Ý kiến của GS Vũ Quốc Phóng, Giáo sư Toán học, Đại học Ohio, Hoa Kỳ
18/08/2011 08:23:43
Đào tạo từ xa đã có từ hàng trăm năm
nay qua các phương tiện khác nhau như gửi thư, truyền hình,…, nhưng từ
khi có Internet thì phương tiện chủ yếu được áp dụng trong đào tạo từ xa
là Internet, qua text, âm thanh, hình ảnh, video, mô phỏng và các phần
mềm hỗ trợ trên nền Web (web based learning). Cách học này thường hay
được gọi là e-learning. Từ khi xuất hiện vào cuối những năm 90’s,
e-learning đã mở ra những kỳ vọng lớn về những thay đổi có tính chất
cách mạng trong giáo dục. Nhiều công ty, trường đại học và nhà đầu tư
mạo hiểm đã đầu tư hàng chục tỷ đô la Mỹ vào e-learning.
Tuy nhiên, “bong bóng” e-learning đã vỡ, cùng một lúc với bong bóng dot.com. Song điều đó không phủ nhận vai trò và ý nghĩa của e-learning trong giáo dục, cũng như việc bong bóng dot.com vỡ không phủ nhận sự phát triển, ý nghĩa và vai trò của Internet trong cuộc sống hiện tại. Thực tế là đào tạo từ xa và e-learning vẫn tiếp tục phát triển mạnh ở khắp các trường đại học trên thế giới và đặc biệt là ở Mỹ [1]. Hầu hết các trường ĐH ở Mỹ đều có các chương trình dạy qua mạng cho một số môn, và thậm chí có hẳn cả một số chương trình học có thể học được qua mạng hoàn toàn. Nhiều công ty kinh doanh đào tạo qua mạng phất lên khá nhanh, tiêu biểu như Universityof Phoenix Online[2].
Người ta thấy rõ hơn những sai lầm mắc phải trong thời kỳ đầu triển khai e-learning, tìm thấy vị trí của công nghệ như là công cụ hỗ trợ, như là môi trường để tiến hành việc học, nó không thay thế được bản thân việc dạy và học [3].
Khi áp dụng công cụ e-learning để dạy và học, đặc biệt là để học từ xa, người thầy và học sinh cần phải đồng thời thay đổi một số thói quen thường thấy trong các phương pháp dạy và học truyền thống lấy người thầy làm trung tâm, bằng phương pháp học mới lấy học sinh làm trung tâm. Nói cách khác, từ chỗ tiếp thu kiến thức một cách thụ động, học sinh nay sẽ phải chủ động tìm tòi, khai thác các nguồn thông tin từ sách báo, Internet,…, và biến nó thành kiến thức của mình, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo.
Trên thực tế để thực hiện được như trên một cách thường xuyên là một việc khó. Vì thế vẫn còn có nhiều người hoài nghi, một cách có cơ sở, về chất lượng của học từ xa [4]. Bản thân tôi cũng cho rằng học từ xa không phải là cách học tốt nhất. Ví dụ, nếu muốn trở thành một nhà kinh tế học, chắc chắn rằng được học ở một trường nổi tiếng ở Mỹ như đại học Harvard hay Yale, theo tôi, sẽ tốt hơn là theo học bất kỳ một chương trình đào tạo từ xa thuần túy nào. Việc được tiếp xúc trực tiếp với các nhà khoa học lớn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của một cá nhân.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay, cho dù một học sinh có học ở trường lớn đến đâu chăng nữa, kể cả đó là đại học Harvard hay Yale, thì cũng phải biết áp dụng cách học từ xa, áp dụng e-learning. Vì, như Giáo sư Tạ Quang Bửu nói: "Trình độ đại học là trình độ biết tự học”. Trong thời đại Internet, tự học phần lớn là tự học qua mạng: qua google, wikipedia, chats, forums, blogs, v.v…
Nếu biết khai thác những mặt mạnh và triệt để khắc phục những mặt kém, thì đào tạo từ xa bằng e-learning có thể là một phương pháp đào tạo có hiệu quả. Đặc biệt, trong điều kiện như ở Việt Nam hiện tại, khi đội ngũ các giảng viên có trình độ cao ở trong nước chưa nhiều, khi chúng ta muốn sử dụng những giảng viên đại học và chuyên gia người Việt ở nước ngoài để đào tạo cấp đại học và trên đại học, thì đào tạo từ xa và e-learning có thể xem là phương pháp tương đối khả thi.
Trích từ Đề án xây dựng đại học từ xa chất lượng cao của GS Vũ Quốc Phóng, Giáo sư Toán học, Đại học Ohio, Hoa Kỳ (www.ewiu.org)
[1] Xem http://chronicle.com/weekly/v53/i34/34a04901.htm
[2] Universityof Phoenixonline là thành viên của Appolo Group (NQSDQ:APOL).
[3] Xem http://chronicle.com/weekly/v53/i18/18b02001.htm
[4] Xem http://chronicle.com/weekly/v52/i30/30a03801.htm
Tuy nhiên, “bong bóng” e-learning đã vỡ, cùng một lúc với bong bóng dot.com. Song điều đó không phủ nhận vai trò và ý nghĩa của e-learning trong giáo dục, cũng như việc bong bóng dot.com vỡ không phủ nhận sự phát triển, ý nghĩa và vai trò của Internet trong cuộc sống hiện tại. Thực tế là đào tạo từ xa và e-learning vẫn tiếp tục phát triển mạnh ở khắp các trường đại học trên thế giới và đặc biệt là ở Mỹ [1]. Hầu hết các trường ĐH ở Mỹ đều có các chương trình dạy qua mạng cho một số môn, và thậm chí có hẳn cả một số chương trình học có thể học được qua mạng hoàn toàn. Nhiều công ty kinh doanh đào tạo qua mạng phất lên khá nhanh, tiêu biểu như Universityof Phoenix Online[2].
Người ta thấy rõ hơn những sai lầm mắc phải trong thời kỳ đầu triển khai e-learning, tìm thấy vị trí của công nghệ như là công cụ hỗ trợ, như là môi trường để tiến hành việc học, nó không thay thế được bản thân việc dạy và học [3].
Khi áp dụng công cụ e-learning để dạy và học, đặc biệt là để học từ xa, người thầy và học sinh cần phải đồng thời thay đổi một số thói quen thường thấy trong các phương pháp dạy và học truyền thống lấy người thầy làm trung tâm, bằng phương pháp học mới lấy học sinh làm trung tâm. Nói cách khác, từ chỗ tiếp thu kiến thức một cách thụ động, học sinh nay sẽ phải chủ động tìm tòi, khai thác các nguồn thông tin từ sách báo, Internet,…, và biến nó thành kiến thức của mình, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo.
Trên thực tế để thực hiện được như trên một cách thường xuyên là một việc khó. Vì thế vẫn còn có nhiều người hoài nghi, một cách có cơ sở, về chất lượng của học từ xa [4]. Bản thân tôi cũng cho rằng học từ xa không phải là cách học tốt nhất. Ví dụ, nếu muốn trở thành một nhà kinh tế học, chắc chắn rằng được học ở một trường nổi tiếng ở Mỹ như đại học Harvard hay Yale, theo tôi, sẽ tốt hơn là theo học bất kỳ một chương trình đào tạo từ xa thuần túy nào. Việc được tiếp xúc trực tiếp với các nhà khoa học lớn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của một cá nhân.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay, cho dù một học sinh có học ở trường lớn đến đâu chăng nữa, kể cả đó là đại học Harvard hay Yale, thì cũng phải biết áp dụng cách học từ xa, áp dụng e-learning. Vì, như Giáo sư Tạ Quang Bửu nói: "Trình độ đại học là trình độ biết tự học”. Trong thời đại Internet, tự học phần lớn là tự học qua mạng: qua google, wikipedia, chats, forums, blogs, v.v…
Nếu biết khai thác những mặt mạnh và triệt để khắc phục những mặt kém, thì đào tạo từ xa bằng e-learning có thể là một phương pháp đào tạo có hiệu quả. Đặc biệt, trong điều kiện như ở Việt Nam hiện tại, khi đội ngũ các giảng viên có trình độ cao ở trong nước chưa nhiều, khi chúng ta muốn sử dụng những giảng viên đại học và chuyên gia người Việt ở nước ngoài để đào tạo cấp đại học và trên đại học, thì đào tạo từ xa và e-learning có thể xem là phương pháp tương đối khả thi.
Trích từ Đề án xây dựng đại học từ xa chất lượng cao của GS Vũ Quốc Phóng, Giáo sư Toán học, Đại học Ohio, Hoa Kỳ (www.ewiu.org)
[1] Xem http://chronicle.com/weekly/v53/i34/34a04901.htm
[2] Universityof Phoenixonline là thành viên của Appolo Group (NQSDQ:APOL).
[3] Xem http://chronicle.com/weekly/v53/i18/18b02001.htm
[4] Xem http://chronicle.com/weekly/v52/i30/30a03801.htm
Sơ lược thông tin về giáo sư, tiến sỹ Vũ Quốc Phóng
Bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1978
(ở tuổi 24) tại Đại học (ĐH) Kharkov (Ukraine), sau một thời gian công
tác ở Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam (Viện Toán), TS. Vũ Quốc Phóng
tiếp tục làm nghiên cứu sinh và đã thành công với luận án tiến sĩ khoa
học toán lý – học vị cao nhất của Liên Xô vào năm 1987. Năm 1992, ông
“đầu quân” về ĐH Ohio (Hoa Kỳ), được phong phó giáo sư (1993) và là giáo sư chính thức từ năm 1999. Ông cũng được nhiều trường đại học của Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Hàn Quốc…mời làm giáo sư thỉnh giảng. Trong chuyến về nước vừa qua, ông đã dành cho DNSG một cuộc trao đổi về đề tài giáo dục đại học.
Ông nhận xét gì về các vấn đề của giáo dục đại học Việt Nam?
Nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là giáo dục đại học, đang thực sự là mối quan tâm lo lắng của công chúng. “Căn bệnh” của nền giáo dục hiện nay, với các biểu hiện và nguyên nhân, đã được nhiều người chỉ ra. Các nhà khoa học đều biết rằng những vấn đề được đặt ra quá sớm, khi các điều kiện khách quan chưa chín muồi để giải quyết, thì sẽ không thực hiện được. Theo đuổi các vấn đề này sẽ làm lãng phí thời gian và công sức mà đáng ra có thể sử dụng để giải quyết các bài toán khác được đặt ra đúng thời điểm, tuy có thể nhỏ hơn.
Giáo dục đại học Việt Nam cũng đang ở trong tình trạng tương tự, khi người ta thích đặt các bài toán thật cao siêu, thích nói đến các mục tiêu cụ thể nhưng rất xa vời. Người ta cũng quên rằng, đặt mục tiêu không quan trọng bằng việc xác định đúng phương hướng. Chúng ta nên xác định hướng đi của đại học Việt Nam, của nền khoa học Việt Nam, tạo mọi điều kiện để các nhà khoa học làm việc, để các trường đại học phát triển, chứ không nên đặt các mục tiêu cụ thể, kiểu như sau 20 năm nữa sẽ có trường đứng trong danh sách 200 trường tốt nhất thế giới, hay có người Việt Nam đoạt giải thưởng Nobel về khoa học…
Hệ quả của việc đề ra mục tiêu nhưng không xác định phương hướng có thể là gì, thưa ông?
Đó là mầm mống của tính cách lề mề, nói mà không làm, vì luôn luôn nghĩ rằng kết quả làm việc của ngày hôm nay cũng không thay đổi được gì đáng kể cho việc đạt được mục tiêu, thôi thì để ngày mai làm luôn một thể. Vả lại, mục tiêu xa vời không thể đạt được qua một nhiệm kỳ, hay một thế hệ, cho nên ta dễ dàng “nhường” việc lại cho người kế tiếp, thế hệ kế tiếp. Có lẽ đó là nguyên nhân mà đã rất nhiều năm trôi đi, giáo dục đại học ở Việt Nam chỉ chủ yếu là hứa hẹn và hô hào chứ chưa thực sự có những hành động quyết liệt để thay đổi thực trạng.
Trong số rất nhiều việc mà đầu óc chúng ta có thể hình dung, tưởng tượng là nếu làm được thì sẽ nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, có những việc rất quan trọng và hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.Tuy không phải là dễ, nhưng chúng nằm trong phạm vi chúng ta có thể giải quyết được. Điều đầu tiên cần làm ngay là xác định những loại bài toán như vậy và giải quyết chúng.
Theo ông, đó là những bài toán nào?
Tôi cho rằng chúng ta có 10 vấn đề cần và giải quyết được. Đó là:
1. Phát triển song song đại học tư thục vì lợi nhuận/phi lợi nhuận, bên cạnh hệ thống trường công lập
2. Xác định phương pháp tuyển sinh hiệu quả;
3. Xây dựng cơ chế học phí đảm bảo quyền lợi hợp lý của cả người dạy và người học,
4. Yêu cầu các trường đại học công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình về mọi hoạt động;
5. Xây dựng quy định hợp lý về độ tuổi nghỉ hưu, nhiệm kỳ lãnh đạo, đảm bảo không bỏ phí tài năng
6. Áp dụng các mô hình và phương pháp quản trị đại học tiên tiến,
7. Nâng lương nhằm góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy;
8. Xây dựng các đại học nghiên cứu có chất lượng, vươn tới đẳng cấp quốc tế;
9. Xây dựng quy chế hội đồng trường;
10. Phát triển hơn nữa và hỗ trợ các kênh đào tạo tiến sĩ chính thức/ không chính thức, chú trọng số lượng, chất lượng
và sự cân bằng giữa các ngành khác nhau của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và công nghệ, kỹ thuật.
Ông có thể nói rõ hơn về cơ chế cùng nhau quản trị trong trường và quy chế hội đồng trường?
Nhiều năm giảng dạy ở Mỹ, tôi thấy các trường đại học ở đây được quản lý theo một mô hình kết hợp của mô hình công ty và cơ chế “cùng nhau quản trị”. Mô hình công ty thể hiện ở chỗ các trường đại học đều có hội đồng trường (hội đồng quản trị) và ban lãnh đạo (chủ tịch trường), với việc giao trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. Cơ chế “cùng nhau quản trị” thể hiện ở chỗ các giảng viên và cán bộ nhà trường tham gia khá tích cực vào công việc quản trị trường. Lãnh đạo trường thường xuyên chuyền tải thông tin đến các giảng viên, gặp gỡ trao đổi ý kiến. Các chủ tịch, hiệu trưởng trường thường xuyên đi đến các khoa để gặp gỡ giảng viên, mở các buổi chiêu đãi (nhẹ nhàng) để tạo môi trường trao đổi cởi mở với giảng viên, và thường xuyên thông báo với giảng viên mọi chuyện liên quan.
Giảng viên phân công nhau tham gia rất nhiều ban khác nhau, từ những ban rất quan trọng về ngân sách, chương trình học, thăng bậc, đến những ban ít quan trọng hơn như “Ban về bãi đậu xe”. Hội đồng trường đại học công lập hay tư thục phi lợi nhuận là một tập hợp những người được các tổ chức chính phủ hay cộng đồng tin cậy giao cho việc trông coi trường, đóng vai trò của một cơ quan giám sát các hoạt động của nhà trường, sao cho nhà trường thực hiện đúng và đầy đủ các nhiệm vụ và kế hoạch đã được thông qua trong hội đồng. Nhiệm vụ của hội đồng trường bao gồm:
– Cử chức vụ quản trị cao nhất trong trường (chủ tịch, hiệu trưởng hay giám đốc).
– Thông qua ngân sách hoạt động hằng năm của trường,
– Thông qua các đầu tư cơ bản để xây dựng cơ sở vật chất của trường.
– Thông qua các đường lối lớn về phát triển chiến lược của trường trong dài hạn về mọi mặt.
– Giám sát các hoạt động của ban điều hành của trường, bảo vệ lợi ích của trường trước cộng đồng
– Làm cầu nối giữa trường, các cơ quan chính phủ, địa phương, các công ty và cộng đồng;
– Vận động gây quỹ cho trường.
Vai trò của hội đồng trường tương tự như của hội đồng quản trị, cho nên cũng có thể gọi là hội đồng quản trị. Quản trị đại học theo mô hình công ty thể hiện ở nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng trường như là hội đồng quản trị, và của hiệu trưởng, giám đốc hay chủ tịch trường như là CEO của một công ty. Thông thường, hội đồng trường không có giảng viên là nhân viên của trường tham gia, trừ chủ tịch trường (hay hiệu trưởng, giám đốc) luôn luôn là thành viên của hội đồng trường theo điều lệ. Hội đồng trường có thể có đại diện của sinh viên tham gia, nhưng không có quyền bỏ phiếu.
Các thành viên của hội đồng trường (không nhận lương, chỉ được cấp chi phí đi lại, ăn ở để tham gia họp, do một quỹ đặc biệt của nhà trường tài trợ) thường là các nhà hoạt động chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục, doanh nhân… đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu. Từ trước đến nay, chưa có một trường đại học công lập nào của Việt Nam có hội đồng trường như định nghĩa ở trên. Từ đó dẫn đến tình trạng các hoạt động của các trường đại học ở Việt Nam không được giám sát, ban giám hiệu của trường hằng năm tự đề ra các đường lối hoạt động, các chỉ tiêu, tự mình làm được đến đâu thì làm, không cần phải báo cáo, giải trình với ai cả. Theo kinh nghiệm hàng trăm năm nay của nhân loại, các cơ chế quản trị phải là cơ chế đúp, theo nghĩa có bộ phận điều hành và bộ phận kiểm tra, giám sát. Một trường đại học cần hội đồng trường để làm nhiệm vụ ấy. Chỉ có như vậy mọi kế hoạch được vạch ra mới được thi hành đầy đủ và có chất lượng.
Thực ra, phương pháp quản trị đại học nào cũng có những điểm yếu, và những ai muốn phản đối nó đều có thể dễ dàng tìm được lý lẽ. Nhưng thực tế là hầu hết các trường đại học lớn trên thế giới đều áp dụng mô hình quản trị công ty kết hợp với cơ chế cùng nhau quản trị. Trong quá trình vận hành, họ thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh để cho trường đại học của họ vượt qua mọi khó khăn tạm thời và phát triển. Chúng ta nên áp dụng ít nhất là thử nghiệm mô hình quản trị đại học này trong một hoặc một số trường đại học có quy mô tương đối lớn, để rút kinh nghiệm trước khi triển khai rộng rãi.
Trong 10 “bài toán” mà ông nêu ở trên, thứ tự ưu tiên thực hiện như thế nào và những cơ quan chức năng nào phải tham gia vào việc thực hiện ấy?
Mười “bài toán” mà tôi nêu thực chất là kiến nghị về những việc có thể làm được và cần làm ngay, vì thế có thể đồng thời thực hiện. Mỗi công việc đó đều đòi hỏi phải tiến hành với sự kiên trì, quyết tâm lớn và trong một thời gian tương đối dài. Nhưng tôi cho rằng cần phải bắt đầu ngay và phải xác lập lộ trình giải quyết, “thời gian biểu” cho từng việc. Tùy vấn đề cụ thể, cơ quan chức năng trực tiếp có thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo, hay là lãnh đạo các trường đại học và đội ngũ giảng viên. Nhưng để họ có thể làm tốt các chức năng đó thì việc đầu tiên là Chính phủ phải ban hành ngay những chính sách, quy định liên quan về giáo dục đại học.
Chính phủ nên tin tưởng vào một nhóm nhỏ các chuyên gia độc lập, các trí thức uyên bác và am hiểu về giáo dục đại học thế giới và Việt Nam. Nên tránh giao hoàn toàn việc nghiên cứu và đề xuất các chính sách liên quan đến giáo dục đại học cho Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tôi được biết hầu hết những người Việt hiện đang giảng dạy ở nước ngoài đều mong muốn và sẵn sàng tham gia góp sức mình cho sự phát triển giáo dục của đất nước.
Cảm ơn ông (DNSG)
Nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là giáo dục đại học, đang thực sự là mối quan tâm lo lắng của công chúng. “Căn bệnh” của nền giáo dục hiện nay, với các biểu hiện và nguyên nhân, đã được nhiều người chỉ ra. Các nhà khoa học đều biết rằng những vấn đề được đặt ra quá sớm, khi các điều kiện khách quan chưa chín muồi để giải quyết, thì sẽ không thực hiện được. Theo đuổi các vấn đề này sẽ làm lãng phí thời gian và công sức mà đáng ra có thể sử dụng để giải quyết các bài toán khác được đặt ra đúng thời điểm, tuy có thể nhỏ hơn.
Giáo dục đại học Việt Nam cũng đang ở trong tình trạng tương tự, khi người ta thích đặt các bài toán thật cao siêu, thích nói đến các mục tiêu cụ thể nhưng rất xa vời. Người ta cũng quên rằng, đặt mục tiêu không quan trọng bằng việc xác định đúng phương hướng. Chúng ta nên xác định hướng đi của đại học Việt Nam, của nền khoa học Việt Nam, tạo mọi điều kiện để các nhà khoa học làm việc, để các trường đại học phát triển, chứ không nên đặt các mục tiêu cụ thể, kiểu như sau 20 năm nữa sẽ có trường đứng trong danh sách 200 trường tốt nhất thế giới, hay có người Việt Nam đoạt giải thưởng Nobel về khoa học…
Hệ quả của việc đề ra mục tiêu nhưng không xác định phương hướng có thể là gì, thưa ông?
Đó là mầm mống của tính cách lề mề, nói mà không làm, vì luôn luôn nghĩ rằng kết quả làm việc của ngày hôm nay cũng không thay đổi được gì đáng kể cho việc đạt được mục tiêu, thôi thì để ngày mai làm luôn một thể. Vả lại, mục tiêu xa vời không thể đạt được qua một nhiệm kỳ, hay một thế hệ, cho nên ta dễ dàng “nhường” việc lại cho người kế tiếp, thế hệ kế tiếp. Có lẽ đó là nguyên nhân mà đã rất nhiều năm trôi đi, giáo dục đại học ở Việt Nam chỉ chủ yếu là hứa hẹn và hô hào chứ chưa thực sự có những hành động quyết liệt để thay đổi thực trạng.
Trong số rất nhiều việc mà đầu óc chúng ta có thể hình dung, tưởng tượng là nếu làm được thì sẽ nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, có những việc rất quan trọng và hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.Tuy không phải là dễ, nhưng chúng nằm trong phạm vi chúng ta có thể giải quyết được. Điều đầu tiên cần làm ngay là xác định những loại bài toán như vậy và giải quyết chúng.
Theo ông, đó là những bài toán nào?
Tôi cho rằng chúng ta có 10 vấn đề cần và giải quyết được. Đó là:
1. Phát triển song song đại học tư thục vì lợi nhuận/phi lợi nhuận, bên cạnh hệ thống trường công lập
2. Xác định phương pháp tuyển sinh hiệu quả;
3. Xây dựng cơ chế học phí đảm bảo quyền lợi hợp lý của cả người dạy và người học,
4. Yêu cầu các trường đại học công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình về mọi hoạt động;
5. Xây dựng quy định hợp lý về độ tuổi nghỉ hưu, nhiệm kỳ lãnh đạo, đảm bảo không bỏ phí tài năng
6. Áp dụng các mô hình và phương pháp quản trị đại học tiên tiến,
7. Nâng lương nhằm góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy;
8. Xây dựng các đại học nghiên cứu có chất lượng, vươn tới đẳng cấp quốc tế;
9. Xây dựng quy chế hội đồng trường;
10. Phát triển hơn nữa và hỗ trợ các kênh đào tạo tiến sĩ chính thức/ không chính thức, chú trọng số lượng, chất lượng
và sự cân bằng giữa các ngành khác nhau của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và công nghệ, kỹ thuật.
Ông có thể nói rõ hơn về cơ chế cùng nhau quản trị trong trường và quy chế hội đồng trường?
Nhiều năm giảng dạy ở Mỹ, tôi thấy các trường đại học ở đây được quản lý theo một mô hình kết hợp của mô hình công ty và cơ chế “cùng nhau quản trị”. Mô hình công ty thể hiện ở chỗ các trường đại học đều có hội đồng trường (hội đồng quản trị) và ban lãnh đạo (chủ tịch trường), với việc giao trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. Cơ chế “cùng nhau quản trị” thể hiện ở chỗ các giảng viên và cán bộ nhà trường tham gia khá tích cực vào công việc quản trị trường. Lãnh đạo trường thường xuyên chuyền tải thông tin đến các giảng viên, gặp gỡ trao đổi ý kiến. Các chủ tịch, hiệu trưởng trường thường xuyên đi đến các khoa để gặp gỡ giảng viên, mở các buổi chiêu đãi (nhẹ nhàng) để tạo môi trường trao đổi cởi mở với giảng viên, và thường xuyên thông báo với giảng viên mọi chuyện liên quan.
Giảng viên phân công nhau tham gia rất nhiều ban khác nhau, từ những ban rất quan trọng về ngân sách, chương trình học, thăng bậc, đến những ban ít quan trọng hơn như “Ban về bãi đậu xe”. Hội đồng trường đại học công lập hay tư thục phi lợi nhuận là một tập hợp những người được các tổ chức chính phủ hay cộng đồng tin cậy giao cho việc trông coi trường, đóng vai trò của một cơ quan giám sát các hoạt động của nhà trường, sao cho nhà trường thực hiện đúng và đầy đủ các nhiệm vụ và kế hoạch đã được thông qua trong hội đồng. Nhiệm vụ của hội đồng trường bao gồm:
– Cử chức vụ quản trị cao nhất trong trường (chủ tịch, hiệu trưởng hay giám đốc).
– Thông qua ngân sách hoạt động hằng năm của trường,
– Thông qua các đầu tư cơ bản để xây dựng cơ sở vật chất của trường.
– Thông qua các đường lối lớn về phát triển chiến lược của trường trong dài hạn về mọi mặt.
– Giám sát các hoạt động của ban điều hành của trường, bảo vệ lợi ích của trường trước cộng đồng
– Làm cầu nối giữa trường, các cơ quan chính phủ, địa phương, các công ty và cộng đồng;
– Vận động gây quỹ cho trường.
Vai trò của hội đồng trường tương tự như của hội đồng quản trị, cho nên cũng có thể gọi là hội đồng quản trị. Quản trị đại học theo mô hình công ty thể hiện ở nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng trường như là hội đồng quản trị, và của hiệu trưởng, giám đốc hay chủ tịch trường như là CEO của một công ty. Thông thường, hội đồng trường không có giảng viên là nhân viên của trường tham gia, trừ chủ tịch trường (hay hiệu trưởng, giám đốc) luôn luôn là thành viên của hội đồng trường theo điều lệ. Hội đồng trường có thể có đại diện của sinh viên tham gia, nhưng không có quyền bỏ phiếu.
Các thành viên của hội đồng trường (không nhận lương, chỉ được cấp chi phí đi lại, ăn ở để tham gia họp, do một quỹ đặc biệt của nhà trường tài trợ) thường là các nhà hoạt động chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục, doanh nhân… đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu. Từ trước đến nay, chưa có một trường đại học công lập nào của Việt Nam có hội đồng trường như định nghĩa ở trên. Từ đó dẫn đến tình trạng các hoạt động của các trường đại học ở Việt Nam không được giám sát, ban giám hiệu của trường hằng năm tự đề ra các đường lối hoạt động, các chỉ tiêu, tự mình làm được đến đâu thì làm, không cần phải báo cáo, giải trình với ai cả. Theo kinh nghiệm hàng trăm năm nay của nhân loại, các cơ chế quản trị phải là cơ chế đúp, theo nghĩa có bộ phận điều hành và bộ phận kiểm tra, giám sát. Một trường đại học cần hội đồng trường để làm nhiệm vụ ấy. Chỉ có như vậy mọi kế hoạch được vạch ra mới được thi hành đầy đủ và có chất lượng.
Thực ra, phương pháp quản trị đại học nào cũng có những điểm yếu, và những ai muốn phản đối nó đều có thể dễ dàng tìm được lý lẽ. Nhưng thực tế là hầu hết các trường đại học lớn trên thế giới đều áp dụng mô hình quản trị công ty kết hợp với cơ chế cùng nhau quản trị. Trong quá trình vận hành, họ thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh để cho trường đại học của họ vượt qua mọi khó khăn tạm thời và phát triển. Chúng ta nên áp dụng ít nhất là thử nghiệm mô hình quản trị đại học này trong một hoặc một số trường đại học có quy mô tương đối lớn, để rút kinh nghiệm trước khi triển khai rộng rãi.
Trong 10 “bài toán” mà ông nêu ở trên, thứ tự ưu tiên thực hiện như thế nào và những cơ quan chức năng nào phải tham gia vào việc thực hiện ấy?
Mười “bài toán” mà tôi nêu thực chất là kiến nghị về những việc có thể làm được và cần làm ngay, vì thế có thể đồng thời thực hiện. Mỗi công việc đó đều đòi hỏi phải tiến hành với sự kiên trì, quyết tâm lớn và trong một thời gian tương đối dài. Nhưng tôi cho rằng cần phải bắt đầu ngay và phải xác lập lộ trình giải quyết, “thời gian biểu” cho từng việc. Tùy vấn đề cụ thể, cơ quan chức năng trực tiếp có thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo, hay là lãnh đạo các trường đại học và đội ngũ giảng viên. Nhưng để họ có thể làm tốt các chức năng đó thì việc đầu tiên là Chính phủ phải ban hành ngay những chính sách, quy định liên quan về giáo dục đại học.
Chính phủ nên tin tưởng vào một nhóm nhỏ các chuyên gia độc lập, các trí thức uyên bác và am hiểu về giáo dục đại học thế giới và Việt Nam. Nên tránh giao hoàn toàn việc nghiên cứu và đề xuất các chính sách liên quan đến giáo dục đại học cho Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tôi được biết hầu hết những người Việt hiện đang giảng dạy ở nước ngoài đều mong muốn và sẵn sàng tham gia góp sức mình cho sự phát triển giáo dục của đất nước.
Cảm ơn ông (DNSG)
Thứ Hai, ngày 19/10/2015 10:04 AM (GMT+7)
Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng
Bài
giảng cuối cùng của GS.TSKH Vũ Quốc Phóng - nhà toán học, niềm tự hào
của Ohio University lại không phải về khoa học chuyên ngành cơ bản, chỉ
có những vấn đề cốt lõi về y học và câu chuyện của chính ông.
Bắt bệnh giáo dục Việt Nam: lề mề Có lẽ đó sẽ là bài giảng cuối cùng của một nhà khoa học lỗi lạc nước Mỹ. “Buổi lên lớp” cuối cùng của GS.TS Vũ Quốc Phóng - nhà toán học, niềm tự hào của Ohio University lại không phải về những hằng số, đạo hàm hay những gì vốn thuộc chuyên ngành cơ bản. Những người được vinh hạnh lắng nghe tiếng ngọc cũng chẳng nhiều, vẻn vẹn ba mái đầu xanh tuổi trẻ. Giờ học đó thật khác lạ. Ông nói về những vấn đề rất cốt lõi của y học. Ông lấy ví dụ từ chính ông, về căn bệnh ung thư quái ác vô phuơng cứu chữa đã sập đến quá nhanh. Bài giảng đó được cất lên bằng một giọng nói yếu ớt nhưng tràn đầy lạc quan, bằng một sự tỉnh táo như hồi quang phản chiếu. Một ngày cuối tháng 7.… Ở cả bờ tây nước Mỹ, nhắc đến “Thầy Phóng”, đám học sinh cả ta lẫn tây đều “ồ”, “òa” lên tiếng khâm phục. Giảng đường luôn kin đặc chỗ mỗi khi ông lên lớp. Kể cả mấy tháng qua, khi ông đang trải qua những cơn đại phẫu thì lịch giảng online vẫn luôn được học sinh ngóng chờ. Không phải chì vì Giáo sư Phóng có một kiến thức sâu rộng, mà ông truyền cho người học một cảm giác “thèm học”, “muốn học” và “học đến tận cùng”. Và kể cả khi nằm dưỡng bệnh, bàn tay gầy guộc đó vẫn níu lấy chiếc bút chì, dọc ngang những ý tưởng trên trang giấy trắng. …
GS Phóng vẫn miệt mài làm việc ngay cả khi đang dưỡng bệnh
Giáo sư Phóng có một góc nhìn rất khác về nền giáo dục Việt Nam, đặc
biệt là giáo dục đại học, thứ đang thực sự là mối quan tâm lo lắng của
công chúng.Với ông, “căn bệnh” của nền giáo dục hiện nay chẳng có gì là khó hiểu. Đó là mầm mống của tính cách lề mề, nói mà không làm, vì luôn luôn nghĩ rằng kết quả làm việc của ngày hôm nay cũng không thay đổi được gì đáng kể cho việc đạt được mục tiêu, thôi thì để ngày mai làm luôn một thể. Vả lại, mục tiêu xa vời không thể đạt được qua một nhiệm kỳ, hay một thế hệ, cho nên ta dễ dàng “nhường” việc lại cho người kế tiếp, thế hệ kế tiếp. Có lẽ đó là nguyên nhân mà đã rất nhiều năm trôi đi, giáo dục đại học ở Việt Nam chỉ chủ yếu là hứa hẹn và hô hào chứ chưa thực sự có những hành động quyết liệt để thay đổi thực trạng. Có gì đâu, khi người ta thích đặt các bài toán thật cao siêu, thích nói đến các mục tiêu cụ thể nhưng rất xa vời, thì chắc chắn người ta cũng quên rằng, đặt mục tiêu không quan trọng bằng việc xác định đúng phương hướng. Tấm vé một chiều về nước ... Đã có lần GS Phóng đăng đàn mạnh mẽ , rằng chúng ta - những người Việt Nam nên xác định hướng đi của đại học Việt Nam, của nền khoa học Việt Nam theo một lối riêng. Hãy tạo mọi điều kiện để các nhà khoa học làm việc, để các trường đại học phát triển, chứ không nên đặt các mục tiêu cụ thể, kiểu như sau 20 năm nữa sẽ có trường đứng trong danh sách 200 trường tốt nhất thế giới, hay có người Việt Nam đoạt giải thưởng Nobel về khoa học… Một tiếng nói mạnh mẽ chưa đủ làm nhiều thứ đổi thay, nhưng tiếng nói đó sâu sắc và dám nhìn thẳng vào sự thật. … Những người Việt Nam thành đạt trong lĩnh vực khoa học, làm rạng danh tên nước như vậy không nhiều. Cũng hiếm lắm người có đôi mắt tinh anh như thế, một đôi mắt có thể trao gửi mọi thông điệp mà chẳng cần nói nên lời. Càng hiếm lắm những người mà chỉ khi gặp một lần đã cho cảm giác thân thuộc, để khâm phục và nhớ mãi.
Ngôi nhà của ông cùng những vật dụng cuối cùng đang được rao bán
Có lẽ đúng: “Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt
cát vô danh. Họ sinh ra để lưu lại dấu ấn trên mặt đất, trong trái tim
người khác”.Ngoài của nhà, tấm biển “Garage sale” đã treo. Ô tô, xe máy đến những đồ vật cuối cùng cũng đều được rao bán. Và cả ngôi nhà mái đỏ xin xắn nằm trên ngọn đồi cao yên bình này nữa, có lẽ cũng phải nói lời chia xa. Tấm vé một chiều về nước cũng đã định ngày. Giữa tia nắng ấm của mùa hè, bỗng thấy lòng giá lạnh…
TS Bùi Chí Trung
|
Vĩnh biệt một tài năng toán học xuất sắc của Việt Nam
Chủ nhật, 18/10/2015, 14:00 (GMT+7)(Xã hội) - TSKH Vũ Quốc Phóng nằm trên giường bệnh để chống chọi với căn bệnh ung thư giai đoạn cuối. Dù đau đớn vì bệnh tật, nhưng ông vẫn luôn mỉm cười với bạn bè, đồng nghiệp, bà con khi đến thăm. Nắm lấy bàn tay gầy guộc của ông, ai cũng thương xót cho một tài năng toán học Việt Nam, bởi ngày ông từ giã cõi trần được tính bằng giây, bằng phút.
Nguồn : http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/268174/vinh-biet-mot-tai-nang-toan-hoc-xuat-sac-cua-viet-nam.html
Và, ông đã ra đi vào ngày định mệnh 27/8 âm lịch (Ất Mùi) trong niềm tiếc thương vô hạn của hàng trăm sinh viên Đại học Ohio (Mỹ) và cán bộ, GS, các nhà toán học (Viện toán học Việt Nam), cùng gia đình, bạn bè, người thân.
PGS, Phó Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam Nguyễn Việt Dũng chia sẻ, Vũ Quốc Phóng, đã chọn toàn học và toán học đã chọn ông. Suốt đời mình, từ tuổi niên thiếu cho đến phút cuối cùng ông say mê và gắn bó với toán học. Ông luôn chọn cho mình những đề tài nghiên cứu khó khăn, hóc búa và đạt nhiều két quả có giá trị đối với Giải tích hàm, Lý thuyết toán tử, Lý thuyết nửa nhóm…
“Ông là tác giả của gần 70 bài viết được xuất bản trong các tạp chí chuyên ngành có uy tín. Các kết quả nghiên cứu của ông đã được trích dẫn sử dụng trong nhiều bái báo và hàng chục đầu sách được xuất bản trên thế giới. Ông được mời làm phản biện cho hàng chục tạp chí khoa học uy tín trên thế giới. Với lòng say mê, tân tậm, bền bỉ, tài năng đã giúp ông gặt hái được nhiều thành công trên lĩnh vực toán học. Ông là nhà toán học hàng đầu của Việt Nam”, PGS Dũng khẳng định.
Sinh ra ở miền quê xứ Nghệ, trong một gia đình hiếu học. Vũ Quốc Phóng có tài năng thiên bẩm về toán học từ bé. Tốt nghiệp cấp 3, với kết quả học tập xuất sắc. Vũ Quốc Phóng được Chính phủ gửi sang Liên Xô học đại học. Ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kharkov với tấm bằng đỏ xuất sắc. Ông được trường đề nghị ở lại làm nghiên cứu sinh chuyển tiếp và bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sỹ tại Đại học Kharcov. Ông trở về nước, công tác tại Viện Toán học Việt Nam.
Chỉ vài năm sau, ông được Viện Toán học Việt Nam cử làm thực tập sinh cao cấp ở Liên Xô và năm 1987, ông bảo vệ xuất sắc Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Toán-Lý ở Viện Toán học Kiev. Từ đây, nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới mời ông làm giáo sư thỉnh giảng tại Đức, Pháp, Nhật, Hoa Kỳ, Hồng Kong… Nhiều viện nghiên cứu toán học tại mỹ, châu Âu, Trung tâm vũ trụ Na Sa còn lưu giữ nhiều bài nghiên cứu về toán của ông. Và, năm 1999 ông trở thành GS toán học của Đại học Ohio.
Dù thành công ở đỉnh cao, nhưng ông luôn có lối sống giản dị, tận tụy với công việc và có trách nhiệm giúp đỡ sinh viên có tài năng về môn toán. Ông được Đại học Ohio giao nhiều trọng trách: Chủ nhiệm khoa sau đại học, chủ tịch hội đồng xét tuyển, thi nâng ngạch giáo viên của trường. Ông là người thiết kế khóa học onlne cho Đại học Ohio và một số trường đại học khác của Mỹ và là tác giả của nhiều bài giảng từ xa.
Cả một đời gắn bó với toán học, Vũ Quốc Phóng luôn đau đáu về ngành Toán của Việt Nam. Vì vậy, các kỳ nghỉ hè, nghỉ đông, ông đều tranh thủ về nước dự các hội nghị về toán. Ông tham gia giảng dạy tại các trường đại học trong cả nước, cộng tác chặt chẽ với Viện Toán học Việt Nam, là câu nối giúp sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam đến với khoa Toán Đại hoc Ohio.
Những ngày cuối tháng 7. Căn bệnh ung thư quái ác đang hành hạ ông. Vũ Quốc Phóng vẫn lên lớp giảng dạy sinh viên. Bài dạy cuối cùng của ông không phải là những hàm đẳng thức, không phải là những hằng số, đạo hàm, mà về đạo làm người, về những căn bệnh quái ác mà y học hiện đại còn bó tay. Giọng nói ông cất lên yếu ớt, nhưng ánh mắt ông vẫn tràn đầy nghị lực…
Ở cả bờ tây nước Mỹ, nhắc đến “Thầy Phóng”, đám học sinh cả ta lẫn tây đều khâm phục. Giảng đường luôn kin đặc chỗ mỗi khi ông lên lớp. Kể cả mấy tháng qua, khi ông đang trải qua những cơn đại phẫu thì lịch giảng online vẫn luôn được học sinh ngóng chờ. Không phải chì vì GS Phóng có một kiến thức sâu rộng, mà ông truyền cho người học một cảm giác “thèm học”, “muốn học” và “học đến tận cùng”.
Và kể cả khi nằm dưỡng bệnh, bàn tay gầy guộc đó vẫn níu lấy chiếc bút chì, dọc ngang những ý tưởng trên trang giấy trắng. …
Ông ra đi ở tuổi 62 với nhiều dự định còn dang dở. Với ông, Việt Nam cần phải thay đổi tư duy giáo dục đại học, đừng lề mề nữa, cần phải có những bước đi cụ thể, thích hợp và phải nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Vĩnh biệt ông! Một tài năng toán học xuất sắc của Viêt Nam.
(Theo Vietnamnet)
Monday, October 19, 2015
Gs Vũ Quốc Phóng
Tối
nay, đọc một tin rất sốc với cá nhân tôi: Gs Vũ Quốc Phóng qua đời ở tuổi 62!
Anh Phóng (xem hình) là một trong những đồng hương Ohio của tôi ngày xưa, và dù ít liên lạc,
nhưng chúng tôi rất thân tình. Bẵng đi một thời gian thì nghe hung tin này (1). Tin
anh Phóng qua đời làm tôi nhớ lại những kỉ niệm thời xưa ...
Trong
"hội" Ohio ngày xưa gồm có các gia đình anh chị LTThành, VQPhóng,
PHTiệp, và vài bạn mới qua sau này. Anh Thành là dân Thái Lọ, học ở Anh, sang
Mĩ "tị nạn" ở Columbus. Anh Phóng là dân Nghệ An, mà tôi hay gọi đùa
là Do Thái của Việt Nam, và cô vợ lúc đó mới sang mà chúng tôi gọi là hoa hậu
vì cô ấy rất xinh gái. Tuần nào, chúng tôi cũng tụ tập ở nhà anh Thành tán gẫu
và đàm đạo, vì lí do đơn giản là chị Lan (bà xã anh Thành) nấu phở rất ngon.
Nhưng cũng có khi chúng tôi lái xe lên Athens chỗ anh Phóng định cư. Tôi gặp
anh Phóng và bà xã của anh ở đó rất thường xuyên.
Anh
Phóng giảng dạy ở ĐH Ohio (Thành phố Athens), một đại học có khuôn viên rất đẹp,
cách Columbus khoảng 2 giờ lái xe (nếu tôi nhớ không lầm). Tôi chỉ biết anh từng
học ở Liên Xô cũ, và sau khi khối xã hội chủ nghĩa sụp đổ, anh "trôi dạt"
sang Mĩ và được Mĩ trọng dụng, để sau này thành một giáo sư toán của Mĩ. Anh có
một trang ResearchGate nhưng tôi chắc chắn rằng anh không cập nhật hóa vì tôi
biết thành tích khoa học của anh lẫy lừng hơn cái trang đơn giản này. Anh ít
khi nào nói về mình và công việc của anh, nhưng học trò anh đều không tiếc lời
khen anh là một người thầy tuyệt vời, người truyền cảm hứng toán mà hiếm thấy một
giáo sư Mĩ nào có thể làm được. Không chỉ là một người thầy truyền cảm hứng
khoa học, anh còn được học trò mến anh ở cái tính thân thiện, lúc nào cũng cười,
và hình như chẳng làm phiền ai.
Anh
là người có công giúp đỡ các em nghiên cứu sinh bên nhà sang Mĩ học và ở lại
luôn. Chẳng những thế, anh còn "lôi kéo" những người đã thành danh ở
VN sang và được bổ nhiệm chức danh giáo sư ở ĐH Ohio. Biết anh rất mê mô hình dạy
trực tuyến, dạo đó, tôi có ý định làm một series trực tuyến để hướng dẫn dạy
toán cho học sinh trung học, nhưng anh Phóng lắc đầu nói "Ông với status
như thế thì làm chi mấy chuyện cỏn con đó". Cái giọng Nghệ An của anh nghe
rất thuyết phục. Anh nhắc đi nhắc lại cái ý này mỗi khi tôi bàn về dự án, và quả
thật sau này thì tôi không theo đuổi dự án đó nữa.
Anh
Phóng là típ người ít nói. Trong các buổi trò chuyện, anh cười cười và lắng
nghe người khác nói là chính, nhưng khi đã nói là rất hăng và hùng biện. Nhớ
lúc đó bàn chuyện ông Clinton bị vướn vụ Monica Lewinsky, anh Phóng ông Clinton
sẽ tại vị vì người Mĩ họ phân biệt cá nhân ông tổng thống và chức vụ tổng thống.
Không như các bạn khác, anh Phóng rất ít nói gì về tình hình Việt Nam, vì anh
không đánh giá cao những chính sách của chính phủ bên đó.
Thế
rồi theo dòng đời, tôi quay về Úc, tạm biệt "Hội Ohio", và không có dịp
gặp anh Phóng lần nữa. Chúng tôi chỉ trao đổi qua email để hỏi han công việc.
Anh theo dõi đều những bài viết của tôi về giáo dục, và mỗi lần đọc được ý gì
tâm đắc anh gửi tôi một email động viên. Tôi hỏi sao anh không đóng góp ý kiến
cho bên nhà, vì với vị thế anh, anh có thể làm nhiều hơn nữa cho quê nhà, nhưng
anh chỉ khiêm tốn nói rằng "Ông đã nói hết rồi".
Dù
không gặp anh, nhưng qua bạn bè và anh Thành, tôi vẫn hỏi và theo dõi công việc
của anh. Tôi cũng mừng khi biết anh có duyên mới và hạnh phúc mới, và nghĩ một
ngày sẽ quay lại ghé thăm Hội Ohio. Ấy thế mà tôi không thể nào ngờ rằng anh bị
bệnh vì anh ấy rất khoẻ mạnh. Tôi càng không ngờ anh bị căn bệnh quái ác ung
thư cướp lấy cuộc đời của anh! Sự ra đi của anh là một sự mất mát của cộng đồng
toán học Việt Nam, và tôi mất một người bạn mà tôi hằng mến mộ.
Sự
ra đi của anh quả thật làm cho tôi thấy cuộc đời này sao quá mong manh. Mới gặp
đó rồi chợt vụt biến. Đúng như câu “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, vạn mộc xuân
vinh thu hựu khô” của Thiền sư Vạn Hạnh. Tôi xin có lời chia buồn sâu sắc đến
gia đình anh Phóng, và cầu mong cho linh hồn anh sớm siêu sanh về cõi lành.
===
Cán bộ cũ của Viện
Nguồn : http://math.ac.vn/
Họ và tên | Học hàm, học vị lúc công tác tại Viện | Thời gian làm việc tại Viện | Ghi chú |
Hà Lê Anh | CN | 1973-1986 | Đã mất |
Nguyễn Việt Anh | TS | 2005-2012 | Hiện là TSKH, giảng viên Đại học Paris 11 |
Trần Thị Lan Anh | TS | ||
Phạm Trà Ân | PGS TS | 1970-2007 | Nghỉ hưu |
Nguyễn Lương Bách | TS | 1982-2004 | |
Trần Quốc Bình | Ths | 1990-1995 | |
Bùi Công Cường | PGS TSKH | 1970-2004 | Nghỉ hưu |
Lê Văn Chóng | TS | 1978-2009 | Đã mất |
Nguyễn Ngọc Chu | TS | 1981-2010 | |
Lê Ngọc Chuyên | TS | 1986-1995 | |
Đỗ Ngọc Cường | CN | 1982-2005 | Đã mất |
Lê Hữu Diện | TS | ||
Hoàng Đình Dung | PGS TS | 1970-2004 | Đã mất năm 2014 |
Nguyễn Việt Dũng (Đại số) | TS | 1983-2009 | Hiện là GS TSKH, giảng dạy ĐH Ohio |
Phạm Cảnh Dương | TS | 1973-2009 | |
Nguyễn Tiến Đại | TS | 1976-2012 | Nghỉ hưu |
Bùi Khởi Đàm | PGS TS | 1978-1999 | |
Vũ Văn Đạt | TS | 1974-2010 | Nghỉ hưu |
Lê Văn Điền | TS | 1976-1993 | |
Phạm Huy Điển | PGS TSKH | 1976-2009 | |
Nguyễn Hữu Điển | TS | 1977-2007 | Hiện là PGS, giảng viên ĐH Khoa học tự nhiên Hà Nội |
Chử Văn Đông | TS | 1977-1995 | |
Nguyễn Hồng Đức | TS | 2007-2013 | |
Nguyễn Hữu Đức | TS | 1976-1984 | PGS TSKH, Hiệu trưởng ĐH Đà Lạt. Đã mất |
Nguyễn Văn Gia | PGS TSKH | 1970-1985 | |
Dương Duy Hải | CN | -1982 | Đã mất |
Đặng Hấn | CN | 1966-1985 | |
Phạm Dương Hiển | CN | 1974-1977 | |
Trần Vinh Hiển | TS | 1970-1983 | |
Lê Hội | TS | 1978-2002 | Nghỉ hưu |
Trần Huy Hổ | |||
Đinh Văn Huỳnh | GS TSKH | 1978-2008 | Nghỉ hưu. Hiện giảng dậy ĐH Ohio |
Phan Huy Khải | PGS TS | 1970-2011 | Nghỉ hưu |
Lê Xuân Lam | 1970-1976 | ||
Phan Trung Lâm | CN | 1986-1995 | |
Trần Gia Lịch | PGS TS | 1970-2006 | Nghỉ hưu |
Nguyễn Kim Liên | |||
Trần Vĩnh Linh | TS | 2003 - 2014 | |
Nguyễn Khắc Lộc | CN | 1975-1983 | Đã mất |
Lê Kim Luật | CN | 1982-1988 | |
Lê Trọng Lục | CN | 1970-2012 | Nghỉ hưu (năm 2012) |
Đinh Thế Lục | GS TSKH | 1975-2012 | Phó Viện trưởng, 1995-1998 |
Đinh Quang Lưu | PGS TSKH | 1978-2005 | Đã mất |
Đỗ Văn Lưu | PGS TS | 1970-2009 | Phó Viện trưởng, 1995-2000, Nghỉ hưu |
Nguyễn Sĩ Minh | TS | 1976-2012 | Nghỉ hưu |
Nguyễn Hồng Minh | CN | 1982-1993 | |
Trịnh Ngọc Minh | TS | 1983- | |
Nguyễn Văn Ngọc | TS | 1975-2009 | Nghỉ hưu |
Nguyễn Tố Như | PGS TSKH | 1982-2005 | Hiện là GS, giảng dạy ĐH Ohio |
Nguyễn Ngọc Phan | Ths | 2002-2013 | |
Vũ Quốc Phóng | TSKH | 1981-2003 | GS, giảng dạy ĐH Ohio. Đã mất (năm 2015). |
Phạm Hồng Quang | TS | 1984-2009 | |
Tạ Hồng Quảng | |||
Đỗ Văn Sĩ | |||
Nguyễn Văn Sinh | |||
Hà Huy Tài | TS. | 2001-2010 | |
Bùi Thế Tâm | PGS. TS. | 1970-2013 | Nghỉ hưu |
Đỗ Hồng Tân | PGS. TSKH. | 1970-2002 | Nghỉ hưu |
Lê Thanh | |||
Dương Chí Thành | 1974-1976 | ||
Lê Công Thành | TS. | Nghỉ hưu | |
Lê Văn Thành | PGS. TS. | 1970-2009 | Đã mất |
Trần Hùng Thao | PGS. TS. | 1970-2005 | Nghỉ hưu |
Lê Văn Thiêm | GS | 1970-1985 | Viện trưởng Viện Toán học 1970-1980 Đã mất năm 1991, |
Lê Quang Thiệp | |||
Trần Vũ Thiệu | GS. TS. | 1970-2007 | Nghỉ hưu |
Nguyễn Văn Thoại | GS. TS. | ||
Nguyễn Văn Thu | GS. TSKH. | 1978-2006 | |
Nguyễn Hữu Trợ | TS. | 1973-1995 và 2001-2003 | |
Hà Thành Trung | 2005-2013 | ||
Ngô Anh Tú | TS. | ||
Nguyễn Đức Tuấn | TS | 1983 - 2014 | Đã mất năm 2014 |
Trần Manh Tuấn | GS. TS. | 1970-2003 | Phó viện trưởng Viện Toán 1985-1990, Nghỉ hưu |
Đào Quang Tuyến | TS. | 1974-2010 | |
Ngô Đạt Tứ | 1970-1987 | Đã mất | |
Đỗ Long Vân | GS. TSKH. | 1970-2007 | Nghỉ hưu |
Trần Đức Vân | GS. TSKH. | 1981-2011 | Viện trưởng 1995-2000, Đã mất năm 2001 |
Hồ Hữu Việt | TS. | ||
Nguyễn Khắc Việt | TSKH. |
Họ và tên | Học vị, học hàm | Thời gian làm việc | Ghi chú |
Đào Viết Bồng | Nghỉ hưu | ||
Hà Thị Cận | 1979-2004 | Nghỉ hưu | |
Nguyễn Thị Côi | 1970-1992 | Đã mất | |
Vương Ngọc Châu | 1970-1998 | Nghỉ hưu | |
Đỗ Ngọc Cường | Đã mất | ||
Nguyễn Lan Dân | 1979-2015 | Nghỉ hưu | |
Võ Thị Gái | 1979-2005 | Nghỉ hưu | |
Văn Thị Xuân Hương | Nghỉ hưu | ||
Trịnh Bá Kiểm | 1982-2004 | Nghỉ hưu | |
Trần Thị Kim Khuyến | 1970-1992 | Đã mất | |
Phạm Tuấn Mỹ | |||
Phùng Ngọc Nghiêm | |||
Trần Cao Nguyên | |||
Hoàng Minh Phong | |||
Vũ Đình Tích | |||
Nguyễn Văn Tiến | |||
Mai Văn Toan | |||
Lê Khánh Vân |