm toàn bộ phái đẹp) đều coi việc thành nhân không những là một việc khó mà còn nguy hiểm nữa. Trước tiên họ làm cho những con vật đã được thuần hoá mụ mị đi, rồi cố gắng ngăn chặn không cho những con vật ngoan ngoãn đó thử làm một bước đầu tiên mà không có dây xỏ mũi, sau đó họ mới chỉ cho chúng thấy những hiểm nguy nếu chúng có ý định đi một mình. Bây giờ mối hiểm nguy thực ra là không lớn đến thế, chắc chắn cuối cùng chúng sẽ học đi được sau vài lần vấp ngã. Nhưng chỉ cần một lần như vậy cũng đủ khiếp rồi, thường thì chúng không dám thử thêm nữa.
Một cá nhân riêng lẻ thật khó thoát được tình trạng ấu trĩ đó, nó đã gần như là bản năng thứ hai của anh ta. Anh ta lại còn yêu nó nữa, anh ta thực sự không có khả năng sử dụng trí tuệ của mình bởi vì anh ta có được thử bao giờ đâu. Các giáo điều, các công thức, những công cụ vô hồn được đem ra sử dụng (hay thường là sử dụng sai) để hợp lí hóa tài năng thiên bẩm của anh ta chính là gông xiềng trói chặt anh ta vào tình trạng lệ thuộc. Nếu có một người nào đó vất bỏ được gông xiềng đi thì anh ta cũng còn lưỡng lự không dám nhảy lên dù con hào thật hẹp vì anh ta đã quen đi đứng tự do bao giờ đâu. Vì vậy chỉ có một ít người, bằng cách rèn luyện tinh thần là có thể tự giải phóng khỏi tình trạng lệ thuộc, táo bạo dấn bước trên con đường mà mình đã chọn.
Một cộng đồng dễ dàng khai sáng cho chính mình hơn. Điều đó gần như chắc chắn sẽ đến nếu cộng đồng đó được để cho tự do. Vì trong cộng đồng đó nhất định có một số người, kể cả trong số những người được chỉ định làm giám hộ cho đám đông dân chúng, tự suy nghĩ bằng cái đầu của mình. Những người này, sau khi vứt bỏ được gông xiềng lệ thuộc, sẽ cổ suý tinh thần tôn trọng các giá trị cá nhân và nhiệm vụ của mọi người là phải tự suy nghĩ lấy. Điều đáng nói là nếu cộng đồng, trước đó được đặt dưới gông xiềng của những kẻ giám hộ, bị những kẻ này, những kẻ chưa được khai sáng, khuấy động thì hậu quả có thể là chính những kẻ đã từng bảo hộ người khác nay lại rơi vào tình trạng bị kìm kẹp. Việc tuyên truyền các thành kiến vì thế rất có hại bởi vì cuối cùng chúng sẽ đập lên lưng chính những kẻ đã ủng hộ các thành kiến đó (hoặc những kẻ trước đó nữa đã từng làm như thế). Cộng đồng vì vậy chỉ có thể được khai sáng một cách từ từ. Một cuộc cách mạng cùng lắm chỉ có thể lật đổ được một chế độ độc tài, tham tàn, áp bức, nhưng không bao giờ tạo ra được một cuộc cải tổ thật sự trong tư duy. Những thành kiến mới, giống như những thành kiến mà chúng vừa thế chỗ, sẽ trở thành sợi dây điều khiển đám đông quần chúng nhẹ dạ.
Để có thể khai sáng một cộng đồng, điều cần thiết duy nhất là tự do. Và quyền tự do chất vấn là hình thức tự do vô hại nhất để một người trình bày công khai lí trí của mình về mọi lĩnh vực. Nhưng tôi đang nghe thấy tiếng gào thét vang lên từ mọi phía: Không được cãi! Ông sĩ quan: Không được cãi, ra thao trường! Ông thuế vụ: Đừng cãi, trả tiền đi! Thày tu: Đừng tranh luận nữa, tin thế đi! (chỉ một người cầm quyền trên thế gian này nói: Tranh luận về bất cứ thứ gì và trong bao lâu cũng được, miễn là biết vâng lời! [2] ). Thế có nghĩa là ở đâu tự do cũng bị cản trở.
Nhưng loại cản trở nào thì kìm hãm khai sáng, loại nào thì, thay vì ngăn chặn, lại thúc đẩy khai sáng? Tôi xin trả lời: khía cạnh công cộng của lí trí cá nhân phải luôn luôn được tự do, chỉ một mình nó có thể đem khai sáng đến cho dân chúng; khía cạnh riêng tư của lí trí cá nhân có thể bị giới hạn một cách chặt chẽ mà không gây cản ngại đáng kể đến tiến trình khai sáng. Tôi hiểu khía cạnh công cộng của lí trí là khi một người với tư cách là một nhà nghiên cứu gửi trước tác đến toàn thể độc giả. Còn khái niệm khía cạnh riêng tư là khi một người sử dụng lí trí trong những chức vụ cụ thể hay tại công sở mà người đó được giao phó. Đối với một số công việc có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của toàn thể cộng đồng, chúng ta phải có một cơ chế mà một số thành viên phải thực hiện một cách thụ động với một sự nhất trí nhân tạo sao cho chính quyền có thể thuê họ vì mục đích chung (hay ít nhất cũng ngăn họ phá hoại các mục đích ấy). Dĩ nhiên không được tranh luận trong những trường hợp đó, tuân thủ là bắt buộc. Nhưng nếu một người thực thi nhiệm vụ của bộ máy lại coi mình là thành viên của cộng đồng hay ngay cả của toàn nhân lọai và như một nhà nghiên cứu thì người đó có thể gửi trước tác đến công chúng trong nghĩa đúng đắn nhất của từ này, anh ta có thể tranh luận mà không gây phương hại đến công việc mà anh ta được thuê làm trong vai trò thụ động một thời gian nào đó. Sẽ thật là tai hại nếu một sĩ quan khi nhận lệnh của thượng cấp lại công khai chỉ trích về tính hữu lí hay lợi ích của mệnh lệnh đó. Anh ta chỉ việc tuân lệnh. Nhưng anh ta không thể bị cấm quan sát các sai lầm trong khi thực thi nhiệm vụ quân sự như một nhà nghiên cứu và đưa ra cho công chúng phán xét. Một công dân không được trốn thuế đã được bổ, một người được gọi đi đóng thuế mà có hành vi chỉ trích thái quá mức thuế cũng có thể bị phạt vì sự xúc phạm như vậy có thể gây ra làn sóng bất tuân rộng khắp. Nhưng người đó không hề vi phạm nghĩa vụ công dân nếu anh ta, với tư cách một học giả, đưa ra công khai suy nghĩ của mình về những sai sót, thậm chí bất công của mức thuế này. Tương tự như vậy, một thày tu phải có trách nhiệm hướng dẫn cho giáo sinh và giáo đoàn theo đúng tinh thần giáo lí của nhà thờ mà ông phục vụ vì ông ta được thuê để làm việc đó. Nhưng như một học giả, ông ta hoàn toàn tự do cũng như có trách nhiệm phải phổ biến cho công chúng biết những suy nghĩ chân thành và sâu sắc của mình về những sai lầm của giáo lí và đề đạt các biện pháp ngõ hầu cải thiện giáo lí và giáo hội. Ở đây lương tâm không có gì phải vướng bận. Thày tu đó rao giảng, theo đúng chức trách của một người đại diện cho nhà thờ mà ông phục vụ, những điều không phải do tự ý ông quyết định mà là những điều ông được thuê để thay mặt một người nào đó rao giảng theo những phương pháp đã được quy định trước. Ông sẽ noí: Nhà thờ của chúng ta dạy điều này, điều này và đây là những bằng chứng được sử dụng. Sau đó ông cung cấp cho giáo đoàn các giá trị thực tế rút ta từ những tín điều mà chính ông sẽ không tuân thủ trọn vẹn nhưng ông có thể không nói ra bởi vì nó không hoàn toàn phi lí, nó có thể chứa đựng sự thật. Dù sao những điều được trình bày trong các tín điều cũng không mâu thuẫn với tín ngưỡng. Bởi vì nếu thày tu đó nghĩ rằng mình đã phát hiện ra một mâu thuẫn nào đó thì ông không thể thực hiện trách nhiệm một cách tự tin, ông sẽ phải từ chức.
Như vậy, một người, khi được thuê như một thày giáo, sử dụng lí trí của mình một cách riêng tư vì giáo đoàn, dù có đông tới đâu, cũng chỉ là một tập hợp có tính chất gia đình. Trong trường hợp này người tu sĩ không được tự do bởi vì ông đang thực hiện nhiệm vụ do người khác giao phó. Ngược lại, người tu sĩ, như một học giả đưa ra công chúng (thí dụ toàn thế giới) các tác phẩm của mình, đang sử dụng khía cạnh công cộng của lí trí, được hoàn toàn tự do sử dụng trí tuệ của mình và phát biểu nhân danh cá nhân mình. Để giữ được như thế thì những người giám hộ nhân dân trong lĩnh vực tinh thần phải là những người lệ thuộc, một sự phi lí cốt để làm cho những điều phi lí thành ra thường trực.
Một tập thể giáo sĩ thí dụ cộng đồng tôn giáo hay trưởng lão (người Hà Lan gọi như thế) có được quyền tự tuyên thệ cam kết với một tập hợp các tín điều bất di bất dịch để thực thi vĩnh viễn quyền giám hộ đối với các thành viên của họ và thông qua họ giám hộ toàn dân không? Tôi trả lời là hoàn toàn không. Một thoả ước được kí kết nhằm chặn đứng vĩnh viễn sự khai sáng của nhân loại là hoàn toàn vô gía trị dù nó có được một quyền lực tối thượng, Nghị Viện Hoàng Gia hay các hiệp ước hoà bình long trọng nhất phê chuẩn. Một thời đại không được tuyên thệ câu kết với nhau để buộc thời đại sau vào hoàn cảnh không thể mở mang và đổi mới tri thức, đặc biệt là đối với những vấn đề quan trọng hoặc là không thể thực hiện được tiến bộ nào trong quá trình khai sáng. Đấy sẽ là tội ác chống lại bản tính của loài người, thiên chức của loài người chính là sự tiến bộ. Các thế hệ sau có quyền bác bỏ những thỏa thuận phi pháp và tội lỗi đó.
Để kiểm tra xem một biện pháp nào đó có thể được thoả thuận như là luật đối với dân chúng hay không chúng ta chỉ cần hỏi là liệu dân chúng có đồng ý áp dụng luật đó cho mình hay không. Cách đó cũng có thể được sử dụng khi đưa ra một số điều luật tạm thời cho một khoảng thời gian nào đó trước khi tìm được giải pháp tốt hơn. Điều đó cũng có nghĩa là các công dân, đặc biệt là các giáo sĩ, với tư cách học giả được tự do góp ý công khai, thí dụ bằng văn bản, về những điều chưa hoàn thiện của các định chế hiện hành. Trong thời gian này trật tự vừa được thiết lập vẫn tiếp tục tồn tại cho đến khi nhận thức của công chúng về những vấn đề đó đã tiến bộ và được đa số (nếu chưa được toàn thể) đồng ý trình lên đức vua đề nghị mới. Điều đó nhằm bảo vệ, thí dụ, các giáo đoàn muốn thay đổi các định chế tôn giáo trên cơ sở nhận thức của họ, đồng thời cũng không cản trở những người muốn giữ nguyên trật tự cũ.
Nhưng tuyệt đối không được cùng nhau thiết lập, dù chỉ cho giai đoạn là một đời người, một định chế tôn giáo bất di bất dịch, không ai được quyền phê phán công khai. Vì điều đó gần như sẽ triệt tiêu một giai đoạn phát triển của loài người, đẩy những thất bại của nó cho các thế hệ sau, thậm chí có ảnh hưởng tai hại đến những thế hệ sau. Một người, vì lí do cá nhân, có thể tạm hoãn, ngay cả trong trường hợp này thì cũng chỉ trong một giai đoạn giới hạn nhất định, tự khai sáng về những vấn đề mà anh ta cần phải biết. Nhưng triệt tiêu hoàn toàn sự khai sáng, dù là đối một cá nhân, hơn nữa lại là đối với những thế hệ đi sau, đồng nghĩa với việc vi phạm và chà đạp lên những quyền thiêng liêng của nhân loại.
Điều mà nhân dân không chịu áp dụng cho mình thì nhà vua lại càng không được áp đặt cho họ bởi vì quyền lập pháp của ngài phụ thuộc vào khả năng thống nhất ý chí của dân chúng dưới quyền ngài. Khi nhà vua thấy rằng tình hình vẫn tốt hoặc những cải tiến được dự liệu phù hợp với trật tự công cộng thì ngài có thể để cho các thần dân làm những điều mà họ cho là cần thiết cho việc cứu rỗi của họ, đấy không phải việc của ngài. Việc của ngài là ngăn chặn những kẻ cản trở bằng vũ lực những người khác trong khi họ nỗ lực hết mình xác định và vươn tới sự cứu rỗi. Sự tôn kính của ngài sẽ bị suy giảm nếu ngài can thiệp vào những việc như đặt các trước tác, trong đó các thần dân của ngài bày tỏ đức tin của mình, dưới sự kiểm soát của nhà nước. Sự tôn kính của ngài cũng sẽ suy giảm nếu ngài coi ý kiến của mình là tối thượng, trong trường hợp này ngài đã tự đặt mình dưới câu châm ngôn: Ceasar không cao hơn các văn hào (Ceasar non est supra grammaticos), còn tệ hơn nữa nếu ngài sử dụng quyền lực của mình để tiếp tay cho sự áp bức về tư tưởng của một số ít kẻ bạo ngược trong vương quốc của ngài chống lại những thần dân khác của ngài.
Bây giờ nếu có người hỏi chúng ta hiện đã sống trong thời đại được khai sáng chưa thì câu trả lời sẽ là: chưa, nhưng chúng ta đang sống trong thời đại của sự khai sáng. Cứ như hiện tình thì chúng ta còn phải đi một đoạn đường dài trước khi toàn thể loài người đạt đến hoàn cảnh (hay được đặt vào hoàn cảnh) có thể sử dụng trí tuệ của mình một cách tự tin kể cả trong những vấn đề tôn giáo mà không cần bất cứ sự giám hộ nào từ bên ngoài. Nhưng chúng ta đã có những chỉ dấu rõ ràng là con đường đã được vạch rõ, có thể tự do tiến theo hướng đó, những cản trở trên con đường đưa đến sự khai sáng toàn diện, đến sự vùng thoát của con người khỏi sự lệ thuộc mà anh ta tự cột mình vào, sẽ ngày một ít dần đi. Trong ý nghĩa đó, thời đại của chúng ta là thời đại của khai sáng, thế kỉ của Frederick.
Một ông vua không cảm thấy ngại ngùng khi nói rằng bổn phận của mình, trong những vấn đề tôn giáo, là không áp đặt bất kì điều gì đối với dân chúng mà cho họ hoàn toàn tự do, một ông vua như thế, dù có từ chối danh hiệu là Người Bao Dung, cũng vẫn là một người đã tự khai sáng rồi. Ngài xứng đáng được hôm nay và hậu thế ngợi ca như là người đầu tiên giải phóng nhân loại khỏi sự lệ thuộc (đây là nói về chính phủ) và người đầu tiên cho mọi người sử dụng lí trí của chính họ trong tất cả những vấn đề thuộc về lương tâm. Luật của ngài là các vị linh mục đáng kính, dù không phải là nhiệm vụ chính thức, có thể, như một học giả được tự do và công khai đưa ra những ý kiến và nhận định của mình cho công luận phán xét, ngay cả khi những ý kiến và nhận định đó trái ngược với giáo lí chính thống. Điều đó còn được áp dụng rộng rãi hơn cho những người khác, những người không bị hạn chế bởi bất kì nhiệm vụ chính thức nào. Tinh thần tự do đó sẽ lan ra ngoại quốc, đến cả những nơi mà nó còn phải đấu tranh với những trở lực do những chính phủ chưa hiểu đúng chức năng của mình tạo ra. Đối với những chính phủ đó, thí dụ dưới đây sẽ cho họ thấy là tự do có thể tồn tại mà không ảnh hưởng đến hoà hợp dân tộc và sự nhất trí về quyền lợi chung. Con người sẽ tự nguyện thoát dần ra khỏi tình trạng bán khai nếu không có các chính sách được đề ra một cách cố ý nhằm níu giữ họ trong tình trạng đó.
Tôi đã mô tả những vấn đề tôn giáo như là tâm điểm của khai sáng hay là sự vùng thoát của con người khỏi tình trạng lệ thuộc mà anh ta đã tự cột mình vào.Tôi làm như vậy vì, thứ nhất, các nhà cầm quyền không quan tâm đến việc áp đặt vai trò giám hộ lên các thần dân trong những lĩnh vực như khoa học và nghệ thuật, thứ hai, lệ thuộc tôn giáo là lệ thuộc nguy hại và nhục nhã nhất. Tuy vậy quan niệm của vị nguyên thủ quốc gia, người khuyến khích tự do trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật có thể mở rộng sang cả các lĩnh vực khác vì ngài sẽ nhận ra rằng không hề có mối đe doạ nào đối với luật pháp của ngài khi cho các thần dân của mình công khai sử dụng lí trí và trình bày quan niệm của họ về việc cải tiến trình tự lập pháp cho dù việc đó có thể dẫn tới những chỉ trích thẳng thừng pháp luật hiện hành. Chúng ta đã có trước mặt mình một người tuyệt vời như thế, chưa có ông vua nào vượt qua ông, một người mà nay chúng ta tỏ lòng ngưỡng mộ [3] .
Nhưng chỉ có người cầm quyền đã tự khai sáng và không sợ bóng tối, một người có một đội quân đông đảo và có kỉ luật để đảm bảo trật tự công cộng mới có thể nói điều mà không một nước cộng hoà nào dám nói: Tranh luận về bất cứ thứ gì và trong bao lâu cũng được, miễn là biết vâng lời! Điều này cho chúng ta thấy hình mẫu hành động kì quặc và bất ngờ của con người (chúng ta sẽ luôn luôn thấy như thế nếu xem xét hành động theo nghĩa rộng rãi nhất, trong đó hầu như mọi thứ đều là nghịch lí). Mức độ tự do công dân cao có vẻ như là một lợi thế cho tự do tư tưởng, đồng thời lại tạo cho nó những rào cản không thể vượt qua được. Ngược lại một mức độ thấp về quyền tự do công dân lại có thể mang đến cho tri thức một không gian tự do đủ để có thể phát triển đến giới hạn tột cùng của nó [4] .
Vậy là, khi cái hạt mầm mà tự nhiên chăm chút kĩ lưỡng nhất trong con người, đấy là thiên hướng và khả năng tư duy tự do, đã phát triển trong cái vỏ cứng của nó dần dần ảnh hưởng lên trí lực của dân chúng làm cho họ hành động càng ngày càng tự do hơn. Cuối cùng nó sẽ ảnh hưởng đến cả các nguyên tắc của chính phủ, lúc này đã nhận thức được rằng sẽ được lợi nếu đối xử với dân chúng phù hợp với phẩm giá của họ chứ không phải như những cỗ máy.
Thành phố Königsberg, nước Phổ, 30 tháng 9 năm 1874
[1] Ngụ ý giai đoạn vị thành niên về mặt thể chất.
[2] Đây là lời của hoàng đế Frederick sẽ được nhắc tới trong đoạn sau.
[3] Ngụ ý hoàng đế Frederick.
[4] Cả đoạn này ám chỉ việc nước Phổ có vua và quân đội mạnh, nhưng nhà vua lại cho phép tự do ngôn luận trong khi các nước cộng hoà khác thì không (mọi thứ đều là nghịch lí).
Bản tiếng Anh: Answering the Question: What is Enlightenment?
(Immanuel Kant, 1784)
Enlightenment is man's release from his self-incurred tutelage. Tutelage s man's inability to make use of his understanding without direction from another. Self-incurred is this tutelage when its cause lies not in lack of reason but in lack of resolution and courage to use it without direction from another. Sapere aude! "Have courage to use your own reason!"- that is the motto of enlightenment.
Laziness and cowardice are the reasons why so great a portion of mankind, after nature has long since discharged them from external direction (naturaliter maiorennes), nevertheless remains under lifelong tutelage, and why it is so easy for others to set themselves up as their guardians. It is so easy not to be of age. If I have a book which understands for me, a pastor who has a conscience for me, a physician who decides my diet, and so forth, I need not trouble myself. I need not think, if I can only pay - others will easily undertake the irksome work for me.
That the step to competence is held to be very dangerous by the far greater portion of mankind (and by the entire fair sex) - quite apart from its being arduous is seen to by those guardians who have so kindly assumed superintendence over them. After the guardians have first made their domestic cattle dumb and have made sure that these placid creatures will not dare take a single step without the harness of the cart to which they are tethered, the guardians then show them the danger which threatens if they try to go alone. Actually, however, this danger is not so great, for by falling a few times they would finally learn to walk alone. But an example of this failure makes them timid and ordinarily frightens them away from all further trials.
For any single individua1 to work himself out of the life under tutelage which has become almost his nature is very difficult. He has come to be fond of his state, and he is for the present really incapable of making use of his reason, for no one has ever let him try it out. Statutes and formulas, those mechanical tools of the rational employment or rather misemployment of his natural gifts, are the fetters of an everlasting tutelage. Whoever throws them off makes only an uncertain leap over the narrowest ditch because he is not accustomed to that kind of free motion. Therefore, there are few who have succeeded by their own exercise of mind both in freeing themselves from incompetence and in achieving a steady pace.
But that the public should enlighten itself is more possible; indeed, if only freedom is granted enlightenment is almost sure to follow. For there will always be some independent thinkers, even among the established guardians of the great masses, who, after throwing off the yoke of tutelage from their own shoulders, will disseminate the spirit of the rational appreciation of both their own worth and every man's vocation for thinking for himself. But be it noted that the public, which has first been brought under this yoke by their guardians, forces the guardians themselves to renain bound when it is incited to do so by some of the guardians who are themselves capable of some enlightenment - so harmful is it to implant prejudices, for they later take vengeance on their cultivators or on their descendants. Thus the public can only slowly attain enlightenment. Perhaps a fall of personal despotism or of avaricious or tyrannical oppression may be accomplished by revolution, but never a true reform in ways of thinking. Farther, new prejudices will serve as well as old ones to harness the great unthinking masses.
For this enlightenment, however, nothing is required but freedom, and indeed the most harmless among all the things to which this term can properly be applied. It is the freedom to make public use of one's reason at every point. But I hear on all sides, "Do not argue!" The Officer says: "Do not argue but drill!" The tax collector: "Do not argue but pay!" The cleric: "Do not argue but believe!" Only one prince in the world says, "Argue as much as you will, and about what you will, but obey!" Everywhere there is restriction on freedom.
Which restriction is an obstacle to enlightenment, and which is not an obstacle but a promoter of it? I answer: The public use of one's reason must always be free, and it alone can bring about enlightenment among men. The private use of reason, on the other hand, may often be very narrowly restricted without particularly hindering the progress of enlightenment. By the public use of one's reason I understand the use which a person makes of it as a scholar before the reading public. Private use I call that which one may make of it in a particular civil post or office which is entrusted to him. Many affairs which are conducted in the interest of the community require a certain mechanism through which some members of the community must passively conduct themselves with an artificial unanimity, so that the government may direct them to public ends, or at least prevent them from destroying those ends. Here argument is certainly not allowed - one must obey. But so far as a part of the mechanism regards himself at the same time as a member of the whole community or of a society of world citizens, and thus in the role of a scholar who addresses the public (in the proper sense of the word) through his writings, he certainly can argue without hurting the affairs for which he is in part responsible as a passive member. Thus it would be ruinous for an officer in service to debate about the suitability or utility of a command given to him by his superior; he must obey. But the right to make remarks on errors in the military service and to lay them before the public for judgment cannot equitably be refused him as a scholar. The citizen cannot refuse to pay the taxes imposed on him; indeed, an impudent complaint at those levied on him can be punished as a scandal (as it could occasion general refractoriness). But the same person nevertheless does not act contrary to his duty as a citizen, when, as a scholar, he publicly expresses his thoughts on the inappropriateness or even the injustices of these levies, Similarly a clergyman is obligated to make his sermon to his pupils in catechism and his congregation conform to the symbol of the church which he serves, for he has been accepted on this condition. But as a scholar he has complete freedom, even the calling, to communicate to the public all his carefully tested and well meaning thoughts on that which is erroneous in the symbol and to make suggestions for the better organization of the religious body and church. In doing this there is nothing that could be laid as a burden on his conscience. For what he teaches as a consequence of his office as a representative of the church, this he considers something about which he has not freedom to teach according to his own lights; it is something which he is appointed to propound at the dictation of and in the name of another. He will say, "Our church teaches this or that; those are the proofs which it adduces." He thus extracts all practical uses for his congregation from statutes to which he himself would not subscribe with full conviction but to the enunciation of which he can very well pledge himself because it is not impossible that truth lies hidden in them, and, in any case, there is at least nothing in them contradictory to inner religion. For if he believed he had found such in them, he could not conscientiously discharge the duties of his office; he would have to give it up. The use, therefore, which an appointed teacher makes of his reason before his congregation is merely private, because this congregation is only a domestic one (even if it be a large gathering); with respect to it, as a priest, he is not free, nor can he be free, because he carries out the orders of another. But as a scholar, whose writings speak to his public, the world, the clergyman in the public use of his reason enjoys an unlimited freedom to use his own reason to speak in his own person. That the guardian of the people (in spiritual things) should themselves be incompetent is an absurdity which amounts to the eternalization of absurdities.
But would not a society of clergymen, perhaps a church conference or a venerable classis (as they call themselves among the Dutch) , be justified in obligating itself by oath to a certain unchangeable symbol inorder to enjoy an unceasing guardianship over each of its numbers and thereby over the people as a whole , and even to make it eternal? I answer that this is altogether impossible. Such contract, made to shut off all further enlightenment from the human race, is absolutely null and void even if confirmed by the supreme power , by parliaments, and by the most ceremonious of peace treaties. An age cannot bind itself and ordain to put the succeeding one into such a condition that it cannot extend its (at best very occasional) knowledge , purify itself of errors, and progress in general enlightenment. That would be a crime against human nature, the proper destination of which lies precisely in this progress and the descendants would be fully justified in rejecting those decrees as having been made in an unwarranted and malicious manner.
The touchstone of everything that can be concluded as a law for a people lies in the question whether the people could have imposed such a law on itself. Now such religious compact might be possible for a short and definitely limited time, as it were, in expectation of a better. One might let every citizen, and especially the clergyman, in the role of scholar, make his comments freely and publicly, i.e. through writing, on the erroneous aspects of the present institution. The newly introduced order might last until insight into the nature of these things had become so general and widely approved that through uniting their voices (even if not unanimously) they could bring a proposal to the throne to take those congregations under protection which had united into a changed religious organization according to their better ideas, without, however hindering others who wish to remain in the order. But to unite in a permanent religious institution which is not to be subject to doubt before the public even in the lifetime of one man, and thereby to make a period of time fruitless in the progress of mankind toward improvement, thus working to the disadvantage of posterity - that is absolutely forbidden. For himself (and only for a short time) a man may postpone enlightenment in what he ought to know, but to renounce it for posterity is to injure and trample on the rights of mankind. And what a people may not decree for itself can even less be decreed for them by a monarch, for his lawgiving authority rests on his uniting the general public will in his own. If he only sees to it that all true or alleged improvement stands together with civil order, he can leave it to his subjects to do what they find necessary for their spiritual welfare. This is not his concern, though it is incumbent on him to prevent one of them from violently hindering another in determining and promoting this welfare to the best of his ability. To meddle in these matters lowers his own majesty, since by the writings in which his own subjects seek to present their views he may evaluate his own governance. He can do this when, with deepest understanding, he lays upon himself the reproach, Caesar non est supra grammaticos. Far more does he injure his own majesty when he degrades his supreme power by supporting the ecclesiastical despotism of some tyrants in his state over his other subjects.
If we are asked , "Do we now live in an enlightened age?" the answer is, "No ," but we do live in an age of enlightenment. As things now stand, much is lacking which prevents men from being, or easily becoming, capable of correctly using their own reason in religious matters with assurance and free from outside direction. But on the other hand, we have clear indications that the field has now been opened wherein men may freely dea1 with these things and that the obstacles to general enlightenment or the release from self-imposed tutelage are gradually being reduced. In this respect, this is the age of enlightenment, or the century of Frederick.
A prince who does not find it unworthy of himself to say that he holds it to be his duty to prescribe nothing to men in religious matters but to give them complete freedom while renouncing the haughty name of tolerance, is himself enlightened and deserves to be esteemed by the grateful world and posterity as the first, at least from the side of government , who divested the human race of its tutelage and left each man free to make use of his reason in matters of conscience. Under him venerable ecclesiastics are allowed, in the role of scholar, and without infringing on their official duties, freely to submit for public testing their judgments and views which here and there diverge from the established symbol. And an even greater freedom is enjoyed by those who are restricted by no official duties. This spirit of freedom spreads beyond this land, even to those in which it must struggle with external obstacles erected by a government which misunderstands its own interest. For an example gives evidence to such a government that in freedom there is not the least cause for concern about public peace and the stability of the community. Men work themselves gradually out of barbarity if only intentional artifices are not made to hold them in it.
I have placed the main point of enlightenment - the escape of men from their self-incurred tutelage - chiefly in matters of religion because our rulers have no interest in playing guardian with respect to the arts and sciences and also because religious incompetence is not only the most harmful but also the most degrading of all. But the manner of thinking of the head of a state who favors religious enlightenment goes further, and he sees that there is no danger to his lawgiving in allowing his subjects to make public use of their reason and to publish their thoughts on a better formulation of his legislation and even their open-minded criticisms of the laws already made. Of this we have a shining example wherein no monarch is superior to him we honor.
But only one who is himself enlightened, is not afraid of shadows, and has a numerous and well-disciplined army to assure public peace, can say: "Argue as much as you will , and about what you will , only obey!" A republic could not dare say such a thing. Here is shown a strange and unexpected trend in human affairs in which almost everything, looked at in the large , is paradoxical. A greater degree of civil freedom appears advantageous to the freedom of mind of the people, and yet it places inescapable limitations upon it. A lower degree of civil freedom, on the contrary, provides the mind with room for each man to extend himself to his full capacity. As nature has uncovered from under this hard shell the seed for which she most tenderly cares - the propensity and vocation to free thinking - this gradually works back upon the character of the people, who thereby gradually become capable of managing freedom; finally, it affects the principles of government, which finds it to its advantage to treat men, who are now more than machines, in accordance with their dignity.
Chúng
tôi chọn ra 03 bản dịch hay nhất theo nhận định của chúng tôi, đó là
bản dịch và chú thích của nhà nghiên cứu Thái Kim Lan, bản dịch của nhà
văn Châu Diên và bản dịch của dịch giả Phạm Minh Ngọc.
Xin trân trọng cảm ơn các dịch giả và trang web Talawas. Xin được giới thiệu lại với bạn đọc.
Immanuel Kant (1724-1804)
Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì?
(Thái Kim Lan dịch và chú thích)
Immanuel Kant (sinh ngày 22.04.1724 tại Königsberg- Preussen - mất ngày 12. 02. 1804 tại Königsberg-Preussen) thường được xem là triết gia Ðức lớn nhất, hơn nữa là triết gia lớn nhất của thời cận đại (Neuzeit), của nền văn hóa tân tiến (moderne Kultur) và của nhiều lãnh vực khoa học nhân văn khác. Học thuyết ""Triết học siêu việt" (Transzendental-philosophie) của ông đã đưa triết học Ðức bước vào một kỷ nguyên mới. "Danh tiếng của ông đã đẩy lùi những gì đi trước vào bóng tối và tỏa sáng lên trên những gì đi sau", như nhận xét của triết sử gia J.Hirschberger. Trong tương quan với triết học thế giới của thời khai sáng, triết học của ông đã cống hiến những lý thuyết cơ bản cho tư tưởng khai sáng của thời cận đại.
Nhân dịp 200 năm ngày mất của triết gia lỗi lạc này xin giới thiệu tiểu luận "Beantwortung der Frage: Was ist die Aufklärung?" (Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì?). Bản tiếng Ðức trong "KANT, WERKE IN XII BAENDEN, XI, THEORIE - WERKAUSGABE, SUHRKAMP 1968, tr 53- 61.Trong bài dịch, những chữ in lớn viết hoa là của chính tác giả, những chữ in đậm do người dịch thêm vào hầu giúp người đọc dễ theo dõi nội dung.
(5. 12. 1783 trang 516 [1] )
KHAI SÁNG LÀ SỰ THOÁT LY CỦA CON NGƯỜI RA KHỎI TÌNH TRẠNG VỊ THÀNH NIÊN DO CHÍNH CON NGƯỜI GÂY RA. VỊ THÀNH NIÊN [2] là sự bất lực không thể vận dụng trí tuệ của mình một cách độc lập mà không cần sự chỉ đạo của người khác. Tình trạng vị thành niên này là do TỰ MÌNH GÂY RA, một khi nguyên nhân của nó không phải do sự thiếu sót trí tuệ, mà do sự thiếu sót tính cương quyết và lòng can đảm, dám tự mình dùng trí tuệ phục vụ cho mình mà không cần đến sự chỉ đạo của người khác. Sapere aude [3] ! Hãy có can đảm tự sử dụng trí tuệ CỦA CHÍNH MÌNH! đó là câu phương châm của Khai Sáng.
Lười biếng và hèn nhát là những nguyên nhân, tại sao một phần lớn số người như thế của nhân loại, sau khi thiên nhiên đã giải phóng họ ra khỏi sự chỉ đạo ngoại lai (naturaliter maiorennes) mà suốt đời lại vẫn thích lưu lại trong tình trạng vị thành niên; và là nguyên nhân tại sao thật là dễ dàng cho một số người khác, tự ném mình giao phó mình cho người đỡ đầu. Ở trong tình trạng vị thành niên thì thật là khỏe khoắn. Tôi có một cuốn sách, quyển sách ấy có trí tuệ thay tôi, có một người đỡ đầu linh hồn, người ấy có lương tâm giùm tôi, có một người thầy thuốc, vị ấy chẩn định sự ăn kiêng cho tôi, vv và vv: như thế tôi khỏi phải lo lắng cho chính mình. Tôi không cần phải suy nghĩ bận tâm, nếu tôi chỉ có thể trả tiền; người khác sẽ chu tất cho tôi mọi công việc phiền não. Sự kiện một phần lớn nhất của nhân loại (trong đó có phái rất đẹp) còn cho rằng bước tiến đến trưởng thành, ngoài việc bước ấy rất khó khăn, còn là rất nguy hiểm; điều ấy những người đỡ đầu kia đã lo chu tất, những người đã hết lòng nhận lãnh cho mình trách nhiệm giám thị tối cao trên những kẻ vị thành niên. Sau khi họ đã làm cho đàn gia súc của họ trước hết ngu đần đi, và chăn giữ một cách cẩn thận không cho những sinh vật yên lặng này được phép dám mạo hiểm một bước ra khỏi chiếc xe kéo, trong đó họ giam những sinh vật ấy; sau đó họ chỉ cho những kẻ ấy sự hiểm nguy đang đe doạ, nếu những người này tìm cách đi một mình. Thật ra thì chính sự nguy hiểm này cũng không to tát chi cho lắm, bởi lẽ những kẻ ấy rốt cùng cũng sẽ học đi trong một vài trường hợp; tuy nhiên chỉ một thí dụ theo cách ấy cũng có thể làm rụt rè nhũn lòng, và thường làm nhát sợ xa lánh tất cả những bước thăm dò khác.
Như thế thật là khó khăn cho mỗi một người, tự mình gắng sức vươn lên để thoát ra khỏi tính vị thành niên hầu như đã trở thành một bản tính tự nhiên cho mình. Người ấy lại còn đâm ra yêu thích tính ấy và thật sự không còn khả năng để tự sử dụng trí tuệ của chính mình, bởi vì người ta đã không bao giờ để cho người ấy làm thử. Những nội qui và những công thức, loại dụng cụ máy móc cho công dụng hợp lý hay đúng hơn cho sự lạm dụng năng khiếu tự nhiên ấy, đều là những xích chân của một tình trạng vị thành niên dai dẳng vĩnh viễn. Kẻ nào vất bỏ nó đi, kẻ ấy cũng sẽ chỉ làm một bước nhảy không chắc chắn qua cái hố nhỏ hẹp, bởi vì kẻ ấy không quen làm động tác tự do theo kiểu ấy. Cho nên chỉ có một số ít thành công trong việc tự giải tỏa mình ra khỏi tình trạng vị thành niên qua sự thao luyện tinh thần, và tạo ra một bước đi vững chãi.
Nhưng sự kiện một QUẦN CHÚNG (Publikum) tự mình khai sáng cho mình, điều ấy có triển vọng; vâng điều ấy, nếu người ta chỉ để cho công chúng ấy TỰ DO thôi, hầu như chắc chắn có thể thực hiện được. Bởi vì trong trường hợp ấy sẽ luôn luôn tìm ra được một vài nhà tư tưởng độc lập, ngay cả trong nhóm những người đỡ đầu có nhiệm vụ canh chừng đống gia súc lớn kia, những người sau khi đã tự tay vất bỏ cái gông vị thành niên, họ sẽ quảng bá quanh mình tinh thần biết đánh giá hợp lý về giá trị thực sự và khuynh hướng thiên phú của mỗi con người nằm ở tư duy tự lập. Ðặc biệt ở đây là: nhóm công chúng trước đó bị những người đỡ đầu đưa vào gông cùm, chính công chúng này sau đó lại bắt buộc những người kia ở lại trong gông, nếu họ bị khiêu khích phải hành động như thế do một vài kẻ trong những người đỡ đầu ấy tự mình không có khả năng khai sáng; gieo trồng những định kiến thật tai hại đến như thế, bởi vì chúng sẽ trả thù lại chính những kẻ đã gây ra qua nhiều thế hệ. Do đấy quần chúng có thể chỉ nên dần dần đạt đến khai sáng mà thôi. Khai sáng bằng một cuộc cách mạng có lẽ sẽ chỉ đem đến sự truất phế một chế độ chuyên chế độc tài và sự đàn áp đầy tham muốn hưởng lợi và cai trị người khác của cá nhân độc tài, nhưng không bao giờ đem đến một sự sửa đổi chân chính thật sự cho cách thế tư duy cả; ngược lại những định kiến mới lại sẽ được sử dụng giống hệt như những cái cũ dùng để làm đường lối chỉ đạo cho đám lau nhau vô đầu óc kia.
Thực hiện khai sáng này không đòi hỏi gì hơn ngoài TỰ DO và là một tự do nguyên vẹn nhất trong tất cả những gì có thể gọi là tự do, đó là: hoàn toàn có thể SỬ DỤNG CÔNG KHAI LÝ TRÍ CỦA CHÍNH MÌNH. Thế nhưng giờ đây tôi nghe khắp mọi phiá đều kêu lên: ÐỪNG CÓ LÝ LUẬN! Ông sĩ quan nói: đừng lý luận, hãy thực hành! Ông cố vấn tài chánh: đừng lý luận! Hãy móc túi trả tiền! Nhà tôn giáo: đừng lý luận, hãy tin tưởng! (chỉ có một Ngài trên thế giới nói: HÃY LÝ LUẬN nhiều như các người muốn và về những gì các người thích; nhưng HÃY VÂNG LỜI!) Theo trên sự giới hạn tự do xảy ra ở tất cả các lãnh vực. Nhưng giới hạn nào sẽ cản trở sự khai sáng? giới hạn nào không cản trở mà ngược lại còn hỗ trợ nó? - Tôi trả lời: sự sử dụng CÔNG KHAI của lý trí phải được TỰ DO bất cứ lúc nào, và chỉ có nó mới có thể đem lại khai sáng đến với con người; còn sự sử dụng RIÊNG TƯ của lý trí thì có thể nhiều khi nên được giới hạn rất chặt chẽ mà không làm cản trở đặc biệt bước tiến của khai sáng. Nhưng tôi hiểu dưới sự sử dụng công khai lý trí của chính mình là sự sử dụng mà một người với tư cách là HỌC GIẢ có thể vận dụng lý trí trước tòan thể công chúng của THẾ GIỚI ÐỘC GIẢ. Tôi gọi sự sử dụng là riêng tư để chỉ sự sử dụng mà người học giả trong CHỨC VỊ công dân hay nhiệm sở mà người ấy được tín nhiệm giao cho. Ta nhận rằng, một số công việc có liên hệ đến quyền lợi cộng đồng cần có một guồng máy phục vụ, nhờ phương tiện đó một vài phần tử của cộng đồng chỉ cần hành sự một cách thụ động, để tạo nên một sự nhất trí giả tạo nào đó cho chính quyền nhằm phục vụ cho những mục đích công khai hay ít nhất để tránh sự phá hoại những mục đích ấy. Dĩ nhiên ở đây không được phép lý luận; mà phải tuân lời. Nhưng bao lâu phần tử của guồng máy đồng thời cũng là phần tử của cả cộng đồng, và hơn nữa của cả xã hội công dân thế giới, với phẩm cách của một người học giả, đang hướng về độc giả với những tác phẩm văn học trong tinh thần tự lập: trong trường hợp này nhất thiết người ấy có thể lý luận, mà không vì thế công vụ bị phiền nhiễu, công vụ này ông được ủy nhiệm phần nào với tư cách một hội viên thụ động. Cho nên trong trường hợp của vị sĩ quan, sẽ rất có hại, nếu người ấy đang được lệnh của cấp trên phải thi hành một lệnh để phục vụ cho mục đích và ích lợi của lệnh ấy mà lại muốn lý luận oang oang; người ấy phải vâng lời. Nhưng với tư cách là học giả thì khả dĩ có thể dành cho người ấy quyền nhận xét về những lỗi lầm trong công tác phục vụ chiến tranh và trình bày những nhận xét ấy trước công chúng để họ phán đoán. Người công dân không thể cưỡng lại không làm những việc mà anh ta được giao phó trách nhiệm; ngay cả một lời trách cứ vui vui về những công việc, khi chúng được giao phó cho anh ta có bổn phận phải hoàn thành, một lời trách cứ nhẹ thôi cũng có thể bị trừng phạt như một một điều bêu riếu (có thể gây nên những trường hợp bất tuân lệnh tổng quát). Nhưng chính người ấy sẽ không hành động ngược lại với bổn phận của một người công dân, nếu người ấy với tư cách của một học giả công khai dám phát biểu tư tưởng của mình chống lại sự vụng về hay sự bất công của những điều luật đưa ra. Cũng thế một người linh mục có bổn phận phải diễn giải cho môn sinh thụ giáo lý và giáo xứ của ông biểu tượng của nhà thờ mà ông ta phục vụ; bởi vì ông đã được thâu nhận với những điều kiện trên. Nhưng với tư cách học giả ông không những có đầy đủ tự do, vâng mà còn thấy đó là một nhiệm vụ hợp lý trong việc thông tin cho quần chúng tất cả những tư tưởng đã được kiểm điểm chặt chẽ và đầy thiện ý về tính cách sai lầm của biểu tượng kia, cũng như những đề nghị cho sự xây dựng tốt hơn thực thể tôn giáo và nhà thờ. Nơi đây không có gì có thể gây phiền toái cho lương tâm cả. Bởi vì những gì ông truyền dạy tuân theo chức vụ nhiệm sở của mình với tư cách là người thi hành công việc của nhà thờ, điều đó ông đã thuyết giảng trong giới hạn của bổn phận, trong đó ông không có chủ lực tự do để giảng dạy theo tư tưởng của riêng ông, và được chỉ định phải diễn giải theo với các điều lệ và nhân danh của một cá nhân khác. Ông ta sẽ nói rằng: nhà thờ của chúng ta dạy điều này hay điều nọ; đây là những dẫn chứng mà nhà thờ sử dụng... Sau đó ông ta rút ra tất cả những ích lợi cho giáo đồ từ những nội qui, mà chính ông sẽ không ký tên với tất cả sự thuyết phục, mặc dù ông có thể làm một vài diễn văn về đề tài đó, bởi lẽ có thể trong đó cũng có một phần nào chân lý, trong đó hoàn toàn không bao hàm điều gì mâu thuẫn với tôn giáo nội tâm của ông. Bởi vì nếu ông ta tìm thấy trong đó điều gì mâu thuẫn với tôn giáo nội tâm thì ông ta sẽ không thể điều hành chức vụ của mình với lương tâm yên ổn được, ông ta phải từ chức. Như thế sự sử dụng lý trí mà một vị Thầy giáo nhậm chức thực hiện trước nhóm quần chúng của ông chỉ là một SỰ SỬ DỤNG RIÊNG TƯ, vì nhóm quần chúng này vẫn chỉ là một cuộc tập họp nội gia, dù cho có lớn đến bao nhiêu; và trong tương quan với nó ông ta với tư cách là nhà giảng đạo, không tự do, cũng không được phép tự do, bởi vì ông ta đang thực hiện một công việc ngoại lai. Ngược lại với tư cách một học giả nói với công chúng thực sự, công chúng ấy là toàn thế giới, qua các tác phẩm của mình, và do đó là vị linh mục trong việc SỬ DỤNG CÔNG KHAI lý trí của mình, vị ấy phải được hưởng một tự do không hạn chế dùng lý trí của chính mình và phát ngôn trong nhân cách của riêng mình. Bởi lẽ sự kiện chính các người đỡ đầu của nhân dân (trong những việc tinh thần) lại cũng vị thành niên, là một sự lạc vần, chạy dài đến vô cực của sự lạc điệu.
Nhưng một tập đoàn của những vị linh mục, ví dụ một đại hội nhà thờ, hay giai cấp (Classis) đáng kính (như họ tự mệnh danh như thế giữa người Hoà Lan) có nên được có thẩm quyền tuyên thệ với nhau tự cho mình có bổn phận đối với một biểu tượng nào đó bất di bất dịch, để thực hành càng mạnh hơn một chính sách đỡ đầu tối cao trên đầu mỗi người trong hội viên của họ và qua đó trên đầu nhân dân, và từ đó vĩnh viễn hoá chính sách ấy không?
Tôi nói: điều ấy hoàn toàn không thể được. Một thoả ước hầu chận đứng vĩnh viễn tất cả những khai sáng lâu dài hơn của loài người, được ký kết như thế, là tuyệt đối không được và không thể có được; và ngay cả trong trường hợp nó được xác nhận bởi một quyền lực tối cao, bởi hội đồng nhà nước và những hiệp ước hoà bình trọng thể nhất. Một thời đại không thể tự cấu kết với nhau và thề nguyền đặt thời đại kế tiếp trong một tình trạng, mà trong đó đối với thời đại đi sau mọi khả năng mở rộng những tri thức còn nhất thời, để tẩy sạch những sai lầm, và có thể tiến xa hơn trong sự khai sáng đều bị tiêu diệt. Ðiều đó sẽ là một tội ác nghịch lại bản chất con người, mà định nghiã nguyên thủy của nó nằm chính trong sự tiến bộ ấy; và như thế những kẻ hậu sinh hoàn toàn có quyền bác bỏ những quyết định đã được chấp nhận một cách vô thẩm quyền và càn bậy. Viên đá thử của tất cả những gì được xem là luật pháp quyết định trên nhân dân, đều nằm trong câu hỏi: rằng người dân có thể tự mình bó buộc vào một thứ pháp luật như thế không? Ðiều này có thể có trong một giai đoạn ngắn, trong khi chờ đợi một luật pháp tốt hơn, hầu tạo ra một trật tự nhất định nào đó; đồng thời người ta dành cho mỗi một người công dân, nhất là người linh mục được tự do, với tư cách của một nhà học giả, công khai, có nghĩa là qua những tác phẩm văn học, trình bày những nhận xét của ông về sự sai lầm của tổ chức ngày trước, trong lúc ấy trật tự đã được thiết lập vẫn còn luôn luôn tồn tại, cho đến khi nhận thức về sự hình thành của các tổ chức ấy đạt đến mức kiện toàn và được xác nhận rằng nhận thức ấy qua sự thống nhất của các tiếng nói (nếu không phải là của tất cả) có thể đưa ra trước ngai vàng một đề nghị, để bảo vệ cho những giáo xứ đã đồng ý với nhau sau khi nắm vững tri thức toàn thiện hơn về một cơ sở tôn giáo được thay đổi, mà không cản trở những giáo xứ vẫn còn bằng lòng với hình thức cũ. Nhưng thỏa thuận với nhau về một hiến chương tôn giáo cố định bất di bất dịch, không ai được quyền nghi ngờ một cách công khai, dù chỉ trong vòng thời gian của một đời người, và qua đấy đồng thời tiêu hủy một khoảng thời gian về sau dành cho sự tiến hoá của nhân loại trong hướng cải thiện, và làm cho vô hiệu quả, từ đó làm thiệt hại cho thế hệ sau, là một điều nhất thiết không được phép. Cho cá nhân mình, và cũng chỉ trong một thời gian ngắn, trong lúc phải tìm hiểu học hỏi, một người có thể hoãn lại sự khai sáng; nhưng triệt tiêu sự khai sáng, dù cho một cá nhân, mà hơn nữa còn cho cả thế hệ hậu sinh, điều ấy có nghiã vi phạm và chà đạp quyền thiêng liêng của nhân loại.
Vả chăng điều gì mà một dân tộc không bao giờ được phép quyết định cho chính mình, điều ấy một vị quân vương càng ít được quyền quyết định trên đầu của dân tộc hơn nữa; bởi vì uy tín ban hành luật pháp của ông thật sự nằm ở điểm ông là người hợp nhất toàn thể ý muốn của nhân dân. Nếu ông chỉ chú ý đến điều này: tất cả sự cải thiện chân thật hay sai lạc đều tồn tại chung với trật tự công dân: như thế ông chỉ cần để cho những kẻ bề tôi của ông tự ý làm những điều mà họ thấy cần thiết cho sự cứu rỗi linh hồn của họ; điều đó không can dự gì đến ông, nhưng có lẽ để đề phòng người này ngăn cản kẻ khác một cách bạo động, không cho kẻ ấy xây dựng số phận và sự thăng tiến của mình theo với khả năng riêng của người ấy. Vị quân chủ ấy sẽ làm thiệt hại uy thế đế vương, nếu ông ta cũng xen vào việc ấy, bằng cách đánh giá những tác phẩm theo sự giám thị của chính quyền ông, những tác phẩm mà nhờ đó kẻ thần dân của ông tìm cách thâu lượm những nhận thức trung thực, cũng như nếu ông phán xét từ nhận thức cao siêu nhất của chính riêng ông, chính ở đó ông sẽ bị người ta trách thán theo thành ngữ: ông vua không đứng trên những nhà văn phạm (Caesar non est supra grammaticos); cũng như thế trong những trường hợp kế tiếp, nếu ông hạ thấp quyền lực tối cao nhất của mình đến mức độ hỗ trợ chính thể chuyên chế tôn giáo của vài kẻ độc tài trong quốc gia của ông đối với những thần dân khác của ông.
Bây giờ nếu có câu hỏi đặt ra: Có phải chúng ta đang sống trong một thời đại đã được khai sáng không? Câu trả lời sẽ là: Không, nhưng chúng ta đang ở trong một thời đại của sự khai sáng!
Trong tình hình hiện tại, nói chung sự kiện con người có khả năng hay có thể được hướng dẫn vào trong khả năng ấy để tự vận dụng một cách vững chắc và thuần thục trí tuệ của mình mà không cần đến sự chỉ đạo của người khác trong những vấn đề tôn giáo, chính nơi đây vẫn còn thiếu sót rầt nhiều. Có điều bây giờ một cánh đồng đã được khai hoá cho con người có thể tự thân bồi đắp một cách tự do và những trở ngại ngăn cản sự khai sáng tổng quát hay sự thoát ly ra khỏi tình trạng vị thành niên do tự mình gây ra dần dần trở nên ít hơn, về những điều ấy chúng ta thấy có những dấu hiệu thật rõ rệ. Trong nhận xét ấy, thời đại này là thời đại của khai sáng hay thế kỷ của FRIEDRICH [4] .
Một vị lãnh chúa, đã không thấy điều ấy là không xứng đáng cho mình, khi nói rằng, ông xem đó là BỔN PHẬN của ông, trong vấn đề tôn giáo không truyền lệnh cho con người, mà để họ hoàn toàn tự do trong việc ấy, cũng là người từ chối không nhận cho mình danh hiệu cao ngạo là BAO DUNG (Toleranz): chính vị lãnh chuá này đã được khai sáng và xứng đáng được cả thế giới hôm nay và thế giới mai sau đầy biết ơn ca ngợi là người đã giải phóng lần đầu tiên loài người ra khỏi tình trạng vị thành niên, ít nhất là từ phía chính quyền, và để cho mỗi người tự do, tự sử dụng lý trí của chính mình trong tất cả những gì thuộc vấn đề lương tâm. Dưới quyền ông, với tư cách của người học giả, những nhà linh mục đáng kính được quyền trình bày một cách tự do và công khai cho thế giới kiểm thảo những phán đoán và nhận thức của họ về những điểm vượt ra ngoài biểu tượng nhà thờ đã được công nhận; nhưng còn hơn thế nữa, dưới trướng của ông, mỗi một người không bị giới hạn vì bổn phận nhiệm sở đều được hành động như thế. Tinh thần tự do này cũng lan rộng ra ngoài giới hạn, ngay ở nơi mà nó phải tranh đấu với những chướng ngại bên ngoài của một chính phủ tự ngộ nhận mình. Bởi vì một thí dụ sẽ làm gương giác ngộ cho chính quyền ấy: rằng với tự do sẽ không có điều gì đáng lo sợ cho sự an dân công khai và sự nhất trí của cộng đồng cả. Con người tự mình dần dần sẽ rèn luyện mình vươn lên khỏi tính thô sơ, nếu người ta không cố ý nắn nót giả tạo để giữ con người lại trong trạng thái thô sơ ấy.
Tôi đã đặt điểm chính của sự khai sáng, trong nghiã sự thoát ly của con người ra khỏi tình trạng vị thành niên do chính con người gây ra, chủ yếu trong tương quan với những vấn đề tôn giáo: bởi vì đối với nghệ thuật và các ngành khoa học những người lãnh đạo của chúng ta không quan tâm đóng vai người đỡ đầu trên đầu kẻ tôi tớ của họ. Hơn nữa, cũng chính vì tình trạng vị thành niên trong tôn giáo không những là tình trạng tai hại nhất mà còn là tình trạng làm ô nhục nhất. Nhưng đường lối tư duy của một vị nguyên thủ quốc gia, nhân vật ưu việt cho trường hợp trên đây, còn đi xa hơn nữa và nhận chân được rằng: ngay cả trong tương quan với sự BAN HÀNH LUẬT PHÁP của ông thật sự không có gì nguy hiểm, khi cho phép người dân được quyền SỬ DỤNG CÔNG KHAI lý trí của mình, cũng như trình bày cho thế giới biết những tư tưởng của họ về sự biên soạn hoàn hảo hơn cho bộ luật kia, ngay cả với một sự phê bình khoáng đạt tự do về những điều đã có sẵn; chúng ta đã có một thí dụ sáng ngời về cách suy nghĩ trên, thí dụ cho thấy chưa có một vị quân chủ nào đi trước người mà chúng ta ngưỡng kính.
Nhưng cũng chỉ có người nào - chính mình đã được khai sáng,- không sợ bóng tối, và đồng thời có trong tay một đội quân đông đảo, có tinh thần kỷ luật nhằm bảo đảm sự an bình công khai, chỉ có người ấy mới có thể nói điều mà một quốc gia tự do (Freistaat) không dám mạo hiểm: HÃY LÝ LUẬN, NHIỀU NHƯ CÁC NGƯỜI MUỐN, VÀ VỀ NHỮNG GÌ CÁC NGƯỜI THÍCH; CHỈ NÊN VÂNG LỜI! Lời tuyên bố cho thấy một đường lối nhân sinh bất ngờ đáng kinh ngạc, hơn nữa nếu quan sát nó trong đại thể, thì hầu như tất cả mâu thuẫn đều bao hàm trong đó. Một cường độ khá lớn cho TỰ DO công dân có vẻ thuận lợi cho TỰ DO của tinh thần dân tộc nhưng đồng thời cũng đặt cho TỰ DO (dân tộc) này những giới hạn không thể vượt qua: một cường độ ít hơn của thứ tự do kia ngược lại có thể tạo ra cho tự do này khoảng không gian, có thể phóng rộng khả năng của nó ra tất cả mọi hướng. Bởi vì một khi thiên nhiên đã bóc ra hạt nhân nằm dưới cái vỏ cứng mà thiên nhiên đã chăm lo cho nó một cách nâng niu nhất, hạt nhân của lòng yêu TƯ DUY TỰ DO và chức năng thiên phú TƯ DUY TỰ DO: như thế dần dần hạt nhân này sẽ tác động trở lại trên cách thế cảm tính của nhân dân (nhờ đó nhân dân từ từ trở nên có khả năng TỰ DO để HÀNH ÐỘNG) và cuối cùng tác động ngay lên cả những nguyên tắc của chính quyền, một chính quyền bấy giờ nhận ra được rằng, đối xử con người theo đúng với phẩm cách của con người, con người như một thực thể hơn máy móc, thật là ích lợi cho chính thể.
I. Kant, Königsberg tại Preussen, ngày 30 tháng 9 năm 1784
[1]Chú thích của người dịch: tiểu luận này I. Kant đã viết để trả lời câu hỏi "Khai sáng là gì?"mà Linh muc Zoellner đặt ra trong bài viết của ông đăng trong tờ Nguyệt san Bá linh ngày 5. 12. 1783 trang 516, như chính Kant đã chú thích sau tựa đề: * Ghi chú trên về số trang (516) của tờ nguyệt san "Berlinische Monatsschrift" (Nguyệt san Bá linh) liên quan đến lời nhận xét sau đây trong bài viết đã đăng trong tờ báo ấy của ông linh mục Zoellner "Lành mạnh hoá sự kết hôn theo nhà thờ có thuận lợi hay không?", ông ta viết: "KHAI SÁNG LÀ GÌ? Câu hỏi này hầu như cũng quan trọng không kém câu hỏi: CHÂN LÝ là gì, cần phải được trả lời thoả đáng trước khi người ta khởi công khai sáng! Tuy nhiên tôi đã không tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi ấy ở đâu cả!"
[2]Vị thành niên: dịch nghĩa từ tiếng Ðức "Unmündigkeit". Ở đây tưởng nên nêu ra sự khác biệt tư tưởng nằm trong cách dùng chữ chỉ trạng thái "trưởng thành hay "không trưởng thành" của con người. Trong lúc thành ngữ "vị thành niên" theo tiếng Hán Việt dùng để chỉ tình trạng chưa trưởng thành của một con người tính theo năm tháng trên phương diện sinh vật lý thiên nhiên, trong ngôn ngữ Ðức có hai cụm từ: "volljährig" = thành niên theo năm tháng và "mündig" = trưởng thành trong tư tưởng và hành động. Từ ngữ Ðức "Unmündigkeit" được tạo thành từ chữ gốc"MUND" có nghiã là MỒM, MIỆNG, từ đó tĩnh từ "mündig" dùng để chỉ những gì thuộc về lãnh vực MỒM MIỆNG, hay nói cách khác thuộc về lãnh vực TIẾNG NÓI, PHÁT NGÔN, theo nghiã bóng một người là "mündig" có nghiã là người ấy trưởng thành, hay nói khác đi người ấy biết "ăn nói" vững vàng và có tiếng nói trong xã hội như một người công dân. Ðiều lý thú là trong ngôn ngữ dân gian Việt nam chúng ta cũng có một thành ngữ để chỉ thái độ ứng xử của một người chứng tỏ đã trở nên khôn ngoan trưởng thành tương tự như tiếng Ðức: người ấy biết "ĂN NÓI" hay "biết ăn biết nói biết gói biết mở". Danh từ "MÜNDIGKEIT" được tạo thành từ tĩnh từ "mündig" có nghiã là TRƯỞNG THÀNH (trong NGÔN TỰ, trong cách ĂN NÓI), cho thấy quan niệm của người Ðức về sự trưởng thành, hay sự thành NHÂN nằm ở cung cách ĂN NÓI, PHÁT NGÔN của mỗi con người, xa hơn nữa trên phương diện chính trị là người được quyền có tiếng nói (Stimme) trong việc bầu cử. Tình trạng ngược lại là "Unmündigkeit", không trưởng thành. Một người chưa trưởng thành về cách ĂN NÓI cần phải có một nguời đỡ đầu trước pháp luật, tiếng Ðức gọi là "VORMUND ", "VOR" là trạng từ chỉ nơi chốn hay thời gian có nghiã là: Ở TRƯỚC, ÐẰNG TRƯỚC, TRƯỚC ÐẤY. Người "Ở TRƯỚC MIỆNG" được gọi là ngưòi đỡ đầu, theo đó chức vụ của người đỡ đầu là nói thay cho những người chưa trưởng thành.
Kant đã xử dụng chữ "UNMÜNDIGKEIT" trong lúc lý giải tinh thần khai sáng, bởi vì theo ông yếu tính của KHAI SÁNG nằm ở KHẢ NĂNG, Ý CHÍ (CAN ÐẢM CƯƠNG QUYẾT) và QUYỀN ĂN NÓI của mỗi con người khi đã rời khỏi tình trạng NÓI THEO vị thành niên - để có thể TỰ MÌNH PHÁT NGÔN ÐỘC LẬP khởi từ sự suy nghĩ tự lập của mỗi người. Từ đó theo Kant phương tiện thích hợp để khai sáng đại đa số quần chúng là sự quảng bá công khai và rộng rãi các tác phẩm văn chương văn học của những học giả trong quần chúng để giúp quần chúng tự khai sáng thay vì đại đa số quần chúng phải có những vị "VORMUND" nói thay cho họ.
Tiểu luận của Kant cho thấy lập luận suy diễn rất chặt chẽ đi từ ý nghĩa của từng khái niệm, bởi vì chính ngôn ngữ là căn nhà của tư tưởng. Từ đó cũng có thể thấy được nét đặc thù của tư duy và triết học Ðức.
[3]Sapere aude: thành ngữ La tinh: sapere: biết, tri thức. Aude: dám, mạo hiểm: sapere aude: có cam đảm dám biết, dám tri thức.
[4]FRIEDRICH: Vị vua mà Kant nói ở đây là Friedrich II, der Grosse (1712 - 1786), vua nước Ðức- Phổ (Preussen) thời bấy giờ, người đã bảo trợ tinh thần khai sáng trong thời cận đại tại nước Ðức. Ông đã cho phép phong trào khai sáng Pháp (Voltaire, Maupertuis, Lametrie) thành lập một diễn đàn trong viện Hàn Lâm Khoa Học Bá Linh để quảng bá tư tưởng khai sáng, ngay cả những tư tưởng duy vật cực đoan nhất.
Trả lời câu hỏi: Thế nào là giác ngộ?
(Bản dịch của Phạm Toàn)
Giác ngộ là trạng thái ta thoát khỏi cảnh tự mình khư khư buộc mình trong tư thế kẻ không trưởng thành. Không trưởng thành là không có khả năng tự mình dùng hiểu biết của mình mà cứ phải có người đỡ đầu. Nguyên nhân của tình trạng đó không phải vì thiếu trí năng mà do thiếu quyết đoán cũng như thiếu dũng cảm đem trí năng của mình ra dùng, bất cần đến kẻ khác phải chỉ bảo cho. Tiếng Latin nói: Sapere aude! có nghĩa "Hãy dũng cảm đem trí năng mình ra dùng!"- thì đó cũng là phương châm của giác ngộ.
Lười và hèn là nguyên nhân khiến cho vô số con người ngay cả khi đã thoát từ lâu khỏi những dắt dẫn tự bên ngoài mà rồi cả đời vẫn cứ cam chịu cảnh lệ thuộc, và đó cũng là nguyên nhân để kẻ khác dễ dàng tự phong cho họ chức lính canh. Sống phụ thuộc như vậy bao giờ cũng thật dễ chịu. Có sách để sách hiểu biết hộ mình, có mục sư để mục sư lo ý thức cho mình, có thầy thuốc để thầy thuốc quyết định cách ăn cách nhịn cho mình, cứ như thế, và chẳng có gì đáng lo sợ hết. Chẳng cần suy nghĩ, chỉ cần bỏ tiền ra, mọi người sẽ làm mọi điều vớ vẩn hộ ta.
Những ông bảo vệ vốn đã ưu ái nẫng lấy cho mình công việc đỡ đầu sớm muộn sẽ thấy rằng phần đông con người (kể cả chị em phái đẹp) thường coi sự trưởng thành là một con đường không những khó khăn mà còn vô cùng nguy hiểm. Mới đầu các ông bảo vệ làm cho đàn gia súc biết ngoan ngoãn nghe lời và đoan chắc rằng chúng chẳng dám làm một điều cỏn con nào mà lại thiếu cái ách kéo xe chòng cổ, sau đó các ông bảo vệ sẽ chỉ cho họ thấy mối hiểm nguy một khi chúng định tìm cách thoát ra để một mình đi đó đi đây. Song thực ra thì mối hiểm nguy đâu có lớn, vì chỉ cần họ thoát ra vài bận là họ liền học đựoc ngay cách tự đi một mình. Nhưng chỉ cần một lần sảy chân là sẽ khiến họ trở nên nhút nhát và thường làm cho họ tránh xa mọi lần thử sức sau này.
Vậy là, thật vô cùng khó khăn cho một cá nhân khi định thoát ra khỏi cách sống không có người đỡ đầu, cái cung cách hầu như đã thành bản chất của họ. Anh ta đã quen đến mức đem lòng yêu tình trạng của mình, và giờ đây anh ta thực sự không có khả năng đem dùng trí năng của mình, vì chưa từng có một ai cho phép anh ta thử làm điều ấy. Những xiềng xích của một sự bảo trợ mãi mãi kéo dài đó là các lệ luật và công thức, những thứ công cụ cứng quèo của cách sử dụng hợp lý (hoặc đúng hơn là cách không biết sử dụng) các năng lực thiên bẩm của mình. Có ai xua đuổi anh ta thì cũng chỉ khiến anh ngỡ ngàng nhảy qua một cái rãnh, vì anh ta chưa bao giờ quen với cách chuyển động tự do như thế. Thế là, có thật ít người thành công khi tự mình suy nghĩ để giải phòng mình khỏi sự bất lực và có được một bước đường chắc chắn.
Có nhiều khả năng mọi người tự giác ngộ được chính mình. Điều này thực ra gần như không tránh khỏi nếu con người được tự do. Bởi vì bao giờ thì cũng vẫn còn một nhóm người ít ỏi suy nghĩ cho chính mình, thậm chí đó là những người nằm ngay trong đám bảo vệ canh giữ đám đông. Những ông bảo vệ đó, một khi chính họ quăng đi được cái ách của sự không trưởng thành, sẽ truyền bá cái tinh thần kính trọng hợp lý đối với giá trị cá nhân và với cái nhiệm vụ mỗi con người phải tư duy cho chính mình. Điều đáng chú ý ở đây là, nếu như quần chúng, những người trước đây đã bị bọn lính gác chòng cái ách lên vai họ, nay lại đủ sức bị khuấy động bởi vài ba ông lính canh không có khả năng giác ngộ, khi ấy hệ quả sẽ là họ sẽ cầm giữ được các ông lính gác dưới chòng ách. Vì truyền bá các định kiến thật rất tai hại, cuối cùng chúng sẽ quật lại vào đầu chính những con người đã khuyến khích các định kiến (hoặc những kẻ trước đó đã từng làm như vậy). Và thế là mọi người chỉ có thể được giác ngộ từ từ. Một cuộc cách mạng rất có thể lật đổ một nền chuyên chế cá nhân hoặc một sự áp bức tham lam hoặc bạo hành, nhưng sự thay đổi như vậy không khi nào tạo ra một sự đổi mới đích thực về cung cách tư duy. Hơn nữa, những định kiến mới sẽ lại được dùng như cũ để đóng ách lên đám đông quần chúng chẳng có tư duy gì hết.
Để thực sự được giác ngộ thì chẳng đòi hỏi gì ngoài sự tự do, và đó là cái tự do vô hại nhất trong những thứ có thể công khai đem dùng trí năng của mình vào mọi vấn đề. Nhưng tôi đang nghe thấy khắp bốn phương đang la lên "Không lý sự gì hết!" Ông sĩ quan nói: "Không lý sự gì hết, luyện kỹ năng đi!" Ông thu thuế nói: "Không lý sự gì hết, nộp tiền đi!" Ông thầy tu nói: "Không lý sự gì hết, hãy tin đi!" Chỉ có một ông hoàng trên thế giới này nói rằng "Tha hồ mà lý sự đi, hãy lý sự đủ mọi chuyện đi, nhưng hãy phục tòng!"
Khắp nơi nơi, đâu đâu tự do cũng bị bớt xén. Nhưng đâu là chỗ bớt xén làm cản trở sự giác ngộ và đâu là chỗ bớt xén nhưng không cản trở mà lại còn thúc đẩy sự giác ngộ? Tôi cho rằng, bao giờ cũng phải tự do công khai đem dùng trí năng, và chỉ riêng điều đó cũng đem lại được sự giác ngộ đến cho con người. Còn nếu trí năng được đem dùng riêng tư thường khi có thể rất hạn hẹp song cũng chẳng cản trở tiến trình giác ngộ. Tôi quan niệm rằng, công khai đem dùng trí năng là như trong trường hợp người có học đối với những người biết đọc sách. Còn tôi quan niệm dùng trí năng riêng tư là khi dùng trên cương vị riêng của mình hoặc trong văn phòng của mình.
Có nhiều vụ việc tiến hành vì quyền lợi của cộng đồng đòi hỏi phải có một cơ chế để những thành viên cộng đồng chỉ cần thực thi thụ động với một bề ngoài nhất trí, sao cho chính phủ có thể dắt dẫn tất cả đến cái đích cuối cùng, hoặc chí ít là ngăn cản để không làm tổn hại những mục đích tối hậu kia. Trong những trường hợp này, hẳn là không được phép lý sự - mọi người ai cũng phải phục tùng. Thế nhưng chừng nào một cá nhân còn vận hành như một bộ phận của cỗ máy lại cũng tự coi mình như một thành viên của cả khối cộng đồng hoặc thậm chí của một xã hội công dân thế giới, và khi ấy, với tư cách người có học, qua các bài viết của mình anh ta sẽ hướng tới quần chúng (theo ý nghĩa đúng đắn nhất), khi đó anh ta có thể bàn bạc lý sự mà không làm tổn thương gì đến công việc anh ta được thuê làm trong cái thời gian anh ta hoạt động trong tư cách thành viên thụ động của mình.
Vậy là sẽ có tác hại khi một viên sĩ quan đang hành nhiệm mà khi nhận mệnh lệnh của cấp trên lại bàn tán lý sự về tính đúng đắn hoặc tính hữu ích của mệnh lệnh ấy; ông ta chỉ có quyền phục tùng thôi. Nhưng thật hợp lý khi không cấm anh ta với tư cách con người có học được đưa ra những nhận xét về những sai lầm trong việc quân và đưa những chuyện đó ra cho quần chúng phán xét. Người công dân cũng không thể từ chối nghĩa vụ đóng thuế; những lời phê phán táo tợn về các khoản thuế má mà anh ta phải nộp có thể bị trừng trị vì coi như là sự xúc phạm khả dĩ dẫn tới sự bất phục tòng của đông đảo mọi người. Song cũng con người ấy vẫn làm đúng nghĩa vụ công dân của mình một khi trong tư cách con người có học anh ta nói công khai các tư tưởng của mình về sự không đúng đắn hoặc thậm chí về sự bất công của những biện pháp thu thuế ấy.
Tương tự như vậy, người giáo sĩ có bổn phận rao giảng trước học trò và giáo dân của mình theo đúng những giáo thuyết Nhà thờ ông ta phụng sự, bởi vì ông ta được thuê làm việc đó theo những điều khoản đó. Thế nhưng, với tư cách người có học, ông ta hoàn toàn tự do và cũng hoàn toàn bị buộc phải chia sẻ với quần chúng mọi suy tư chín chắn và thiện chí về những điều còn lệch lạc trong các giáo thuyết kia nhằm tổ chức tốt hơn việc đạo và giáo dân. Và làm như vậy thì chẳng có gì khiến lương tâm ông ta áy náy hết. Vì những điều ông ta rao giảng được xem như là hệ quả của công việc với tư cách là đại diện của Nhà thờ, và ông không có quyền muốn rao giảng ra sao mặc lòng; đó là công việc ông được thuê làm theo cách được quy định sẵn và tiến hành nhân danh một ai khác. Ông ta sẽ nói: "Nhà thờ của ta dạy điều này điều nọ, và đây là những lý lẽ được dùng để biện hộ chúng." Sau đó, ông ta sẽ trình ra càng nhiều giá trị thực tiễn càng tốt cho dân xứ đạo mình theo, nhưng lại là những tín điều ông hoàn toàn không thực lòng tin nhưng lại chưa khi nào trình bày ra cho rành rẽ rằng thực sự những điều đó khó có thể chứa đựng chút chân lý nào. Xét cho cùng thì chẳng thấy có gì là ngược lại với bản chất của tôn giáo trong các giáo thuyết đó. Vì nếu viên giáo sĩ nhận ra trong đó chút gì nghịch lại như vậy, thì hẳn ông ta chẳng thể nào yên lòng chịu chức và hành nghề, và hẳn sẽ xin từ nhiệm. Do đó, nếu có ai dùng cách của ông giáo sĩ để bàn cãi lý sự trước các giáo dân thì đó cũng chỉ là thuần tuý riêng tư, vì dù có đông đúc tới đâu thì đám giáo dân cũng chẳng khi nào khác một cuộc tập hợp kiểu gặp gỡ trong nhà. Nhìn nhận theo cách đó, vị giáo sĩ không hề và không thể tự do với tư cách giáo sĩ, chỉ vì ông ta hoạt động theo quy định tự bên ngoài. Ngược lại, với tư cách người trí thức qua các bài viết của mình mà nói với đám quần chúng thực thụ (tức là với toàn thể mọi người), người giáo sĩ phô bầy công khai trí năng của mình, và khi đó ông ta có được sự tự do vô hạn độ đem trí năng của riêng mình lên tiếng nhân danh chính mình. Thật là một điều ngu xuẩn nếu giữ rịt các ông lính gác tâm linh nhân dân trong tình trạng không trưởng thành, điều đó rốt cuộc lại làm cho những điều ngu xuẩn được thường xuyên tồn tại.
Thế nhưng liệu có chăng một cộng đồng giáo sĩ, chẳng hạn như hội đồng nhà thờ hoặc một chủng viện danh tiếng (kiểu như ở Hà Lan) có quyền đứng tên tuyên thệ trước một hệ giáo lý vững chãi nhằm giữ cho thời nào cũng có được quyền bề trên đỡ đầu mọi thành viên của mình và thông qua đó duy trì quyền lực bảo hộ đến tất cả mọi người? Tôi cho rằng điều đó hoàn toàn không thể có được. Một hợp đồng dạng đó nhằm vĩnh viễn ngăn chặn mọi khả năng giác ngộ mai sau của nhân loại, đó là điều tuyệt đối không có giá trị ngay cả khi nó được thông qua bởi các cơ quan quyền lực tối cao, các nghị viện, hoặc các hoà ước ký kết trịnh trọng nhất. Một thế hệ này không thể tuyên thệ gia nhập một liên minh để rồi một thế hệ khác bị rơi vào tình trạng không có khả năng mở rộng hoặc điều chỉnh sự hiểu biết của mình, sửa chữa sai lầm và đi con đường tiến dần đến giác ngộ. Làm như vậy có thể coi là một tội ác chống lại bản chất con người, cái bản chất ngay từ khởi nguyên đã chỉ có một nhiệm vụ là tiến đến sự giác ngộ. Những thế hệ mai sau do đó hoàn toàn có quyền khước từ những thoả thuận coi như là không được phép hoặc như là tội ác.
Muốn đo xem liệu một giải pháp riêng biệt nào đó có thể thành luật đem áp dụng cho mọi người, chúng ta chỉ cần nêu câu hỏi là liệu nhân dân có định áp đặt chính giải pháp đó cho họ hay không. Nếu đó là nhằm cho một giai đoạn ngắn định đưa ra một trật tự nào đó trong lúc chờ đợi có một giải pháp tốt hơn, thì rất có thể đưa ra giải pháp áp đặt lắm. Điều này cũng hàm nghĩa là từng công dân, nhất là người giáo sĩ, với tư cách người có học, cần được quyền tự do nêu ý kiến công khai, thí dụ như trong các bài viết, nói lên những điều bất cập của các thiết chế đang tồn tại. Đồng thời, cái trật tự mới xác lập cũng phải được tiếp tục cho tới khi có sự thức tỉnh của quần chúng về bản chất các vấn đề đang diễn tiến đó và đủ độ để chứng minh được là có sự tán đồng rộng rãi (nếu không phải là đồng ý trăm phần trăm), khi đó một kiến nghị có thể được trình lên nhà vua. Làm như vậy thì sẽ bảo vệ được những cộng đồng giáo dân đã đồng ý chẳng hạn như thay đổi thiết chế tôn giáo của họ theo các quan điểm nhận thức cao hơn của họ, đồng thời cũng vẫn không ngăn chặn những ai muốn duy trì sự vật như cũ. Nhưng cũng tuyệt đối không cho phép dù chỉ trong thời gian ngắn đồng ý với một thể chế tôn giáo thường trực mà không một ai có quyền tra vấn công khai. Vì như vậy thì trên thực tế sẽ vô hiệu hoá một chặng đường tiến lên của con người, làm cho nó không sinh kết quả nữa, thậm chí làm hại đến nhiều thế hệ về sau. Con người có thể trì hoãn giác ngộ những vấn đề anh ta cần nhận biết cho mình và trong một giai đoạn không hạn định, nhưng nếu khước từ hoàn toàn sự giác ngộ đó, dù là cho bản thân hoặc cho những thế hệ sau, có nghĩa là vi phạm và chà đạp những quyền năng thiêng liêng của nhân loại. Thế nhưng, có cái gì đó con người thậm chí không thể tự áp đặt cho mình thì lại càng không thể để cho một đấng chuyên chế áp đặt; bởi vì uy quyền về lập pháp của nhà vua hoàn toàn lệ thuộc vào sự hoà làm một giữa ngài với nguyện vọng chung của đám dân của ngài. Chừng nào ngài còn thấy đó hoàn toàn là chân lý hoặc ngài hình dung ra những điều cải thiện phù hợp với trật tự của người dân, thì ngài có thể hoặc là để cho thần dân mình làm mọi điều họ thấy là cần thiết nhằm cứu vớt chính họ, không coi đấy là việc riêng của nhà vua. Nhưng nhà vua lại có nhiệm vụ phải chặn lại bất kỳ ai cố tình ngăn chặn kẻ khác đang gắng sức xác định và nâng cao khả năng cứu rỗi chính họ. Nhà vua thực ra sẽ bớt giá trị một khi can thiệp vào các việc này và cứ bị lệ thuộc vào những điều thần dân viết ra để nói rõ các ý tưởng về tôn giáo cho bề trên xét. Nhà vua có thể làm điều này khi nhận chân ý nghĩa câu châm ngôn "Đấng tối thượng thì cũng không đứng trên luật lệ" (Caesar non est supra grammaticos). Song nhà vua sẽ chỉ làm mất uy danh mình khi ngài ủng hộ sự chuyên chế về tinh thần cuả vài ba tên bạo chúa chống lại đám thần dân còn lại.
Nếu có ai hỏi chúng ta "Hiện nay chúng ta có đang sống trong một thời đem lại cho con người sự giác ngộ?", thì câu trả lời là "Không", nhưng chính là chúng ta lại đang sống trong một thời khai sáng. Giờ đây, chúng ta còn xa mới đến chỗ mọi con người có đủ khả năng (hoặc có thể có được khả năng) dùng trí năng của mình một cách đúng đắn và tự tin vào những vấn đề tôn giáo mà không cần người chỉ bảo. Nhưng chúng ta cũng có những chỉ số khác cho thấy rõ ràng rằng con người có thể tự do tiến lên theo hướng đó, và ngày càng ít đi những trở ngại để đạt tới sự giác ngộ đầy đủ, tức là tới chỗ con người thoát ra khỏi tư thế kẻ không trưởng thành. Về phương diện này, thời đại chúng ta là thời khai sáng, thế kỷ của hoàng đế Frederick.
Một ông hoàng không thấy rằng mình không xứng đáng có nghĩa vụ không áp đặt gì hết cho mọi người về những vấn đề tôn giáo mà trao cho họ trọn vẹn tự do, một ông hoàng khi đó thậm chí không nhận rằng mình là kẻ khoan dung, thì đó là một con người đã giác ngộ và đáng được thế giới và hậu thế biết ơn như là kẻ đầu tiên giải phóng nhân loại khỏi trạng thái không trưởng thành và để cho mọi con người tự do dùng trí năng của mình vào mọi vấn đề thuộc ý thức của họ. Dưới sự trị vì của ông hoàng đó, các chức sắc nhà thờ, bất kể chức vị nào, với tư cách là người có học, có thể tự do và công khai để cho mọi người đánh giá các nhận định và ý kiến của mình, kể cả khi nơi này nơi khác việc làm có chệch hướng so với giáo thuyết chính thống. Điều này lại càng áp dụng được mạnh hơn với mọi người không kể chức trách nào. Tư tưởng tự do này sẽ vượt xa hơn mảnh đất này, thậm chí đến cả những nơi nó phải đấu tranh chống lại những cản trở áp đặt bởi những chính phủ nào vẫn còn hiểu sai chức năng của họ. Vì chỉ thấy một cái mẫu là đủ để mở mắt cho các chính phủ kia thấy rằng tự do là có thật và là nguyên nhân của thanh bình, ổn định của cả cộng đồng. Con người sẽ tự mình dần dần thoát ra khỏi sự mông muội một khi những điều giả tạo cố tình không còn kìm giữ họ lại được trong vòng mông muội đó nữa.
Tôi lấy tiêu điểm là các vấn đề tôn giáo để nói về sự giác ngộ, tức là vấn đề con người thoát ra khỏi cảnh tự mình khư khư buộc mình trong tư thế kẻ không trưởng thành. Sở dĩ làm như vậy trước hết là vì các nhà cầm quyền của ta không chú ý đến việc giữ vai trò lính canh thần dân đối với những vấn đề hiện đang được khoa học và nghệ thuật quan tâm, và sau đó là vì sự không trưởng thành về tôn giáo là thứ nguy hiểm chết người và làm ô danh con người nhất hạng. Nhưng thái độ tư duy của người nguyên thủ quốc gia ủng hộ tự do cho nghệ thuật và khoa học còn mở rộng đi xa hơn nữa, vì ông ta thấy rằng chẳng có gì nguy hiểm ngay cả cho quyền hành của mình khi ông ta cho thần dân có quyền công khai sử dụng trí năng của họ để đưa ra trước quần chúng các tư tưởng của mình về những cung cách làm luật pháp tốt hơn, ngay cả khi đó sẽ có những lời phê phán trực diện đối với luật pháp hiện thời. Trước mặt chúng ta là một mẫu mực về chuyện đó, chuyện không một nhà cầm quyền chuyên chế nào có thể vượt xa hơn đấng quân vương chúng ta đang trọng vọng.
Nhưng chỉ khi nào một người cầm quyền tự mình đã giác ngộ và chẳng sợ gì ma quỉ và trong tay vẫn có vô vàn quân sĩ nghiêm minh để bảo đảm an ninh công cộng, chỉ người đó mới có khả năng cất lời nói rằng: Hãy lý sự bao nhiêu tuỳ thích và lý sự mọi điều tuỳ ý, nhưng hãy phục tòng! Không một nền cộng hoà nào dám cả gan nói năng như vậy. Điều này cho chúng ta thấy một cái mẫu kỳ quặc và bất ngờ về những xu thế trong mọi việc của con người mà nhìn rộng ra ta chỉ có thể nói đó là những gì thật nghịch lý. Một trình độ tự do cao hơn cho mọi công dân có lợi cho tự do tư tưởng của mọi con người mặc dù vẫn có những rào cản không ai vượt nổi. Ngược lại, một trình độ tự do thấp cũng vẫn đem lại cho từng đầu óc cá nhân mở rộng hết cỡ khả năng của từng người. Và một khi cái mầm mang tính bản chất người này vẫn nảy nở bên trong cái vỏ cứng, thì nó vẫn dần dần tác động lên tính cách tư duy của mọi người, rồi sau đó dần dần đủ sức sử dụng cái tự do của họ. Cuối cùng, điều đó tác động lên các nguyên tắc cai trị, chính quyền sẽ thấy ở đó mối lợi khi cư xử với con người theo cung cách phù hợp với tư cách người, không phải cỗ máy.
Thành phố Königsberg, nước Phổ, 30 tháng 9 năm 1874.
Trả lời câu hỏi: Khai Sáng là gì?
(Bản dịch của Phạm Minh Ngọc)
Lời người dịch: Tôi đã đọc các bản dịch bài What is Enlightenment? và thấy rằng những bản dịch đó giảng được ý của Kant. Nhưng chả lẽ Kant lại viết như vậy sao? Nếu viết như vậy thì ông không thể dành được sự ngưỡng mộ và phong trào Khai Sáng cũng không thể có sức cuốn hút tạo ra bước ngoặt trong lịch sử châu Âu. Tôi tin rằng bài báo đó phải có hơi hướng của một bản hiệu triệu, nó phải như một nhát búa đập vào đầu cả đám dân chúng cả tin, cả những nhà cầm quyền chỉ nhăm nhăm cầm tay chỉ việc cho dân chúng. Và quả đúng như thế. Xin hãy đọc: "Enlightenment is man's emergence from his self-incurred immaturity." "Emergence" không thể là lối thoát hay là sự thoát li; "immaturity self-incurred" cũng không phải là trạng thái vị thành niên tự ấn định hay trạng thái tự phụ thuộc. Viết thế thì kêu gọi được ai? Sức cuốn hút ở đâu? Âm của từ "emergence" nghe đã vang rồi, tôi không biết tiếng Đức nhưng chắc rằng khi đọc to lên bằng tiếng Đức thì cũng sẽ có cảm giác như thế, nó gợi cho ta một hành động quyết liệt, đột ngột. Và thế là "Enlightenment is man's emergence from his self-incurred immaturity" nên được dịch sang tiếng Việt như sau: "Khai sáng là sự vùng thoát của con người khỏi tình trạng lệ thuộc mà anh ta đã tự cột mình vào." Sau khi dịch câu đầu tiên như thế, tôi tiếp tục làm việc gần suốt một đêm và đã hoàn thành bản dịch này.
21 tháng 2 năm 2004
Phạm Minh Ngọc.
Khai sáng là sự vùng thoát của con người khỏi tình trạng lệ thuộc mà anh ta đã tự cột mình vào. Tình trạng lệ thuộc là khi người ta không có khả năng sử dụng được trí tuệ của mình nếu không có sự giám hộ của kẻ khác. Tình trạng lệ thuộc tự cột là khi người ta có trí tuệ nhưng không đủ quyết tâm và dũng khí để sử dụng nó nếu không có sự giám hộ của kẻ khác. Vì vậy khẩu hiệu của khai sáng chính là: Tri thức là sức mạnh! Hãy dũng cảm sử dụng trí tuệ của chính mình!
Lười biếng và hèn nhát là nguyên nhân khiến cho nhiều người, ngay cả khi tự nhiên đã giải phóng họ khỏi giai đọan cầm tay chỉ việc đáng ghét [1] , vẫn lấy làm sung sướng được làm trẻ con suốt đời. Cũng vì lí do đó mà nhiều kẻ mới trở thành người bảo hộ một cách dễ dàng đến thế. Đóng vai con trẻ mới dễ chịu làm sao! Nếu tôi có một cuốn sách chứa giùm tri thức cho tôi, nếu tôi có một cố vấn giữ giùm lương tri cho tôi, nếu tôi có một bác sĩ coi giùm chế độ dinh dưỡng cho tôi vv và vv. thì tôi sẽ chẳng phải cố gắng một chút nào hết. Tôi không cần suy nghĩ gì hết, cứ có tiền là xong, người khác sẽ làm tất cả những việc chán ngấy ấy thay tôi.
Những người giám hộ một khi tự nguyện giành lấy công việc giám sát sẽ mau chóng nhận ra rằng đa số nhân loại (bao gồm toàn bộ phái đẹp) đều coi việc thành nhân không những là một việc khó mà còn nguy hiểm nữa. Trước tiên họ làm cho những con vật đã được thuần hoá mụ mị đi, rồi cố gắng ngăn chặn không cho những con vật ngoan ngoãn đó thử làm một bước đầu tiên mà không có dây xỏ mũi, sau đó họ mới chỉ cho chúng thấy những hiểm nguy nếu chúng có ý định đi một mình. Bây giờ mối hiểm nguy thực ra là không lớn đến thế, chắc chắn cuối cùng chúng sẽ học đi được sau vài lần vấp ngã. Nhưng chỉ cần một lần như vậy cũng đủ khiếp rồi, thường thì chúng không dám thử thêm nữa.
Một cá nhân riêng lẻ thật khó thoát được tình trạng ấu trĩ đó, nó đã gần như là bản năng thứ hai của anh ta. Anh ta lại còn yêu nó nữa, anh ta thực sự không có khả năng sử dụng trí tuệ của mình bởi vì anh ta có được thử bao giờ đâu. Các giáo điều, các công thức, những công cụ vô hồn được đem ra sử dụng (hay thường là sử dụng sai) để hợp lí hóa tài năng thiên bẩm của anh ta chính là gông xiềng trói chặt anh ta vào tình trạng lệ thuộc. Nếu có một người nào đó vất bỏ được gông xiềng đi thì anh ta cũng còn lưỡng lự không dám nhảy lên dù con hào thật hẹp vì anh ta đã quen đi đứng tự do bao giờ đâu. Vì vậy chỉ có một ít người, bằng cách rèn luyện tinh thần là có thể tự giải phóng khỏi tình trạng lệ thuộc, táo bạo dấn bước trên con đường mà mình đã chọn.
Một cộng đồng dễ dàng khai sáng cho chính mình hơn. Điều đó gần như chắc chắn sẽ đến nếu cộng đồng đó được để cho tự do. Vì trong cộng đồng đó nhất định có một số người, kể cả trong số những người được chỉ định làm giám hộ cho đám đông dân chúng, tự suy nghĩ bằng cái đầu của mình. Những người này, sau khi vứt bỏ được gông xiềng lệ thuộc, sẽ cổ suý tinh thần tôn trọng các giá trị cá nhân và nhiệm vụ của mọi người là phải tự suy nghĩ lấy. Điều đáng nói là nếu cộng đồng, trước đó được đặt dưới gông xiềng của những kẻ giám hộ, bị những kẻ này, những kẻ chưa được khai sáng, khuấy động thì hậu quả có thể là chính những kẻ đã từng bảo hộ người khác nay lại rơi vào tình trạng bị kìm kẹp. Việc tuyên truyền các thành kiến vì thế rất có hại bởi vì cuối cùng chúng sẽ đập lên lưng chính những kẻ đã ủng hộ các thành kiến đó (hoặc những kẻ trước đó nữa đã từng làm như thế). Cộng đồng vì vậy chỉ có thể được khai sáng một cách từ từ. Một cuộc cách mạng cùng lắm chỉ có thể lật đổ được một chế độ độc tài, tham tàn, áp bức, nhưng không bao giờ tạo ra được một cuộc cải tổ thật sự trong tư duy. Những thành kiến mới, giống như những thành kiến mà chúng vừa thế chỗ, sẽ trở thành sợi dây điều khiển đám đông quần chúng nhẹ dạ.
Để có thể khai sáng một cộng đồng, điều cần thiết duy nhất là tự do. Và quyền tự do chất vấn là hình thức tự do vô hại nhất để một người trình bày công khai lí trí của mình về mọi lĩnh vực. Nhưng tôi đang nghe thấy tiếng gào thét vang lên từ mọi phía: Không được cãi! Ông sĩ quan: Không được cãi, ra thao trường! Ông thuế vụ: Đừng cãi, trả tiền đi! Thày tu: Đừng tranh luận nữa, tin thế đi! (chỉ một người cầm quyền trên thế gian này nói: Tranh luận về bất cứ thứ gì và trong bao lâu cũng được, miễn là biết vâng lời! [2] ). Thế có nghĩa là ở đâu tự do cũng bị cản trở.
Nhưng loại cản trở nào thì kìm hãm khai sáng, loại nào thì, thay vì ngăn chặn, lại thúc đẩy khai sáng? Tôi xin trả lời: khía cạnh công cộng của lí trí cá nhân phải luôn luôn được tự do, chỉ một mình nó có thể đem khai sáng đến cho dân chúng; khía cạnh riêng tư của lí trí cá nhân có thể bị giới hạn một cách chặt chẽ mà không gây cản ngại đáng kể đến tiến trình khai sáng. Tôi hiểu khía cạnh công cộng của lí trí là khi một người với tư cách là một nhà nghiên cứu gửi trước tác đến toàn thể độc giả. Còn khái niệm khía cạnh riêng tư là khi một người sử dụng lí trí trong những chức vụ cụ thể hay tại công sở mà người đó được giao phó. Đối với một số công việc có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của toàn thể cộng đồng, chúng ta phải có một cơ chế mà một số thành viên phải thực hiện một cách thụ động với một sự nhất trí nhân tạo sao cho chính quyền có thể thuê họ vì mục đích chung (hay ít nhất cũng ngăn họ phá hoại các mục đích ấy). Dĩ nhiên không được tranh luận trong những trường hợp đó, tuân thủ là bắt buộc. Nhưng nếu một người thực thi nhiệm vụ của bộ máy lại coi mình là thành viên của cộng đồng hay ngay cả của toàn nhân lọai và như một nhà nghiên cứu thì người đó có thể gửi trước tác đến công chúng trong nghĩa đúng đắn nhất của từ này, anh ta có thể tranh luận mà không gây phương hại đến công việc mà anh ta được thuê làm trong vai trò thụ động một thời gian nào đó. Sẽ thật là tai hại nếu một sĩ quan khi nhận lệnh của thượng cấp lại công khai chỉ trích về tính hữu lí hay lợi ích của mệnh lệnh đó. Anh ta chỉ việc tuân lệnh. Nhưng anh ta không thể bị cấm quan sát các sai lầm trong khi thực thi nhiệm vụ quân sự như một nhà nghiên cứu và đưa ra cho công chúng phán xét. Một công dân không được trốn thuế đã được bổ, một người được gọi đi đóng thuế mà có hành vi chỉ trích thái quá mức thuế cũng có thể bị phạt vì sự xúc phạm như vậy có thể gây ra làn sóng bất tuân rộng khắp. Nhưng người đó không hề vi phạm nghĩa vụ công dân nếu anh ta, với tư cách một học giả, đưa ra công khai suy nghĩ của mình về những sai sót, thậm chí bất công của mức thuế này. Tương tự như vậy, một thày tu phải có trách nhiệm hướng dẫn cho giáo sinh và giáo đoàn theo đúng tinh thần giáo lí của nhà thờ mà ông phục vụ vì ông ta được thuê để làm việc đó. Nhưng như một học giả, ông ta hoàn toàn tự do cũng như có trách nhiệm phải phổ biến cho công chúng biết những suy nghĩ chân thành và sâu sắc của mình về những sai lầm của giáo lí và đề đạt các biện pháp ngõ hầu cải thiện giáo lí và giáo hội. Ở đây lương tâm không có gì phải vướng bận. Thày tu đó rao giảng, theo đúng chức trách của một người đại diện cho nhà thờ mà ông phục vụ, những điều không phải do tự ý ông quyết định mà là những điều ông được thuê để thay mặt một người nào đó rao giảng theo những phương pháp đã được quy định trước. Ông sẽ noí: Nhà thờ của chúng ta dạy điều này, điều này và đây là những bằng chứng được sử dụng. Sau đó ông cung cấp cho giáo đoàn các giá trị thực tế rút ta từ những tín điều mà chính ông sẽ không tuân thủ trọn vẹn nhưng ông có thể không nói ra bởi vì nó không hoàn toàn phi lí, nó có thể chứa đựng sự thật. Dù sao những điều được trình bày trong các tín điều cũng không mâu thuẫn với tín ngưỡng. Bởi vì nếu thày tu đó nghĩ rằng mình đã phát hiện ra một mâu thuẫn nào đó thì ông không thể thực hiện trách nhiệm một cách tự tin, ông sẽ phải từ chức.
Như vậy, một người, khi được thuê như một thày giáo, sử dụng lí trí của mình một cách riêng tư vì giáo đoàn, dù có đông tới đâu, cũng chỉ là một tập hợp có tính chất gia đình. Trong trường hợp này người tu sĩ không được tự do bởi vì ông đang thực hiện nhiệm vụ do người khác giao phó. Ngược lại, người tu sĩ, như một học giả đưa ra công chúng (thí dụ toàn thế giới) các tác phẩm của mình, đang sử dụng khía cạnh công cộng của lí trí, được hoàn toàn tự do sử dụng trí tuệ của mình và phát biểu nhân danh cá nhân mình. Để giữ được như thế thì những người giám hộ nhân dân trong lĩnh vực tinh thần phải là những người lệ thuộc, một sự phi lí cốt để làm cho những điều phi lí thành ra thường trực.
Một tập thể giáo sĩ thí dụ cộng đồng tôn giáo hay trưởng lão (người Hà Lan gọi như thế) có được quyền tự tuyên thệ cam kết với một tập hợp các tín điều bất di bất dịch để thực thi vĩnh viễn quyền giám hộ đối với các thành viên của họ và thông qua họ giám hộ toàn dân không? Tôi trả lời là hoàn toàn không. Một thoả ước được kí kết nhằm chặn đứng vĩnh viễn sự khai sáng của nhân loại là hoàn toàn vô gía trị dù nó có được một quyền lực tối thượng, Nghị Viện Hoàng Gia hay các hiệp ước hoà bình long trọng nhất phê chuẩn. Một thời đại không được tuyên thệ câu kết với nhau để buộc thời đại sau vào hoàn cảnh không thể mở mang và đổi mới tri thức, đặc biệt là đối với những vấn đề quan trọng hoặc là không thể thực hiện được tiến bộ nào trong quá trình khai sáng. Đấy sẽ là tội ác chống lại bản tính của loài người, thiên chức của loài người chính là sự tiến bộ. Các thế hệ sau có quyền bác bỏ những thỏa thuận phi pháp và tội lỗi đó.
Để kiểm tra xem một biện pháp nào đó có thể được thoả thuận như là luật đối với dân chúng hay không chúng ta chỉ cần hỏi là liệu dân chúng có đồng ý áp dụng luật đó cho mình hay không. Cách đó cũng có thể được sử dụng khi đưa ra một số điều luật tạm thời cho một khoảng thời gian nào đó trước khi tìm được giải pháp tốt hơn. Điều đó cũng có nghĩa là các công dân, đặc biệt là các giáo sĩ, với tư cách học giả được tự do góp ý công khai, thí dụ bằng văn bản, về những điều chưa hoàn thiện của các định chế hiện hành. Trong thời gian này trật tự vừa được thiết lập vẫn tiếp tục tồn tại cho đến khi nhận thức của công chúng về những vấn đề đó đã tiến bộ và được đa số (nếu chưa được toàn thể) đồng ý trình lên đức vua đề nghị mới. Điều đó nhằm bảo vệ, thí dụ, các giáo đoàn muốn thay đổi các định chế tôn giáo trên cơ sở nhận thức của họ, đồng thời cũng không cản trở những người muốn giữ nguyên trật tự cũ.
Nhưng tuyệt đối không được cùng nhau thiết lập, dù chỉ cho giai đoạn là một đời người, một định chế tôn giáo bất di bất dịch, không ai được quyền phê phán công khai. Vì điều đó gần như sẽ triệt tiêu một giai đoạn phát triển của loài người, đẩy những thất bại của nó cho các thế hệ sau, thậm chí có ảnh hưởng tai hại đến những thế hệ sau. Một người, vì lí do cá nhân, có thể tạm hoãn, ngay cả trong trường hợp này thì cũng chỉ trong một giai đoạn giới hạn nhất định, tự khai sáng về những vấn đề mà anh ta cần phải biết. Nhưng triệt tiêu hoàn toàn sự khai sáng, dù là đối một cá nhân, hơn nữa lại là đối với những thế hệ đi sau, đồng nghĩa với việc vi phạm và chà đạp lên những quyền thiêng liêng của nhân loại.
Điều mà nhân dân không chịu áp dụng cho mình thì nhà vua lại càng không được áp đặt cho họ bởi vì quyền lập pháp của ngài phụ thuộc vào khả năng thống nhất ý chí của dân chúng dưới quyền ngài. Khi nhà vua thấy rằng tình hình vẫn tốt hoặc những cải tiến được dự liệu phù hợp với trật tự công cộng thì ngài có thể để cho các thần dân làm những điều mà họ cho là cần thiết cho việc cứu rỗi của họ, đấy không phải việc của ngài. Việc của ngài là ngăn chặn những kẻ cản trở bằng vũ lực những người khác trong khi họ nỗ lực hết mình xác định và vươn tới sự cứu rỗi. Sự tôn kính của ngài sẽ bị suy giảm nếu ngài can thiệp vào những việc như đặt các trước tác, trong đó các thần dân của ngài bày tỏ đức tin của mình, dưới sự kiểm soát của nhà nước. Sự tôn kính của ngài cũng sẽ suy giảm nếu ngài coi ý kiến của mình là tối thượng, trong trường hợp này ngài đã tự đặt mình dưới câu châm ngôn: Ceasar không cao hơn các văn hào (Ceasar non est supra grammaticos), còn tệ hơn nữa nếu ngài sử dụng quyền lực của mình để tiếp tay cho sự áp bức về tư tưởng của một số ít kẻ bạo ngược trong vương quốc của ngài chống lại những thần dân khác của ngài.
Bây giờ nếu có người hỏi chúng ta hiện đã sống trong thời đại được khai sáng chưa thì câu trả lời sẽ là: chưa, nhưng chúng ta đang sống trong thời đại của sự khai sáng. Cứ như hiện tình thì chúng ta còn phải đi một đoạn đường dài trước khi toàn thể loài người đạt đến hoàn cảnh (hay được đặt vào hoàn cảnh) có thể sử dụng trí tuệ của mình một cách tự tin kể cả trong những vấn đề tôn giáo mà không cần bất cứ sự giám hộ nào từ bên ngoài. Nhưng chúng ta đã có những chỉ dấu rõ ràng là con đường đã được vạch rõ, có thể tự do tiến theo hướng đó, những cản trở trên con đường đưa đến sự khai sáng toàn diện, đến sự vùng thoát của con người khỏi sự lệ thuộc mà anh ta tự cột mình vào, sẽ ngày một ít dần đi. Trong ý nghĩa đó, thời đại của chúng ta là thời đại của khai sáng, thế kỉ của Frederick.
Một ông vua không cảm thấy ngại ngùng khi nói rằng bổn phận của mình, trong những vấn đề tôn giáo, là không áp đặt bất kì điều gì đối với dân chúng mà cho họ hoàn toàn tự do, một ông vua như thế, dù có từ chối danh hiệu là Người Bao Dung, cũng vẫn là một người đã tự khai sáng rồi. Ngài xứng đáng được hôm nay và hậu thế ngợi ca như là người đầu tiên giải phóng nhân loại khỏi sự lệ thuộc (đây là nói về chính phủ) và người đầu tiên cho mọi người sử dụng lí trí của chính họ trong tất cả những vấn đề thuộc về lương tâm. Luật của ngài là các vị linh mục đáng kính, dù không phải là nhiệm vụ chính thức, có thể, như một học giả được tự do và công khai đưa ra những ý kiến và nhận định của mình cho công luận phán xét, ngay cả khi những ý kiến và nhận định đó trái ngược với giáo lí chính thống. Điều đó còn được áp dụng rộng rãi hơn cho những người khác, những người không bị hạn chế bởi bất kì nhiệm vụ chính thức nào. Tinh thần tự do đó sẽ lan ra ngoại quốc, đến cả những nơi mà nó còn phải đấu tranh với những trở lực do những chính phủ chưa hiểu đúng chức năng của mình tạo ra. Đối với những chính phủ đó, thí dụ dưới đây sẽ cho họ thấy là tự do có thể tồn tại mà không ảnh hưởng đến hoà hợp dân tộc và sự nhất trí về quyền lợi chung. Con người sẽ tự nguyện thoát dần ra khỏi tình trạng bán khai nếu không có các chính sách được đề ra một cách cố ý nhằm níu giữ họ trong tình trạng đó.
Tôi đã mô tả những vấn đề tôn giáo như là tâm điểm của khai sáng hay là sự vùng thoát của con người khỏi tình trạng lệ thuộc mà anh ta đã tự cột mình vào.Tôi làm như vậy vì, thứ nhất, các nhà cầm quyền không quan tâm đến việc áp đặt vai trò giám hộ lên các thần dân trong những lĩnh vực như khoa học và nghệ thuật, thứ hai, lệ thuộc tôn giáo là lệ thuộc nguy hại và nhục nhã nhất. Tuy vậy quan niệm của vị nguyên thủ quốc gia, người khuyến khích tự do trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật có thể mở rộng sang cả các lĩnh vực khác vì ngài sẽ nhận ra rằng không hề có mối đe doạ nào đối với luật pháp của ngài khi cho các thần dân của mình công khai sử dụng lí trí và trình bày quan niệm của họ về việc cải tiến trình tự lập pháp cho dù việc đó có thể dẫn tới những chỉ trích thẳng thừng pháp luật hiện hành. Chúng ta đã có trước mặt mình một người tuyệt vời như thế, chưa có ông vua nào vượt qua ông, một người mà nay chúng ta tỏ lòng ngưỡng mộ [3] .
Nhưng chỉ có người cầm quyền đã tự khai sáng và không sợ bóng tối, một người có một đội quân đông đảo và có kỉ luật để đảm bảo trật tự công cộng mới có thể nói điều mà không một nước cộng hoà nào dám nói: Tranh luận về bất cứ thứ gì và trong bao lâu cũng được, miễn là biết vâng lời! Điều này cho chúng ta thấy hình mẫu hành động kì quặc và bất ngờ của con người (chúng ta sẽ luôn luôn thấy như thế nếu xem xét hành động theo nghĩa rộng rãi nhất, trong đó hầu như mọi thứ đều là nghịch lí). Mức độ tự do công dân cao có vẻ như là một lợi thế cho tự do tư tưởng, đồng thời lại tạo cho nó những rào cản không thể vượt qua được. Ngược lại một mức độ thấp về quyền tự do công dân lại có thể mang đến cho tri thức một không gian tự do đủ để có thể phát triển đến giới hạn tột cùng của nó [4] .
Vậy là, khi cái hạt mầm mà tự nhiên chăm chút kĩ lưỡng nhất trong con người, đấy là thiên hướng và khả năng tư duy tự do, đã phát triển trong cái vỏ cứng của nó dần dần ảnh hưởng lên trí lực của dân chúng làm cho họ hành động càng ngày càng tự do hơn. Cuối cùng nó sẽ ảnh hưởng đến cả các nguyên tắc của chính phủ, lúc này đã nhận thức được rằng sẽ được lợi nếu đối xử với dân chúng phù hợp với phẩm giá của họ chứ không phải như những cỗ máy.
Thành phố Königsberg, nước Phổ, 30 tháng 9 năm 1874
[1] Ngụ ý giai đoạn vị thành niên về mặt thể chất.
[2] Đây là lời của hoàng đế Frederick sẽ được nhắc tới trong đoạn sau.
[3] Ngụ ý hoàng đế Frederick.
[4] Cả đoạn này ám chỉ việc nước Phổ có vua và quân đội mạnh, nhưng nhà vua lại cho phép tự do ngôn luận trong khi các nước cộng hoà khác thì không (mọi thứ đều là nghịch lí).
Bản tiếng Anh: Answering the Question: What is Enlightenment?
(Immanuel Kant, 1784)
Enlightenment is man's release from his self-incurred tutelage. Tutelage s man's inability to make use of his understanding without direction from another. Self-incurred is this tutelage when its cause lies not in lack of reason but in lack of resolution and courage to use it without direction from another. Sapere aude! "Have courage to use your own reason!"- that is the motto of enlightenment.
Laziness and cowardice are the reasons why so great a portion of mankind, after nature has long since discharged them from external direction (naturaliter maiorennes), nevertheless remains under lifelong tutelage, and why it is so easy for others to set themselves up as their guardians. It is so easy not to be of age. If I have a book which understands for me, a pastor who has a conscience for me, a physician who decides my diet, and so forth, I need not trouble myself. I need not think, if I can only pay - others will easily undertake the irksome work for me.
That the step to competence is held to be very dangerous by the far greater portion of mankind (and by the entire fair sex) - quite apart from its being arduous is seen to by those guardians who have so kindly assumed superintendence over them. After the guardians have first made their domestic cattle dumb and have made sure that these placid creatures will not dare take a single step without the harness of the cart to which they are tethered, the guardians then show them the danger which threatens if they try to go alone. Actually, however, this danger is not so great, for by falling a few times they would finally learn to walk alone. But an example of this failure makes them timid and ordinarily frightens them away from all further trials.
For any single individua1 to work himself out of the life under tutelage which has become almost his nature is very difficult. He has come to be fond of his state, and he is for the present really incapable of making use of his reason, for no one has ever let him try it out. Statutes and formulas, those mechanical tools of the rational employment or rather misemployment of his natural gifts, are the fetters of an everlasting tutelage. Whoever throws them off makes only an uncertain leap over the narrowest ditch because he is not accustomed to that kind of free motion. Therefore, there are few who have succeeded by their own exercise of mind both in freeing themselves from incompetence and in achieving a steady pace.
But that the public should enlighten itself is more possible; indeed, if only freedom is granted enlightenment is almost sure to follow. For there will always be some independent thinkers, even among the established guardians of the great masses, who, after throwing off the yoke of tutelage from their own shoulders, will disseminate the spirit of the rational appreciation of both their own worth and every man's vocation for thinking for himself. But be it noted that the public, which has first been brought under this yoke by their guardians, forces the guardians themselves to renain bound when it is incited to do so by some of the guardians who are themselves capable of some enlightenment - so harmful is it to implant prejudices, for they later take vengeance on their cultivators or on their descendants. Thus the public can only slowly attain enlightenment. Perhaps a fall of personal despotism or of avaricious or tyrannical oppression may be accomplished by revolution, but never a true reform in ways of thinking. Farther, new prejudices will serve as well as old ones to harness the great unthinking masses.
For this enlightenment, however, nothing is required but freedom, and indeed the most harmless among all the things to which this term can properly be applied. It is the freedom to make public use of one's reason at every point. But I hear on all sides, "Do not argue!" The Officer says: "Do not argue but drill!" The tax collector: "Do not argue but pay!" The cleric: "Do not argue but believe!" Only one prince in the world says, "Argue as much as you will, and about what you will, but obey!" Everywhere there is restriction on freedom.
Which restriction is an obstacle to enlightenment, and which is not an obstacle but a promoter of it? I answer: The public use of one's reason must always be free, and it alone can bring about enlightenment among men. The private use of reason, on the other hand, may often be very narrowly restricted without particularly hindering the progress of enlightenment. By the public use of one's reason I understand the use which a person makes of it as a scholar before the reading public. Private use I call that which one may make of it in a particular civil post or office which is entrusted to him. Many affairs which are conducted in the interest of the community require a certain mechanism through which some members of the community must passively conduct themselves with an artificial unanimity, so that the government may direct them to public ends, or at least prevent them from destroying those ends. Here argument is certainly not allowed - one must obey. But so far as a part of the mechanism regards himself at the same time as a member of the whole community or of a society of world citizens, and thus in the role of a scholar who addresses the public (in the proper sense of the word) through his writings, he certainly can argue without hurting the affairs for which he is in part responsible as a passive member. Thus it would be ruinous for an officer in service to debate about the suitability or utility of a command given to him by his superior; he must obey. But the right to make remarks on errors in the military service and to lay them before the public for judgment cannot equitably be refused him as a scholar. The citizen cannot refuse to pay the taxes imposed on him; indeed, an impudent complaint at those levied on him can be punished as a scandal (as it could occasion general refractoriness). But the same person nevertheless does not act contrary to his duty as a citizen, when, as a scholar, he publicly expresses his thoughts on the inappropriateness or even the injustices of these levies, Similarly a clergyman is obligated to make his sermon to his pupils in catechism and his congregation conform to the symbol of the church which he serves, for he has been accepted on this condition. But as a scholar he has complete freedom, even the calling, to communicate to the public all his carefully tested and well meaning thoughts on that which is erroneous in the symbol and to make suggestions for the better organization of the religious body and church. In doing this there is nothing that could be laid as a burden on his conscience. For what he teaches as a consequence of his office as a representative of the church, this he considers something about which he has not freedom to teach according to his own lights; it is something which he is appointed to propound at the dictation of and in the name of another. He will say, "Our church teaches this or that; those are the proofs which it adduces." He thus extracts all practical uses for his congregation from statutes to which he himself would not subscribe with full conviction but to the enunciation of which he can very well pledge himself because it is not impossible that truth lies hidden in them, and, in any case, there is at least nothing in them contradictory to inner religion. For if he believed he had found such in them, he could not conscientiously discharge the duties of his office; he would have to give it up. The use, therefore, which an appointed teacher makes of his reason before his congregation is merely private, because this congregation is only a domestic one (even if it be a large gathering); with respect to it, as a priest, he is not free, nor can he be free, because he carries out the orders of another. But as a scholar, whose writings speak to his public, the world, the clergyman in the public use of his reason enjoys an unlimited freedom to use his own reason to speak in his own person. That the guardian of the people (in spiritual things) should themselves be incompetent is an absurdity which amounts to the eternalization of absurdities.
But would not a society of clergymen, perhaps a church conference or a venerable classis (as they call themselves among the Dutch) , be justified in obligating itself by oath to a certain unchangeable symbol inorder to enjoy an unceasing guardianship over each of its numbers and thereby over the people as a whole , and even to make it eternal? I answer that this is altogether impossible. Such contract, made to shut off all further enlightenment from the human race, is absolutely null and void even if confirmed by the supreme power , by parliaments, and by the most ceremonious of peace treaties. An age cannot bind itself and ordain to put the succeeding one into such a condition that it cannot extend its (at best very occasional) knowledge , purify itself of errors, and progress in general enlightenment. That would be a crime against human nature, the proper destination of which lies precisely in this progress and the descendants would be fully justified in rejecting those decrees as having been made in an unwarranted and malicious manner.
The touchstone of everything that can be concluded as a law for a people lies in the question whether the people could have imposed such a law on itself. Now such religious compact might be possible for a short and definitely limited time, as it were, in expectation of a better. One might let every citizen, and especially the clergyman, in the role of scholar, make his comments freely and publicly, i.e. through writing, on the erroneous aspects of the present institution. The newly introduced order might last until insight into the nature of these things had become so general and widely approved that through uniting their voices (even if not unanimously) they could bring a proposal to the throne to take those congregations under protection which had united into a changed religious organization according to their better ideas, without, however hindering others who wish to remain in the order. But to unite in a permanent religious institution which is not to be subject to doubt before the public even in the lifetime of one man, and thereby to make a period of time fruitless in the progress of mankind toward improvement, thus working to the disadvantage of posterity - that is absolutely forbidden. For himself (and only for a short time) a man may postpone enlightenment in what he ought to know, but to renounce it for posterity is to injure and trample on the rights of mankind. And what a people may not decree for itself can even less be decreed for them by a monarch, for his lawgiving authority rests on his uniting the general public will in his own. If he only sees to it that all true or alleged improvement stands together with civil order, he can leave it to his subjects to do what they find necessary for their spiritual welfare. This is not his concern, though it is incumbent on him to prevent one of them from violently hindering another in determining and promoting this welfare to the best of his ability. To meddle in these matters lowers his own majesty, since by the writings in which his own subjects seek to present their views he may evaluate his own governance. He can do this when, with deepest understanding, he lays upon himself the reproach, Caesar non est supra grammaticos. Far more does he injure his own majesty when he degrades his supreme power by supporting the ecclesiastical despotism of some tyrants in his state over his other subjects.
If we are asked , "Do we now live in an enlightened age?" the answer is, "No ," but we do live in an age of enlightenment. As things now stand, much is lacking which prevents men from being, or easily becoming, capable of correctly using their own reason in religious matters with assurance and free from outside direction. But on the other hand, we have clear indications that the field has now been opened wherein men may freely dea1 with these things and that the obstacles to general enlightenment or the release from self-imposed tutelage are gradually being reduced. In this respect, this is the age of enlightenment, or the century of Frederick.
A prince who does not find it unworthy of himself to say that he holds it to be his duty to prescribe nothing to men in religious matters but to give them complete freedom while renouncing the haughty name of tolerance, is himself enlightened and deserves to be esteemed by the grateful world and posterity as the first, at least from the side of government , who divested the human race of its tutelage and left each man free to make use of his reason in matters of conscience. Under him venerable ecclesiastics are allowed, in the role of scholar, and without infringing on their official duties, freely to submit for public testing their judgments and views which here and there diverge from the established symbol. And an even greater freedom is enjoyed by those who are restricted by no official duties. This spirit of freedom spreads beyond this land, even to those in which it must struggle with external obstacles erected by a government which misunderstands its own interest. For an example gives evidence to such a government that in freedom there is not the least cause for concern about public peace and the stability of the community. Men work themselves gradually out of barbarity if only intentional artifices are not made to hold them in it.
I have placed the main point of enlightenment - the escape of men from their self-incurred tutelage - chiefly in matters of religion because our rulers have no interest in playing guardian with respect to the arts and sciences and also because religious incompetence is not only the most harmful but also the most degrading of all. But the manner of thinking of the head of a state who favors religious enlightenment goes further, and he sees that there is no danger to his lawgiving in allowing his subjects to make public use of their reason and to publish their thoughts on a better formulation of his legislation and even their open-minded criticisms of the laws already made. Of this we have a shining example wherein no monarch is superior to him we honor.
But only one who is himself enlightened, is not afraid of shadows, and has a numerous and well-disciplined army to assure public peace, can say: "Argue as much as you will , and about what you will , only obey!" A republic could not dare say such a thing. Here is shown a strange and unexpected trend in human affairs in which almost everything, looked at in the large , is paradoxical. A greater degree of civil freedom appears advantageous to the freedom of mind of the people, and yet it places inescapable limitations upon it. A lower degree of civil freedom, on the contrary, provides the mind with room for each man to extend himself to his full capacity. As nature has uncovered from under this hard shell the seed for which she most tenderly cares - the propensity and vocation to free thinking - this gradually works back upon the character of the people, who thereby gradually become capable of managing freedom; finally, it affects the principles of government, which finds it to its advantage to treat men, who are now more than machines, in accordance with their dignity.
Phần A: Một số Danh ngôn hay được nhắc đến
Khổng Tử(551-479 TCN):
- “Hiếu thảo là nguồn gốc của đạo đức.”
- “Người không có chữ tín sẽ chẳng làm nên việc gì.”
- “Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác. Đối với quê hương, gia đình nên tránh gây thù, chuốc oán.”
- “Dùng thì đừng nghi, nghi thì đừng dùng.”
- “Đừng lo mình không có chức vị, chỉ lo mình không đủ tài để nhận lấy chức vị.”
- “Ngồi bàn tiệc đừng ra vẻ anh hùng vì rượu đã làm cho nhiều người gục ngã.”
P. Terentius(Terence, 195/185-159 TCN): “Tôi là một con người nên không có gì liên quan đến con người lại xa lạ với tôi”, (“I am a man, I consider nothing that is human alien to me.”
Abraham Lincoln:“Người ta chỉ có thể lừa bịp được vài người trong mọi lúc, lừa được mọi người trong vài lúc, nhưng không thể lừa được mọi người trong mọi lúc!”
B. Napoléon:
- “Khi thắng trận ta uống Champange để mừng chiến thắng. Khi bại trận ta càng cần phải uống Champange để giải sầu.”
- “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt.”
UNESCO:“Học để biết, học để làm việc, học để chung sống với nhau và học để làm người.” (”Learning to know, Learning to work, Learning to live together and Learning to be”, nêu ra năm 1996.)
Edward Bulwer Lytton: “Tính hài hước là ánh mặt trời của tư duy.” (“Humor is the sunshine of the mind.”)
Phayvanghe:”Con người cần hai năm để học nói và cần sáu mươi năm để học được cách giữ gìn lời ăn tiếng nói.”
Ngạn ngữ Ả rập:“Nếu mỗi lần nghe chó sủa mà dừng lại thì không bao giờ anh đi được suốt chặng đường đời.”
Patrick Geddes: “Suy nghĩ phải toàn diện, hành động phải cụ thể” (“Think globally, act locally.”)
Wolfgang Göthe:“Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi.”
Louis Pasteur:“Khoa học không có tổ quốc nhưng nhà khoa học phải có một
tổ quốc.”
tổ quốc.”
Heinrich Heine:“Hôn nhân, đại dương sâu thẳm mà chưa ai phát minh ra la bàn”, (“Matrimony, the high sea for which no compass has yet been invented.”)
Ca dao:“Nhỏ thì nhờ mẹ nhờ cha, lớn lên nhờ vợ, về già nhờ con.”
Benjamin Franklin:
- “Có ba người bạn trung thành: một người vợ tấm cám, một con chó nuôi từ bé và một số tiền dự trữ”, (“There are three faithful friends: an old wife, an old dog, and ready money.”)
- “Đầu lưỡi tuy mềm nhưng có thể làm tổn thương người khác.”
Albert Einstein: “Ký ức dễ lừa gạt vì nó khoác màu những sự kiện của hôm nay”, (“Memory is deceptive because it is colored by today's events.”)
Rene Descartes: “Không gì được phân phối công bằng hơn lương tri: không ai nghĩ mình cần nhiền hơn những gì mình đã sẵn có”, (“Nothing is more fairly distributed than common sense: no one thinks he needs more of it than he already has.”)
G. Bernard Shaw:“Trí khôn là cái được phân bố đều khắp, vì chưa bao giờ thấy ai lo lắng về sự ngu dốt của mình.”
Thomas Edison: “Tôi chưa bao giờ vô tình làm điều gì, cũng như không phát minh nào của tôi đến từ sự vô tình; chúng đến từ lao động”, (“ I never did anything by accident, nor did any of my inventions come by accident; they came by work.")
A. P. Chekhov: “Cần có trí tuệ minh mẫn, đạo đức trong sáng và thân thể khỏe mạnh.”
La Fontaine: “Tình yêu thật sự đã hiếm, tình bạn thật sự còn hiếm hơn.”
Mahatma Gandhi: “Kẻ yếu không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của kẻ mạnh.”
Khuyết danh: “Hãy suy nghĩ tất cả những điều bạn nói. Nhưng đừng nói tất cả những điều bạn nghĩ!”
Difan: “Đàn ông khinh nhau trong học vấn, phụ nữ ghét nhau về sắc đẹp.”
J.J. Rousseau: “Đàn ông nói điều mình biết, phụ nữ nói điều mình thích.”
Ngạn ngữ Phương Tây: “Học vấn là tài sản vô hình của đàn ông, dung mạo là tài sản hữu hình của đàn bà.”
Thomas Fuller: “Nếu anh muốn có người vợ tốt, hãy lấy người đã từng là người con tốt.”
Victor Hugo: “Cái người đời thường thiếu là ý chí chứ không phải là sức mạnh.”
Aldous Huxley: “Sắc đẹp tệ hơn rượu, nó chuốc say cả người ngắm lẫn chủ nhân.”
William Shakespeare:
- “Một người kiêu ngạo luôn tiêu diệt mình trong kiêu ngạo.”
- “Đừng bao giờ đùa giỡn với cảm xúc của người khác, bởi vì bạn có thể giành chiến thắng, nhưng hậu quả là bạn chắc chắn sẽ mất đi người đó trong suốt cuộc đời của bạn.”
-“Đồng tiền luôn phát ra âm thanh. Nhưng tờ tiền thì luôn im lặng. Vì vậy, khi giá trị của bạn tăng lên, thì hãy luôn luôn giữ yên lặng.”
Mark Twain:
- “Từ chối giải thưởng là một cách khác để chấp nhận nó ồn ào hơn bình thường.”
- “Lòng tốt là thứ ngôn ngữ mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy.”
Elisa: “Sức hấp dẫn là sức mạnh của phụ nữ, nhưng sức mạnh mới là sức hấp dẫn của đàn ông.”
Phần B: Triết lý sống của Albert Einstein
- "Nếu bạn không thể giải thích cho đứa trẻ 6 tuổi hiểu được, thì chính bạn cũng không hiểu gì cả."
- "Sáng tạo có tính lây lan, hãy truyền nó đi!"
- "Cách duy nhất để tránh sai lầm là đừng có ý tưởng mới."
- "Bạn không bao giờ thất bại cho đến khi bạn ngừng nỗ lực."
- "Chỉ những ai nỗ lực hết mình mới có thể đạt được những điều tưởng chừng không thể."
- "Tôi chẳng khi nào nghĩ đến tương lai. Nó sẽ đến nhanh."
- "Tôi chưa bao giờ khám phá ra điều gì bằng cách tư duy hợp lý."
- "Tưởng tượng là dạng thức tối cao của nghiên cứu."
- "Tôi có khả năng để vẽ thoải mái như một hoạ sĩ chỉ nhờ vào trí tưởng tượng của mình. Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức. Kiến thức thì có giới hạn. Trí tưởng tượng bao trùm thế giới."
- "Từ cuộc sống thường ngày, chúng ta biết rằng sống - trước hết là cho những người xung quanh, cho những người luôn nở nụ cười và khiến ta hạnh phúc."
- "Cuộc đời sẽ chẳng đáng sống, trừ khi ta sống vì những người khác."
- "Học hỏi chính là kinh nghiệm. Những thứ khác chỉ là thông tin."
- "Luôn làm điều đúng. Việc này sẽ làm hài lòng một số người và làm những người còn lại ngạc nhiên."(Theo Doanh nhân Sài Gòn, đăng trên VNNet 27/5/2014)
- “Chính trị chỉ cho hiện tại, nhưng phương trình là mãi mãi/Politics is for the present, but an equation is for eternity.”
- “Học hỏi từ ngày hôm qua, sống cho hôm nay, hy vọng cho ngày mai/Learn from yesterday, live for today, hope for tomorrow.”
- “Tôi rất biết ơn tất cả những người đã nói không với tôi. Nhờ vậy mà tôi biết cách tự mình giải quyết sự việc.”
Phần C: 21 câu nói có thể góp phần thay đổi cuộc đời bạn
(Nguồn: Internet; xem, ví dụ:vietfounder.edu.vn/tin-tuchoặc hoithao.ayp.vn/22-cau-noi)
- Aesop: "Không có hành động tử tế nào, dù nhỏ, lại bị xem là lãng phí."
- Albert Schweitzer: "Kiên trì làm việc tốt sẽ mang lại nhiều thứ. Như mặt trời có thể làm tan băng, lòng tốt có thể làm bốc hơi sự hiểu lầm, hoài nghi và thù địch."
- Alexander Solshenitsen: "Càng nói ít, càng nghe được nhiều."
- Andrew Carnegie: "Khi trưởng thành, tôi ngày càng ít quan tâm đến những gì mọi người nói. Tôi chỉ xem những gì họ làm được."
- Aristotle: "Tình bạn là một tâm hồn trú ngụ trong hai cơ thể."
- Beatrice Vincent: "Những người làm việc cùng bạn phản ánh chính thái độ của bạn."
- Bill Gates:
- "Cuộc sống vốn không công bằng, hãy tập quen dần với điều đó!"
- "Nếu bạn sinh ra trong nghèo khó thì đó không phải lỗi của bạn, nhưng nếu bạn chết đi trong nghèo khó thì đó chính là lỗi của bạn” “If you born poor, it is not your mistake, but if you die poor, it is your mistake."
- Dale Carnegie: "Bạn có thể kết bạn được nhiều hơn trong vòng hai tháng bằng cách quan tâm đến người khác hơn là hai năm cố gắng bắt người khác quan tâm đến bạn."
- Doris M. Smith: "Tranh cãi với một kẻ ngốc sẽ chứng minh rằng có hai kẻ ngốc."
- L V CMadonna: "Rất nhiều người không dám nói lên những gì họ muốn. Đó là lý do họ không có được chúng."
- Henry J. Kaiser: "Tôi tiến bộ bằng cách ở cạnh những người tốt đẹp hơn mình và lắng nghe họ. Và tôi giả sử rằng mọi người đều tốt đẹp hơn tôi ở một mặt nào đó."
- Ralph Nichols: "Nhu cầu cơ bản nhất của con người là nhu cầu thấu hiểu và được thấu hiểu."
- Khi người khác hỏi những điều mà bạn không muốn trả lời, xin hãy cười và nói “tại sao bạn lại muốn biết điều đó?”
- Không ai cần đến một nụ cười nhiều như người không thể cho đi nụ cười.
- Thành công lớn nhất là đứng dậy sau mỗi lần bị vấp ngã.
- “Đừng quá khắt khe với chính mình. Thậm chí những sai lầm cũng có nghĩa là bạn đang cố gắng!”
- “Bất luận lúc nào khi nhấc điện thoại lên để nghe, xin bạn hãy cười lên, vì đối phương sẽ cảm nhận được nụ cười của bạn!”
- Lưỡi không xương nhưng đủ cứng để làm vỡ nát một trái tim… vì thế hãy cẩn thận với ngôn từ của bạn!
- “Đừng bao giờ cố giải thích về con người bạn với bất cứ ai. Vì những người tin bạn không cần điều đó còn những người không thích bạn sẽ không tin lời bạn đâu!”
- “Hãy ghi nhớ 3 điều: Cố gắng, kiên định, tin tưởng! Cố gắng cho một tương lai tốt hơn; kiên định với công việc; tin tưởng vào bản thân và thành công sẽ đến với bạn.”
- Cuộc sống giống như một cuốn sách. Một vài chương khá buồn, một số chương hạnh phúc và một số chương rất thú vị. Nhưng nếu bạn chưa bao giờ lật thử một trang bạn sẽ không bao giờ biết được những gì ở chương tiếp theo.
Phần D: 10 danh ngôn hay nhất về phụ nữ
(Nguồn: Internet, xem, ví dụ: Gocnhosantruong.com/doi-song-xa-hoi/the-gioi-quanh-ta, Thanh Hương sưu tầm, Huỳnh Huệ chuyển ngữ)
- Arnold Haultain: "Bằng một tiếng thở dài, một người phụ nữ có thể nói nhiều hơn một người đàn ông trong một bài thuyết giảng/A woman can say more in a sigh than a man can say in a sermon."
- Marilyn Monroe: "Phụ nữ khôn ngoan hôn chứ không yêu. Lắng nghe nhưng chả tin. Và bỏ đi trước khi bị bỏ rơi/A wise girl kisses, but does not love. Listens, but does not believe. And leaves, before she is left."
- Marie de Vichy-Chamrond, Marquise du Deffand, trong thư gửi Voltaire: "Phụ nữ mạnh nhất là khi họ vũ trang bằng sự yếu đuối của họ/Women are never stronger than when they arm themselves with their weakness." (Letters to Voltaire)
- James Thurber: "Phụ nữ khôn ngoan hơn nam giới vì họ biết ít hơn nhưng hiểu nhiều hơn/Women are wiser than men because they know less and understand more."
- Stanley Baldwin: "Tôi thà tin vào trực giác của phụ nữ còn hơn là lý trí của đàn ông/ I would rather trust a woman’s instinct than a man’s reason."
- William Shakespeare: “Phụ nữ có thể ngã khi người đàn ông không có sức mạnh/Women may fall when there’s no strength in men.”
- "Đối với phụ nữ, đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội khen họ đẹp/For women, never miss an opportunity to tell them they’re beautiful." (Vô danh/Author unknown)
- "Con gái có khả năng độc đáo: họ ướt mà không cần nước, họ bị chảy máu mà không có vết thương và làm cho những vật không có xương trở nên cứng rắn/Girls have unique powers: they get wet without water, bleed without injury and make boneless things hard." (Vô danh/Author unknown)
- "Tán chuyện thiên hạ chẳng phải là tội lỗi, đó là nghệ thuật của quý bà/Gossip isn’t a sin. It’s an art of women." (Vô danh/Author unknown)
- "Phụ nữ nói lời cuối trong mọi cuộc tranh cãi. Sau đó bất cứ câu gì nam giới nói đều khởi đầu cho một cuộc tranh cãi mới/Women get the last word in every argument. Anything a man says after that is the beginning of a new argument." (Vô danh/Author unknown)
Phần E: Triết lý sống để đời của những tỷ phú giàu nhất thế giới
- Andrew Carnegie, tỷ phú - nhà sáng lập Carnegie Steel Company, về đầu tư: "Cách để trở nên giàu có là đặt hết trứng của bạn vào một rổ và rồi canh chừng chiếc rổ đó."
- Bill Gates, đồng sáng lập Microsoft, về tình bạn: "Hãy tử tế với những gã nghiện máy tính, biết đâu sau này bạn sẽ làm việc cho ai đó trong số họ."
- Elon Musk, nhà sáng lập Paypal - Tesla Motors - SpaceX, về cuộc sống: "Tôi nghĩ lời khuyên tốt nhất và duy nhất là: luôn nghĩ về việc làm thế nào để thực hiện mọi thứ tốt hơn và hãy tự vấn chính mình."
- Henry Ford, nhà sáng lập Ford Motor Company, về tiết kiệm: "Tôi nghĩ hầu hết những lời khuyên tiết kiệm cho giới trẻ là sai lầm. Tôi chẳng bao giờ tiết kiệm xu nào cho đến khi 40 tuổi. Thay vào đó, tôi đầu tư cho chính mình, học hành, làm chủ các kỹ năng và chuẩn bị. Những người bỏ vài đô la vào ngân hàng mỗi tuần sẽ làm tốt hơn nhiều nếu bỏ nó vào chính họ."
- Jeff Bezos, CEO, nhà sáng lập Amazon Inc., về tương lai: "Nếu bạn nghĩ đến kế hoạch dài hạn và sau đó bạn có thể thực sự đưa ra những quyết định tốt trong đời mà sẽ không phải hối hận về sau."
- J. P. Morgan, nhà ngân hàng - đầu tư - tài chính, về động lực: "Một người đàn ông luôn có lý do để làm mọi việc: lý do tốt và lý do thực sự."
- John Rockefeller, tỷ phú dầu mỏ - sáng lập Standard Oil Company, về cơ hội: "Hãy cố biến mọi thảm họa thành cơ hội."
- Mark Zuckerberg, CEO - đồng sáng lập Facebook, về nguy cơ: "Rủi ro lớn nhất là chẳng đối mặt với rủi ro nào. Trong một thế giới đang thay đổi rất nhanh, chiến lược mà chắc chắn sẽ thất bại chính là tránh xa các rủi ro."
- Oprah Winfrey, dẫn chương trình, diễn viên, nhà đầu tư, về niềm tin: "Bạn trở thành điều mà bạn tin tưởng. Bạn đang ở đâu hôm nay trong cuộc đời mình là dựa trên tất cả những gì bạn đã từng tin."
- Sam Walton, nhà sáng lập Wal-mart, về khách hàng: "Chỉ có duy nhất một ông chủ, đó là khách hàng. Anh ta có thể sa thải bất cứ ai, từ chủ tịch tới nhân viên, bằng cách tiêu tiền ở nơi khác."
- Steve Jobs, CEO - đồng sáng lập Apple, về động lực: "Hãy luôn khát khao, hãy luôn khờ dại."
- Thomas Edison, nhà phát minh, về thành công: "Hãy cho tôi thấy một người hoàn toàn hài lòng với bản thân và tôi sẽ cho bạn thấy một thất bại."
- Warren Buffet, nhà đầu tư, CEO Berkshire Hathaway, về tiền: "Nguyên tắc đầu tiên: đừng bao giờ đánh mất tiền. Nguyên tắc thứ hai: đừng bao giờ quên nguyên tắc đầu tiên."
Isocrates(436-338 BC):
– "Toán học là môn thể dục của trí tuệ và là sự chuẩn bị cho triết học".
Albert Einstein:
– "Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy lôgic”, (”Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas").
– "Quy luật của toán học càng liên hệ tới thực tế càng không chắc chắn, và càng chắc chắn thì càng ít liên hệ tới thực tế", ("As far as the laws of mathematics refer to reality, they are not certain, and as far as they are certain, they do not refer to reality").
– "Đừng quá lo lắng về những khó khăn bạn gặp phải trong Toán học. Tôi dám chắc tôi còn gặp nhiều khó khăn hơn bạn".
Aristotle (Hy Lạp,384-322 TCN):
– "Không có một thiên tài nào mà không pha một chút điên rồ", ("There is no great genius without a mixture of madness").
Karl Weierstrass: “Đúng là nếu một nhà toán học không có tâm hồn thi sĩ thì không bao giờ có thể thành một nhà toán học hoàn hảo được”. (“It is true that a mathematician who is not also something of a poet will never be a perfect mathematician”).
Lev Landau:
– "Những nhà toán học chúng tôi tất cả đều hơi điên rồ", ("We mathematicans are all a bit crazy").
– "Số nguyên tố là để nhân chứ không phải để cộng", ("Prime numbers are meant to be multiplied, not added").
Những câu danh ngôn sau đây lấy từ nguồn: MathScope.org và http://my.opera.com:
Siméon Denis Poisson:
– "Nếu được sống thêm một cuộc đời nữa, tôi lại làm Toán".
Sofia Vasilyevna Kovalevskaya:
– "Sức hấp dẫn của Toán học mãnh liệt đến nỗi tôi bắt đầu xao lãng các môn học khác".
David Hilbert:
– "Không có bài toán nào không giải được. Chúng ta phải biết và sẽ biết".
Blaise Pascal:
–”Giữa những bộ óc thông minh ngang nhau và trong những điều kiện tương tự, ai có trí tưởng tượng hình học tốt hơn thì người đó sẽ thắng và thu được một cường lực hoàn toàn mới mẻ.”
– "Cuộc sống thật buồn tẻ nếu thiếu vắng hai điều, nghiên cứu và giảng dạy toán học", ("Life is boring without two things, discovering mathematics and teaching mathematics").
Turán Pál:
– "Nếu tôi cảm thấy không hạnh phúc, tôi làm toán để cảm thấy hạnh phúc. Nếu tôi cảm thấy hạnh phúc, tôi làm toán để luôn được hạnh phúc", ("If I feel unhappy, I do mathematics to become happy. If I am happy, I do mathematics to keep happy").
Charles Darwin:
– "Mọi phát kiến của nhân loại đều có bàn tay hướng dẫn của Toán học, bởi vì chúng ta không thể có một người chỉ đường nào khác".
Rene Descartes:
– "Toán học là bảo vật quý giá hơn bất cứ thứ gì khác mà chúng ta được thừa hưởng từ kho tàng tri thức của nhân loại".
Roger Bacon:
– "Toán học là cánh cửa và là chìa khoá để đi vào các ngành khoa học khác".
N. A. Court:
– "Toán học có cội rễ sâu xa trong đời sống hàng ngày và là nền tảng của mọi tiến bộ kĩ thuật".
W. W. Sawyer:
– "Không có gì hủy hoại những khả năng toán học bằng thói quen tiếp nhận những phương pháp giải có sẵn mà không hề tự hỏi vì sao cần giải đúng như thế và làm thế nào để có thể tự nghĩ ra điều đó".
Tạ Quang Bửu:
- "Chỉ có cách nhìn thiển cận mới không thấy được vai trò của Toán học”.
------------------------------------------------------------------------------------------
-Bậc thềm tiến vào thánh đường của trí tuệ là biết sự ngu dốt của chính mình.
The doorstep to the temple of wisdom is a knowledge of our own ignorance.
Benjamin Franklin