Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Thứ Ba, 27 tháng 10, 2015

CÁC BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA WOLFRAM .Phần 1 .


CÁC BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA WOLFRAM .



Phần 1 .





Stephen Wolfram
Nhà khoa học, nhà phát minh
Website: website chính thức của Stephen Wolfram
http://www.stephenwolfram.com/
Book: A New Kind of Science
Website: Wolfram | Alpha


    Thông tin cá nhân

Stephen Wolfram là tác giả của Mathematica và Wolfram | Alpha, tác giả cuốn sách A New Kind of Science , là người sáng lập và CEO của Wolfram Research.

Stephen Wolfram công bố bài báo khoa học đầu tiên của mình ở tuổi 15, và nhận bằng Tiến sĩ vật lý lý thuyết tại Caltech ở tuổi 20. Sau khi bắt đầu sử dụng máy tính trong năm 1973, Wolfram nhanh chóng trở thành một nhà lãnh đạo trong các lĩnh vực nổi bật về tính toán khoa học.

Năm 1981 Wolfram trở thành người trẻ nhất của một giải thưởng MacArthur Fellowship. Sau đó, ông vạch ra một hướng đi mới đầy tham vọng trong khoa học nhằm tìm hiểu nguồn gốc của sự phức tạp trong tự nhiên. Ý tưởng quan trọng đầu tiên Wolfram là sử dụng các thí nghiệm máy tính để nghiên cứu các hành vi của các chương trình máy tính đơn giản được gọi là tế bào automata . Điều này cho phép ông thực hiện một loạt những khám phá đáng ngạc nhiên về nguồn gốc của sự phức tạp


 Wolfram thành lập các trung tâm nghiên cứu và các tạp chí đầu tiên trong lĩnh vực này, Các hệ thống phức tạp, và bắt đầu sự phát triển của phần mềm Mathematica. Wolfram Research đã sớm trở thành một nhà lãnh đạo thế giới trong ngành công nghiệp phần mềm - được công nhận rộng rãi cho sự xuất sắc trong cả hai công nghệ và kinh doanh.

Sau khi phát hành Mathematica Version 2 năm 1991, Wolfram bắt đầu phân chia thời gian của mình giữa phát triển Mathematica và nghiên cứu khoa học. Xây dựng trên công trình nghiên cứu của mình từ giữa những năm 1980, và bây giờ áp dụng với Mathematica như một công cụ, Wolfram đã thành công nhanh chóng với những khám phá mới mẻ lớn lao hơn , mà ông mô tả trong cuốn sách của mình,  A New Kind of Science.

Xây dựng trên nền tảng Mathematica,  A New Kind of Science, và sự thành công của Wolfram Research, Wolfram gần đây đưa ra nền tảng Wolfram | Alpha - một dự án dài hạn đầy tham vọng nhằm làm cho kiến ​​thức của thế giới có thể tính toán càng nhiều càng tốt , và  tất cả mọi người đều có thể truy cập đến nền tảng tính toán này .


Therese Littleton đã viết :

"Dù gì đi nữa cuộc cách mạng của Wolfram cuối cùng cho chúng ta những chìa khóa để khám phá vũ trụ, ngành khoa học mới của ông thực sự là cực kỳ thú vị và đầy cảm hứng ."


1. Tính toán lý thuyết cho mọi kiến thức (Computing a theory of all knowledge)


00:12
Tôi muốn nói về một ý tưởng. Một ý tưởng lớn. Thật ra, tôi nghĩ rằng dần dần ý tưởng đó sẽ được coi là ý tưởng lớn duy nhất nổi bật trong suốt thế kỷ qua. Đó là một ý tưởng về điện toán. Tất nhiên, ý tưởng đó đã đem lại cho chúng ta tất cả công nghệ máy tính mà chúng ta có ngày nay và hơn thế nữa. Nhưng thật ra điện toán không phải chỉ có thế. Đó là một ý tưởng căn bản sâu sắc và đầy quyền năng mà chúng ta mới chỉ bắt đầu thấy được tác dụng của nó.

 So I want to talk today about an idea. It's a big idea. Actually, I think it'll eventually be seen as probably the single biggest idea that's emerged in the past century. It's the idea of computation. Now, of course, that idea has brought us all of the computer technology we have today and so on. But there's actually a lot more to computation than that. It's really a very deep, very powerful, very fundamental idea, whose effects we've only just begun to see.

00:37
Tôi đã bỏ ra 30 năm làm việc với ba dự án lớn cố gắng áp dụng ý tưởng về điện toán một cách nghiêm túc. Tôi đã khởi đầu khi còn là một nhà vật lý trẻ tuổi sử dụng máy tính như các công cụ. Sau đó, tôi đã bắt đầu đào sâu thêm, nghĩ về các phép toán mà có thể tôi sẽ muốn làm, cố gắng tìm ra các nguyên hàm để làm nền cho các phép toán đó và cách nào để làm cho chúng tự động hóa càng nhiều càng tốt. Cuối cùng thì tôi cũng đã tạo ra được toàn bộ cấu trúc dựa trên phương thức lập trình tượng trưng và vân vân mà đã giúp tôi xây dựng nên Mathematica. Và trong 23 năm qua, với tốc độ ngày càng nhanh, chúng tôi đã liên tục đổ thêm nhiều ý tưởng và chức năng hơn nữa vào Mathematica và tôi rất vui khi có thể nói rằng điều đó đã đem lại nhiều điều tốt trong R&D (nghiên cứu và phát triển) và giáo dục và trong nhiều lĩnh vực khác. Tôi phải thừa nhận rằng thật ra tôi đã có một lý do rất ích kỷ khi viết Mathematica. Tôi đã muốn sử dụng nó cho chính mình, gần giống như Galileo đã sử dụng chiếc ống kính thiên văn của mình vào 400 năm trước. Nhưng tôi đã không muốn ngắm lấy vũ trụ bao la, tôi muốn được tìm hiểu về vũ trụ của điện toán.

 Well, I myself have spent the past 30 years of my life working on three large projects that really try to take the idea of computation seriously. So I started off at a young age as a physicist using computers as tools. Then, I started drilling down, thinking about the computations I might want to do, trying to figure out what primitives they could be built up from and how they could be automated as much as possible. Eventually, I created a whole structure based on symbolic programming and so on that let me build Mathematica. And for the past 23 years, at an increasing rate, we've been pouring more and more ideas and capabilities and so on into Mathematica, and I'm happy to say that that's led to many good things in R & D and education, lots of other areas. Well, I have to admit, actually, that I also had a very selfish reason for building Mathematica: I wanted to use it myself, a bit like Galileo got to use his telescope 400 years ago. But I wanted to look not at the astronomical universe, but at the computational universe.




01:37
Chúng ta thường nghĩ về các phần mềm như những thứ phức tạp mà chúng ta xây dựng cho những mục đích riêng biệt. Nhưng khoảng không gian cho tất cả các phần mềm thì sao? Đây là một phần mềm đơn giản. Nếu chúng ta chạy chương trình này, đây là những gì ta đạt được. Rất đơn giản. Hãy thử đổi công thức cho chương trình một chút xem sao. Bây giờ chúng ta lại có một kết quả khác, nhưng vẫn rất đơn giản. Thử đổi một lần nữa. Ta lại có một thứ khác phức tạp hơn một chút nhưng nếu chúng ta cho nó tiếp tục chạy một lúc ta sẽ thấy rằng mặc dù trình tự mà chúng ta có được rất là rắc rối, nó mang một cấu trúc rất bình thường. Nên câu hỏi là: Liệu có thể có những gì khác xảy ra không? Ừ thì chúng ta có thực hiện một thí nghiệm nho nhỏ. Hãy thử thực hiện một thí nghiệm toán học, thử xem thế nào.

 So we normally think of programs as being complicated things that we build for very specific purposes. But what about the space of all possible programs? Here's a representation of a really simple program. So, if we run this program, this is what we get. Very simple. So let's try changing the rule for this program a little bit. Now we get another result, still very simple. Try changing it again. You get something a little bit more complicated. But if we keep running this for a while, we find out that although the pattern we get is very intricate, it has a very regular structure. So the question is: Can anything else happen? Well, we can do a little experiment. Let's just do a little mathematical experiment, try and find out. 




02:25
Thử chạy tất cả các chương trình có thể thuộc cùng một loại mà chúng ta đang xem xét. Chúng được gọi là thiết bị tế bào tự động. Các bạn có thể thấy được sử đa dạng trong hoạt động của nó. Đa số trong chúng thực hiện những thứ rất đơn giản. Nhưng nếu các bạn nhìn các bức tranh khác nhau này, đến công thức thứ 30, các bạn sẽ thấy có điều gì đó hấp dẫn xảy ra. Hãy nhìn kỹ hơn một chút công thức thứ 30 này. Nó đây. Chúng ta chỉ làm theo cái công thức rất đơn giản ở phía dưới này nhưng chúng ta lại có được một thứ lạ kỳ này. Đó không phải là thứ mà chúng ta quen thuộc với và tôi phải nói rằng, khi tôi nhìn thấy cái này lần đầu tiên, nó đã gây sốc đối với trực giác của tôi và thật ra, để hiểu được nó, tôi đã phải tạo ra một môn khoa học mới.

Let's just run all possible programs of the particular type that we're looking at. They're called cellular automata. You can see a lot of diversity in the behavior here. Most of them do very simple things, but if you look along all these different pictures, at rule number 30, you start to see something interesting going on. So let's take a closer look at rule number 30 here. So here it is. We're just following this very simple rule at the bottom here, but we're getting all this amazing stuff. It's not at all what we're used to, and I must say that, when I first saw this, it came as a huge shock to my intuition. And, in fact, to understand it, I eventually had to create a whole new kind of science. 


03:07
(Tiếng cười)

03:09
Môn khóa học này nói chung là khác với các môn khoa học dựa trên toán học khác mà chúng ta đã có trong vòng 300 năm qua. Các bạn biết đấy, thiên nhiên làm cách nào mà có thể tạo ra nhiều thứ phức tạp một cách dễ dàng đến thế đã luôn là một điều bí ẩn đối với chúng ta. Và tôi nghĩ rằng tôi đã tìm ra được bí mật của nó. Chỉ đơn giản là lấy mẫu những gì có ở ngoài đó vào trong vũ trụ của điện toán và rất thường sẽ có được những thứ như công thức thứ 30 này hay như cái này. Và khi biết được điều này, chúng ta có thể bắt đầu giải thích được nhiều bí ẩn trong khoa học. Nhưng nó cũng sinh ra nhiều vấn đề như tính tối giản của điện toán. Ý tôi là chúng ta đã quen với việc khoa học cho phép ta tiên đoán nhiều thứ nhưng những thứ như thế này thì cơ bản là tối giản. Cách duy nhất để tìm ra hệ quả của nó một cách hiệu quả là nhìn nó phát triển. Nó có liên quan đến một thứ mà tôi gọi là nguyên lý tương đương điện toán mà cho chúng ta biết rằng những hệ thống cực kỳ đơn giản đều có thể thực hiện các phép tính phức tạp. Không cần đền nhiều công nghệ hay sự tiến hóa sinh học để có thể thực hiện các phép tính bất kỳ, chỉ đơn giản là một thứ gì đó diễn ra một cách tự nhiên khắp mọi nơi. Những thứ với các công thức, luật lệ đơn giản như thế này đều có thể làm được điều đó. Điều này mang hàm ý sâu sắc về các giới hạn của khoa học về khả năng tiên đoán và điều hành những thứ như các quá trình sinh học hay kinh tế, về trí thông minh trong vũ trụ, về các câu hỏi như sự tự nguyện và về việc tạo ra các công nghệ mới.

This science is different, more general, than the mathematics-based science that we've had for the past 300 or so years. You know, it's always seemed like a big mystery: how nature, seemingly so effortlessly, manages to produce so much that seems to us so complex. Well, I think we've found its secret: It's just sampling what's out there in the computational universe and quite often getting things like Rule 30 or like this. And knowing that starts to explain a lot of long-standing mysteries in science. It also brings up new issues, though, like computational irreducibility. I mean, we're used to having science let us predict things, but something like this is fundamentally irreducible. The only way to find its outcome is, effectively, just to watch it evolve. It's connected to, what I call, the principle of computational equivalence, which tells us that even incredibly simple systems can do computations as sophisticated as anything. It doesn't take lots of technology or biological evolution to be able to do arbitrary computation; just something that happens, naturally, all over the place. Things with rules as simple as these can do it. Well, this has deep implications about the limits of science, about predictability and controllability of things like biological processes or economies, about intelligence in the universe, about questions like free will and about creating technology. 

04:41
Các bạn biết đấy, làm việc với môn khoa học này qua nhiều năm, tôi đã luôn băn khoăn "Ứng dụng hay ho đầu tiên của nó sẽ là gì?" Từ lúc tôi còn nhỏ, tôi đã nghĩ về các kiến thức về sự hệ thống hóa và làm cách nào để làm nó có thể tính toán được. Những người như Leibniz cũng đã từng suy nghĩ về điều đó vào 300 năm trước. Nhưng tôi đã luôn cho rằng để được kết quả thì tôi sẽ phải tái tạo lại nguyên bộ não. Bây giờ tôi lại nghĩ rằng: Mô hình khoa học này của tôi mang một ý nghĩa khác. Và tiện thể tôi xin nói luôn là giờ tôi đã có được nhiều khả năng tính toán lớn trong Mathematica và tôi là một CEO với một số nguồn vật chất đủ để thực hiện các dự án lớn và dường như điên rồ. Nên tôi đã quyết định thử xem bao nhiêu trong lượng kiến thức ngoài kia trên thế giới có thể làm cho tính toán được.

You know, in working on this science for many years, I kept wondering, "What will be its first killer app?" Well, ever since I was a kid, I'd been thinking about systematizing knowledge and somehow making it computable. People like Leibniz had wondered about that too 300 years earlier. But I'd always assumed that to make progress, I'd essentially have to replicate a whole brain. Well, then I got to thinking: This scientific paradigm of mine suggests something different -- and, by the way, I've now got huge computation capabilities in Mathematica, and I'm a CEO with some worldly resources to do large, seemingly crazy, projects -- So I decided to just try to see how much of the systematic knowledge that's out there in the world we could make computable. 

05:25
Nên dự án đó đã rất lớn và phức tạp mà tôi cũng chẳng rõ sẽ thành công thế nào. Nhưng rất vui là tôi có thể nói rằng dự án đang tiến triển tốt. Và vào năm ngoái chúng tôi đã cho ra đời phiên bản đầu tiên của Wolfram Alpha. Mục đích của trang này là một công cụ kiến thức tính toán các câu trả lời cho các câu hỏi. Nên chúng ta hãy thử xem thế nào. Chúng ta hãy thử bắt đầu với một cái gì đó thật dễ. Và mong điều tốt nhất. Tốt. Được rồi. Đến lúc này thì vẫn tốt. (Tiếng cười) Hãy thử cái gì đó khó hơn. Thử ... Thử một phép toán và may mắn thì nó sẽ tính ra kết quả đúng và sẽ cho chúng ta biết một vài thứ thú vị về các phép toán liên quan. Chúng ta hỏi nó bất kỳ điều gì về thế giới thực. Ví dụ như -- GDP của Tây Ban Nha là nhiêu? Và nó sẽ phải trả lời được cho chúng ta. Bây giờ chúng ta sẽ có thể tính một thứ gì liên quan, ví dụ như GDP của Tây Ban Nha chia cho, tôi không biết, -- hừm ... doanh thu của Microsoft chẳng hạn.

So, it's been a big, very complex project, which I was not sure was going to work at all. But I'm happy to say it's actually going really well. And last year we were able to release the first website version of Wolfram Alpha. Its purpose is to be a serious knowledge engine that computes answers to questions. So let's give it a try. Let's start off with something really easy. Hope for the best. Very good. Okay. So far so good. (Laughter) Let's try something a little bit harder. Let's do some mathy thing, and with luck it'll work out the answer and try and tell us some interesting things things about related math. We could ask it something about the real world. Let's say -- I don't know -- what's the GDP of Spain? And it should be able to tell us that. Now we could compute something related to this, let's say ... the GDP of Spain divided by, I don't know, the -- hmmm ... let's say the revenue of Microsoft. 

06:33
(Tiếng cười)

06:35
Chúng ta có thể gõ vào đây một câu hỏi theo bất kỳ cách nào. Nên ta hãy thử hỏi một câu, ví dụ như một câu hỏi về sức khỏe. Giả dụ như chúng ta tìm thấy trong phòng thí nghiệm rằng -- ta có mức độ LDL (Low-density lipoprotein) tại 140 cho một người đàn ông 50 tuổi. Nên hãy thử gõ cái này vào và Wolfram Alpha sẽ sử dụng các số liệu thống kê được ban hành và xem thử bao nhiêu phần của dân số có cùng chỉ số đó và vân vân. Hay thử hỏi về trạm không gian quốc tế.

 The idea is that we can just type this in, this kind of question in, however we think of it. So let's try asking a question, like a health related question. So let's say we have a lab finding that ... you know, we have an LDL level of 140 for a male aged 50. So let's type that in, and now Wolfram Alpha will go and use available public health data and try and figure out what part of the population that corresponds to and so on. Or let's try asking about, I don't know, the International Space Station. 

07:06
Và những gì đang diễn ra ở đây là Wolfram Alpha không chỉ tìm kiếm cái gì đó; nó đang tính trong thời gina thực xem trạm không gian quốc tế đang ở đâu trong lúc này và nó đang di chuyển nhanh cỡ nào và vân vân. Nên Wolfram Alpha biết rất nhiều thứ. Đến giờ phút này, Wolfram Alpha đã có được gần như tất cả những gì mà bạn có thể tìm thấy trong một thư viện. Nhưng mục đích là để đạt được hơn thế nữa và dân chủ hóa một cách rộng rãi tất cả những kiến thức và trở nên một nguồn thông tin có căn cứ trong mọi lĩnh vực để có thể tính toán ra các câu trả lời cho những câu hỏi cụ thể không phải bằng cách tìm kiếm những gì những người khác có thể đã viết ra từ trước mà bằng cách sử dụng kiến thức có sẵn để tính toán ra các câu trả lời cho các câu hỏi của thể.

 And what's happening here is that Wolfram Alpha is not just looking up something; it's computing, in real time, where the International Space Station is right now at this moment, how fast it's going, and so on. So Wolfram Alpha knows about lots and lots of kinds of things. It's got, by now, pretty good coverage of everything you might find in a standard reference library. But the goal is to go much further and, very broadly, to democratize all of this knowledge, and to try and be an authoritative source in all areas. To be able to compute answers to specific questions that people have, not by searching what other people may have written down before, but by using built in knowledge to compute fresh new answers to specific questions. 

07:54
Tất nhiên, Wolfram Alpha là một dự án khổng lồ, lâu dài với rất nhiều thách thức. Để bắt đầu thì một người phải giáo phó hàng tỷ các nguồn cơ sở và thống kê khác nhau và chúng tôi đã tạo ra một đường ống của sự tự động hóa của Mathematica và các chuyên gia trong lĩnh vực để thực hiện được điều này. Nhưng đó mới chỉ là bắt đầu. Khi có các dữ liệu thống kê để trả lời các câu hỏi, một người phải tính toán, phải sử dụng tất cả các phương pháp và mô hình và phép toán và vân vân mà khoa học và các lĩnh vực khác đã xây dựng nên qua các thế kỷ. Thậm chí kể cả khi bắt đầu từ Mathematica đó vẫn là một lượng công việc lớn. Cho đến bây giờ, có khoảng 8 triệu dòng lệnh từ Mathematica ở Wolfram Alpha viết bởi các chuyên gia từ rất nhiều các lĩnh vực khác nhau.

  Now, of course, Wolfram Alpha is a monumentally huge, long-term project with lots and lots of challenges. For a start, one has to curate a zillion different sources of facts and data, and we built quite a pipeline of Mathematica automation and human domain experts for doing this. But that's just the beginning. Given raw facts or data to actually answer questions, one has to compute: one has to implement all those methods and models and algorithms and so on that science and other areas have built up over the centuries. Well, even starting from Mathematica, this is still a huge amount of work. So far, there are about 8 million lines of Mathematica code in Wolfram Alpha built by experts from many, many different fields. 

08:39
Ý tưởng độc đáo của Wolfram Alpha là các bạn sẽ có thể hỏi các câu hỏi dùng ngôn ngữ con người bình thường, điều này có nghĩa là chúng tôi sẽ phải có thể hiểu được tất cả các cách nói và diễn đạt mà người khác sẽ gõ vào trong mục tìm kiếm và hiểu được chúng. Và tôi phải nói rằng tôi đã nghĩ rằng bước đó sẽ có thể không thực hiện được. Hai sự việc lớn đã xảy ra. Điều đầu tiên là một đống các ý tưởng về ngôn ngữ học đến từ việc nghiên cứu về vụ trụ các phép tính toán. Và điều thứ hai là sự ngộ ra rằng khi có được một ngôn ngữ có thể tính toán được hoàn toàn làm thay đổi cách mà một người có thể hiểu ngôn ngữ. Và tất nhiên, bây giờ với Wolfram Alpha, chúng tha có thể học hỏi bằng cách sử dụng nó. Và đúng thế, đã có một sự đồng phát triển giữa Wolfram Alpha và những người sử dụng. Và điều này thật sự gây khuyến khích. Ngay bây giờ, nếu chúng ta nhìn vào các mục câu hỏi về các trang web, trên 80 phần trăm những câu hỏi đó được trả lời một cách thành công ngay từ đầu. Và nếu các bạn nhìn vào các thứ như các app cho iPhone, tỷ lệ còn cao hơn thế nhiều. Nên tôi khá là hài lòng với nó.

Well, a crucial idea of Wolfram Alpha is that you can just ask it questions using ordinary human language, which means that we've got to be able to take all those strange utterances that people type into the input field and understand them. And I must say that I thought that step might just be plain impossible. Two big things happened: First, a bunch of new ideas about linguistics that came from studying the computational universe; and second, the realization that having actual computable knowledge completely changes how one can set about understanding language. And, of course, now with Wolfram Alpha actually out in the wild, we can learn from its actual usage. And, in fact, there's been an interesting coevolution that's been going on between Wolfram Alpha and its human users, and it's really encouraging. Right now, if we look at web queries, more than 80 percent of them get handled successfully the first time. And if you look at things like the iPhone app, the fraction is considerably larger. So, I'm pretty pleased with it all. 

09:43
Nhưng xét về nhiều mặt, chúng tôi vẫn ở bức tiến ban đầu với Wolfram Alpha. Ý tôi là mọi thứ vẫn đang phát triển lên một cách tốt đẹp. Chúng tôi ngày càng tự tin hơn. Các bạn có thể mong chờ công nghệ Wolfram Alpha xuất hiện ở nhiều và nhiều nơi hơn nữa, làm việc với các dữ liệu công khai như trên trang web và với các nguồn thông tin cá nhân cho các cá nhân và các công ty. Tôi đã nhận ra rằng Wolfram Alpha thật sự đem lại một thể loại tính toán mới mà có thể được gọi là sự tính toán dựa trên kiến thức không phải chỉ là tính toán đơn thuần mà dựa trên một lượng kiến thức khổng lồ có sẵn. Và khi thực hiện điều đó, một người có thể làm thay đổi cả hình thức kinh tế của việc cung cấp các sản phẩm tính toán, dù nó ở trên web hay ở đâu đi nữa.

But, in many ways, we're still at the very beginning with Wolfram Alpha. I mean, everything is scaling up very nicely and we're getting more confident. You can expect to see Wolfram Alpha technology showing up in more and more places, working both with this kind of public data, like on the website, and with private knowledge for people and companies and so on. You know, I've realized that Wolfram Alpha actually gives one a whole new kind of computing that one can call knowledge-based computing, in which one's starting not just from raw computation, but from a vast amount of built-in knowledge. And when one does that, one really changes the economics of delivering computational things, whether it's on the web or elsewhere.


10:24
Hiện chúng tôi đang có một hoàn cảnh khá thú vị. Một mặt, chúng tôi có Mathematica, với ngôn ngữ rõ ràng của mình và một hệ thống to lớn bao gồm các khả năng được thiết kế cẩn thận mà có thể thực hiện được nhiều thứ chỉ qua vài dòng lệnh. Để tôi cho các bạn xem vài ví dụ. Đây là một đoạn lệnh bình thường từ Mathematica. Đây là chỗ mà chúng tôi kết hợp nhiều khả năng lại với nhau. Ở đây, ta sẽ tạo một giao diện ở dòng này mà sẽ cho phép ta làm một cái gì đó thú vị đây. Nếu các bạn tiếp tục, đây là một chương trình phức tạp hơn chút mà làm đủ các phép toán và tạo ra giao diện cho người dùng và vân vân. Nhưng nó là một cái gì đó rất cụ thể. Chi tiết kỹ thuật cụ thể cùng với một ngôn ngữ cụ thể giúp cho Mathematica biết nên làm những gì.

You know, we have a fairly interesting situation right now. On the one hand, we have Mathematica, with its sort of precise, formal language and a huge network of carefully designed capabilities able to get a lot done in just a few lines. Let me show you a couple of examples here. So here's a trivial piece of Mathematica programming. Here's something where we're sort of integrating a bunch of different capabilities here. Here we'll just create, in this line, a little user interface that allows us to do something fun there. If you go on, that's a slightly more complicated program that's now doing all sorts of algorithmic things and creating user interface and so on. But it's something that is very precise stuff. It's a precise specification with a precise formal language that causes Mathematica to know what to do here. 

11:17
Mặt khác, chúng ta lại có Wolfram Alpha cùng với đủ thứ hỗn độn của thế giới và ngôn ngữ con người và những thứ như thế được cấu thành ở bên trong. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đem mọi thứ lại với nhau? Tôi nghĩ rằng đó là một điều tuyệt vời. Với Wolfram Alpha ở bên trong Mathematica, các bạn có thể xây dựng các phần mềm mà sử dụng các số liệu thống kê thực. Đây là một ví dụ đơn giản. Các bạn có thể cho một giá trị vào mơ hồ và sau đó thử và bắt Wolfram Alpha đoán xem các bạn đang nói về cái gì. Hãy thử xem. Tôi nghĩ rằng, thật ra, điều thú vị nhất là Wolfram Alpha thật sự cho chúng ta cơ hội để dân chủ hóa việc lập trình. Ý tôi là, ai cũng sẽ có thể nói bất kỳ cái gì bằng ngôn ngữ thông thường sau đó, Wolfram Alpha sẽ có thể tìm ra được những phần lệnh nào có thể giải quyết được những gì đã được hỏi và sau đó đưa ra các ví dụ mà sẽ cho người sử dụng chọn lấy những gì họ cần để xây dựng nên những phần mềm cụ thể lớn hơn nữa. Đôi khi, Wolfram Alpha sẽ có thể làm mọi thứ ngay lập tức và trả lại một chương trình lớn mà các bạn có thể sử dụng để tính toán. Đây là một trang web lớn nơi mà chúng tôi đã thu thập nhiều thứ về giáo dục và nhiều thứ khác. Tôi sẽ cho các bạn xem một ví dụ. Đây là một ví dụ về một trong những tập tin tính toán ấy. Đây là một mẫu lậnh nhỏ của Mathematica mà chúng ta có thể chạy ở đây.

 Then on the other hand, we have Wolfram Alpha, with all the messiness of the world and human language and so on built into it. So what happens when you put these things together? I think it's actually rather wonderful. With Wolfram Alpha inside Mathematica, you can, for example, make precise programs that call on real world data. Here's a real simple example. You can also just sort of give vague input and then try and have Wolfram Alpha figure out what you're talking about. Let's try this here. But actually I think the most exciting thing about this is that it really gives one the chance to democratize programming. I mean, anyone will be able to say what they want in plain language. Then, the idea is that Wolfram Alpha will be able to figure out what precise pieces of code can do what they're asking for and then show them examples that will let them pick what they need to build up bigger and bigger, precise programs. So, sometimes, Wolfram Alpha will be able to do the whole thing immediately and just give back a whole big program that you can then compute with. Here's a big website where we've been collecting lots of educational and other demonstrations about lots of kinds of things. I'll show you one example here. This is just an example of one of these computable documents. This is probably a fairly small piece of Mathematica code that's able to be run here.

12:43
Ok. Có được môn khoa học mới này, liệu có cách nào để sử dụng nó để tạo ra công nghệ không? Với các vật liệu vật lý, chúng ta đã quen thuộc với việc đi vòng quanh thế giới và phát hiện ra các vật liệu mới mà có ích cho các mục đích công nghệ khác nhau. Chúng ta có thể làm điều tương tự trong vũ trụ của các phép toán. Có một nguồn các phần mềm không đáy ở ngoài kia. Thách thức bây giờ làm sao để thu hoạch chúng cho các mục đích của con người. Một thứ gì đó giống như Rule 30, Rule 30 hóa ra lại là một bộ máy khá tốt trong việc cho ra các số bất kỳ. Các chương trình khác là các mô hình khá tốt cho các quá trình trong thế giới tự nhiện và xa hội. Và Wolfram Alpha và Mathematica hiện giờ có trong mình đầy rẫy các thuật toán mà chúng tôi đã tìm thấy trong quá trình tìm kiếm vụ trụ của các phép toán. Và, vú dụ, cái này -- chúng ta quay lại đây -- Cái này đã trở nên phổ biến một cách lạ thường trong giới nhạc sỹ tìm kiếm các mẫu nhạc bằng cách lục lọi vũ trụ của các phép toán. Chúng ta có thể sử dụng vũ trụ này để đem lại sự sáng tạo tùy biến. Tôi mong rằng chúng ta sẽ có thể sử dụng Wolfram Alpha để thực hiện các phát minh và khám phá và những điều tuyệt với khác mà không nhà kỹ sư nào và không quá trình tiến hóa nào có thể thực hiện được.

 Okay. Let's zoom out again. So, given our new kind of science, is there a general way to use it to make technology? So, with physical materials, we're used to going around the world and discovering that particular materials are useful for particular technological purposes. Well, it turns out we can do very much the same kind of thing in the computational universe. There's an inexhaustible supply of programs out there. The challenge is to see how to harness them for human purposes. Something like Rule 30, for example, turns out to be a really good randomness generator. Other simple programs are good models for processes in the natural or social world. And, for example, Wolfram Alpha and Mathematica are actually now full of algorithms that we discovered by searching the computational universe. And, for example, this -- if we go back here -- this has become surprisingly popular among composers finding musical forms by searching the computational universe. In a sense, we can use the computational universe to get mass customized creativity. I'm hoping we can, for example, use that even to get Wolfram Alpha to routinely do invention and discovery on the fly, and to find all sorts of wonderful stuff that no engineer and no process of incremental evolution would ever come up with.


14:01
Điều này dẫn đến một câu hỏi tối cao. Liệu ta có thể tìm thấy thế giới vật lý của chúng ta ở đâu đó trong vũ trụ các phép toán hay không? Có lẽ có một công thức đơn giản nào đó, một chương trình đơn giản nào đó cho vũ trụ của chúng ta. Lịch sử vật lý sẽ cố gắng thuyết phục ta tin rằng công thức cho vũ trụ quả sẽ phải phức tạp lắm. Nhưng trong vũ trụ các phép toán chúng ta đã thấy được rằng những công thức cực kỳ đơn giản có thể dẫn đến các hoạt động giàu có và phức tạp. Vậy điều gì đang diễn ra với vũ trụ của chúng ta? Nếu các công thức cho vũ trụ là đơn giản, có khả năng cao là chúng sẽ phải rất trừu tượng và cấp thấp, ví dụ như hoạt động dưới cả cấp thời gian và không gian mà rất khó để biểu trưng cho sự vật. Nhưng trong nhiều trường hợp, một người có thể nghĩ răng vũ trụ là một hệ thống mà khi đợt được kích cỡ nhất định sẽ như là một khoảng không gian liên tiếp giống như là hàng loạt các nguyên tố có thể hoạt động như một chất lỏng. Thế nên vũ trụ phát triển bằng cách áp dụng các công thức nhỏ này mà sẽ dần dần làm mới hệ thống. Và mỗi công thức thay mặt cho một vũ trụ.

  Well, so, that leads to kind of an ultimate question: Could it be that someplace out there in the computational universe we might find our physical universe? Perhaps there's even some quite simple rule, some simple program for our universe. Well, the history of physics would have us believe that the rule for the universe must be pretty complicated. But in the computational universe, we've now seen how rules that are incredibly simple can produce incredibly rich and complex behavior. So could that be what's going on with our whole universe? If the rules for the universe are simple, it's kind of inevitable that they have to be very abstract and very low level; operating, for example, far below the level of space or time, which makes it hard to represent things. But in at least a large class of cases, one can think of the universe as being like some kind of network, which, when it gets big enough, behaves like continuous space in much the same way as having lots of molecules can behave like a continuous fluid. Well, then the universe has to evolve by applying little rules that progressively update this network. And each possible rule, in a sense, corresponds to a candidate universe.


15:08
Thật ra, tôi chưa cho các bạn xem, nhưng đây là một vài vũ trụ mà tôi chú ý đến. Một vài trong số này là các vũ trụ không có tương lai, chúng hoàn toàn "vô sinh", với cái căn nguyên như sự vô không, vô thời gian, vô vật chất và các vấn đề khác. Nhưng điều thú vị mà tôi đã tìm được trong vòng vài năm qua là bạn không phải đi xa trong vũ trụ phép toán đến khi bạn có thể bắt đầu tìm thấy các vũ trụ mà không khác vũ trụ chúng ta một cách rõ ràng. Vấn đề là ở đây: Bất kỳ ứng cử viên nào cho vũ trụ của chúng ta hẳn sẽ phải đầy tính tối giản nghĩa là rất khó để tối giản hóa nó để tìm ra nó sẽ hoạt động như thế nào và nó có giống vũ trụ vật lý của chúng ta. Một vài năm trước, tôi đã khám phá ra rằng có các ứng cử viên vũ trụ với các công thức cực kỳ đơn giản mà tái tạo lại một cách thành công thuyết tương đối riêng và thậm chí cả thuyết tương đối tổng quát và trọng lực và ít nhất là cho thấy một vài dấu hiệu về cơ học lượng tử. Vậy ta sẽ tìm được toàn bộ vật lý ư? Tôi không chắc. Nhưng tôi nghĩ là sẽ thật sự xấu hổ nếu ta không thử.

Actually, I haven't shown these before, but here are a few of the candidate universes that I've looked at. Some of these are hopeless universes, completely sterile, with other kinds of pathologies like no notion of space, no notion of time, no matter, other problems like that. But the exciting thing that I've found in the last few years is that you actually don't have to go very far in the computational universe before you start finding candidate universes that aren't obviously not our universe. Here's the problem: Any serious candidate for our universe is inevitably full of computational irreducibility. Which means that it is irreducibly difficult to find out how it will really behave, and whether it matches our physical universe. A few years ago, I was pretty excited to discover that there are candidate universes with incredibly simple rules that successfully reproduce special relativity, and even general relativity and gravitation, and at least give hints of quantum mechanics. So, will we find the whole of physics? I don't know for sure, but I think at this point it's sort of almost embarrassing not to at least try. 

16:19
Đây không phải là một dự án dễ dàng. Sẽ phải xây dựng rất nhiều công nghệ. Sẽ phải xây dựng một hệ thống mà sẽ phải sâu bằng vật lý hiện tại của chúng ta. Và tôi không rõ làm thế nào để sắp xếp toàn bộ mọi thứ. Xây dựng một đội nhóm, khởi đầu dự án, cho các giải thưởng và vân vân. Nhưng hôm nay tôi xin nói với các bạn rằng tôi quyết tâm hoàn thành dự án này để có thể xem xem trong thập kỷ này chúng ta có thể nắm được trong tay chúng ta công thức cho vũ trụ của chúng ta hay không và để biết được rằng vũ trụ chúng ta nằm ở đâu trong khoảng không gian của các vũ trụ -- và để ta có thể gõ vào Wolfram Alpha "thuyết vũ trụ" và bắt nó trả lời cho chúng ta.

Not an easy project. One's got to build a lot of technology. One's got to build a structure that's probably at least as deep as existing physics. And I'm not sure what the best way to organize the whole thing is. Build a team, open it up, offer prizes and so on. But I'll tell you, here today, that I'm committed to seeing this project done, to see if, within this decade, we can finally hold in our hands the rule for our universe and know where our universe lies in the space of all possible universes ... and be able to type into Wolfram Alpha, "the theory of the universe," and have it tell us. 

16:53
(Tiếng cười)

16:56
Tôi đã làm việc với cái ý tưởng về các phép toán đã hơn 30 năm nay, xây dựng các công cụ và phương pháp và biến các ý tưởng thành hàng triệu các dòng lệnh và thành lúa mỳ cho các nông trại các máy chủ và vân vân. Cứ mỗi năm trôi qua, tôi càng hiểu thêm rằng ý tưởng về sự tính toán hùng mạnh đến cỡ nào. Nó đã đem ta đi rất xa nhưng còn rất nhiều thứ nữa đang đợi chờ. Từ các nền tảng khoa học cho đến các giới hạn về công nghệ đến tận định nghĩa về điều kiện của con người, tôi nghĩ rằng các phép tính toán đã được định chức phận để trở thành một ý tưởng xác định của tương lai chúng ta.

So I've been working on the idea of computation now for more than 30 years, building tools and methods and turning intellectual ideas into millions of lines of code and grist for server farms and so on. With every passing year, I realize how much more powerful the idea of computation really is. It's taken us a long way already, but there's so much more to come. From the foundations of science to the limits of technology to the very definition of the human condition, I think computation is destined to be the defining idea of our future. 

17:27
Cảm ơn các bạn.
Thank you.

17:29
(Applause)
17:29
(Vỗ tay)

17:43
Chris Anderson: Thật là kinh ngạc. Anh đứng lại đây chút. Tôi có một câu hỏi.

Chris Anderson: That was astonishing. Stay here. I've got a question. 

17:47
(Vỗ tay)

(Applause)

17:53
Bài nói của anh thật đáng kinh ngạc. Anh có thể nói trong một hai câu làm sao để kiểu suy nghĩ này có thể một lúc nào đó hòa nhập với những thứ như thuyết dây và những thứ mà người ta cho rằng là những lời giải thích căn bản cho vũ trụ?

 So, that was, fair to say, an astonishing talk. Are you able to say in a sentence or two how this type of thinking could integrate at some point to things like string theory or the kind of things that people think of as the fundamental explanations of the universe? 

18:10
Stephen Wolfram: Thì, các phần về vật lý mà chúng ta đã biết là đúng, những thứ như các mô hình vật lý cơ bản. Những gì tôi đang cố gắng làm là tái tạo lại một mô hình chuẩn cho vật lý nếu không thì sai hẳn. Những thứ mà người ta đã cố làm trong vòng 25 năm qua với thuyết dây và vân vân đã là một sự khám phá thú vị mà đã cố gắng quay trở lại với mô hình tiêu chuẩn nhưng chưa hẳn đến nơi. Tôi cho rằng với một ít sự đơn giản hóa những gì tôi đang làm có thể sẽ có phần nào cộng hưởng với những gì đã được làm với thuyết dây, nhưng đó là một thứ phức tạp liên quan đến toán mà tôi không biết nó sẽ ra sao nữa.

Stephen Wolfram: Well, the parts of physics that we kind of know to be true, things like the standard model of physics: what I'm trying to do better reproduce the standard model of physics or it's simply wrong. The things that people have tried to do in the last 25 years or so with string theory and so on have been an interesting exploration that has tried to get back to the standard model, but hasn't quite gotten there. My guess is that some great simplifications of what I'm doing may actually have considerable resonance with what's been done in string theory, but that's a complicated math thing that I don't yet know how it's going to work out.


18:46
CA: Benoit Mandlebrot đang ở trong hội trường. Ông ấy cũng đã cho thấy sự phức tạp cũng có thể xuất hiện từ đầu. Công việc của anh có liên quan đến điều đó không?

 CA: Benoit Mandelbrot is in the audience. He also has shown how complexity can arise out of a simple start. Does your work relate to his?   

18:54
SW: Tôi nghĩ là có. Tôi xem công việc của Benoit Mandlebrot như sự đóng góp nền tảng cho lĩnh vực này. Benoit đã rất chú ý đến các mô hình lồng nhau, "fractal" và vân vân nơi mà cấu trúc là một thứ gì đó giống như mô hình cây và nơi mà có một nhánh lớn sẻ ra các nhánh nhỏ và thậm chí thêm các nhánh nhỏ khác và vân vân. Đó là một trong những cách mà bạn tiến đến sự phức tạp thật sự. Tôi nghĩ rằng những thứ như Công thức 30 dẫn chúng ta đến một cấp bậc khác. Thật ra, cách mà chúng ta lên một cấp bậc khác bởi vì chúng là những thứ phức tạp phức tạp thật sự.

 SW: I think so. I view Benoit Mandelbrot's work as one of the founding contributions to this kind of area. Benoit has been particularly interested in nested patterns, in fractals and so on, where the structure is something that's kind of tree-like, and where there's sort of a big branch that makes little branches and even smaller branches and so on. That's one of the ways that you get towards true complexity. I think things like the Rule 30 cellular automaton get us to a different level. In fact, in a very precise way, they get us to a different level because they seem to be things that are capable of complexity that's sort of as great as complexity can ever get ...    

19:40
Tôi có thể nói thêm nhiều, nhưng tôi sẽ dừng ở đây

I could go on about this at great length, but I won't. (Laughter) (Applause) 

19:43
CA: Stephen Wolfram, cảm ơn anh.

CA: Stephen Wolfram, thank you.

19:45
(Vỗ tay)
(Applause) 


Translated by LD .
Reviewed by Ha Tran

Nguồn :  http://www.ted.com/speakers/stephen_wolfram


.-------------------------------------------------------------------------------------------

Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

Geothe



Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2015

TÌM HIỂU VỀ STEM .




TÌM HIỂU VỀ STEM




I . TỔNG QUAN VỀ STEM




1. Sơ lược vài nét về STEM .

STEM là gì? Đó là từ viết tắt của khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Nhưng trong khi từ mẫu giáo đến lớp 12 việc giáo dục thường tập trung vào khoa học hay toán học theo cách độc lập, thì tất cả bốn lĩnh vực đó lại được quyện chặt vào nhau trong thế giới thực. Hãy tưởng tượng nếu các học sinh K-12 đều được giảng dạy theo cách nêu bật những kết nối này, nó sẽ làm cho nền tảng giáo dục sẽ có liên quan nhiều hơn đến cuộc sống của họ và mở rộng cánh cửa đến những sự nghiệp mới mẻ và hết sức thú vị.


2. Mô tả cách tiếp cận phương pháp giảng day STEM .

Dưới đây là một đoạn video trình bày về thực hành STEM .

 Tiến sĩ Diana Wehrello-Grabowski hướng dẫn thực hành-truyền đạt , những yêu cầu và tiêu chuẩn dựa trên chương trình đào tạo giáo viên STEM tại Hoa Kỳ và trên thế giới. Trong các powerpoint /bộ phim đào tạo giáo viên STEM sau đây tiến sĩ Diana Wehrell-Grabowski cung cấp hình ảnh và video của các giáo viên tiến hành khảo sát thực hành STEM. Giáo viên được giới thiệu về thực hành và nội dung STEM , quá trình thiết kế kỹ thuật, nhật ký phản ảnh trong lớp học STEM, và cách thức giáo dục STEM giúp cho việc xây dựng chuẩn 4C: sáng tạo, tư duy phê phán, giao tiếp và hợp tác. Trong các buổi tập huấn giáo viên STEM , tiến sĩ Wehrell-Grabowski hướng dẫn các giáo viên đang tích cực tham gia vào quá trình học, điều này sẽ làm họ thay đổi cách tiếp cận những vấn đề giáo dục. Tiến sĩ Wehrell-Grabowski tin rằng STEM sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi giáo dục ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Theo truyền thống, hệ thống giáo dục của chúng ta đã không được phép hoặc không khuyến khích sự sáng tạo, tư duy phê phán, giao tiếp và hợp tác trong các sinh viên hoặc các giáo viên. Giáo dục STEM thực sự có thể là một trong những câu trả lời để chuyển đổi hệ thống giáo dục và nguồn nhân lực lao động trong tương lai .




3. Ý nghĩa của  STEM đối với sự phát triển quốc gia .

Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, và Toán học (STEM, trước đây được viết tắt SETM) là một nền giáo dục nhóm được sử dụng tại Hoa Kỳ. Các từ viết tắt dùng để chỉ các môn học của khoa học (science) , công nghệ (technology), kỹ thuật(engineering) và toán học(mathematics). Thuật ngữ này thường được sử dụng khi giải quyết các chính sách giáo dục và chương trình giảng dạy trong nhà trường lựa chọn để cải thiện năng lực cạnh tranh trong phát triển khoa học và công nghệ.

Nó có ý nghĩa đối với việc phát triển nhân lực, vấn đề an ninh quốc gia và chính sách nhập cư. Các chữ viết tắt nảy  được sử dụng phổ biến thời gian ngắn sau khi một cuộc họp liên ngành về khoa học giáo dục được tổ chức tại Quỹ Khoa học Quốc gia (sau đó là NSF) dưới sự chủ trì của Giám đốc Rita Colwell.
Giám đốc của Văn phòng Khoa học và phát triển nhân lực Giáo viên và Khoa học gia đã đề xuất các thay đổi từ viết tắt SMET cũ thành STEM. Tiến sĩ Colwell, tỏ ra không thích các từ viết tắt cũ, trả lời bằng cách gợi ý NSF nên khởi đầu sự thay đổi. Một trong những dự án NSF đầu tiên sử dụng các từ viết tắt là STEMTEC nghĩa là Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Hợp tác Giáo dục giữa giáo viên Toán  tại Đại học Massachusetts Amherst, được chính phủ Hoa Kỳ  tài trợ trong năm 1997.

II. NỀN TẢNG STEM TẠI HOA KỲ

Image result for stem education

Tại Hoa Kỳ, các từ viết tắt này bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong các các cuộc tranh luận về chính sách giáo dục và nhập cư trong các sáng kiến để bắt đầu giải quyết sự thiếu nhận thức của các ứng cử viên đủ hoặc chưa đủ tiêu chuẩn cho công việc công nghệ cao.
Nó cũng giải quyết mối quan tâm mà các môn học thường được giảng dạy một cách độc lập, thay vì như một chương trình giảng dạy tích hợp. Việc đào tạo và duy trì một công dân thành thạo trong các lĩnh vực STEM là một phần quan trọng của chương trình giáo dục công của Hoa Kỳ. STEM cũng đã trở thành phổ biến trong các cuộc thảo luận giáo dục như là một tham chiếu về tình trạng thiếu hụt công nhân lành nghề và có một nền giáo dục chưa đầy đủ trong các lĩnh vực này.


1. Quỹ Khoa học Quốc gia (National Science Foundation NSF) .

Nhiều tổ chức tại Hoa Kỳ tuân thủ theo hướng dẫn của Quỹ khoa học quốc gia về cấu trúc của lĩnh vực STEM. NSF sử dụng một định nghĩa rộng hơn của các đối tượng STEM bao gồm các đối tượng trong các lĩnh vực hóa học, khoa học máy tính và công nghệ thông tin, kỹ thuật, khoa học địa chất, khoa học đời sống, khoa học toán học, vật lý và thiên văn học, khoa học xã hội (nhân học, kinh tế học, tâm lý học và xã hội học),  giáo dục STEM và nghiên cứu học tập.
Quỹ khoa học quốc gia tài trợ các dự án nghiên cứu .


Điều kiện cho chương trình học bổng như Chương trình học giả STEM CSM cũng sử dụng các định nghĩa của NSF. Đó là các cơ quan liên bang Mỹ chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ cho tất cả các lĩnh vực khoa học cơ bản và kỹ thuật, ngoại trừ đối với khoa học y tế. Các hoạt động về lĩnh vực chương trình này bao gồm học bổng, trợ cấp, giải thưởng tài trợ trong các lĩnh vực như khoa học sinh học, máy tính và thông tin khoa học và kỹ thuật, giáo dục và nguồn nhân lực, kỹ thuật, nghiên cứu môi trường và giáo dục, khoa học địa chất, khoa học và kỹ thuật quốc tế, khoa học toán học và vật lý, khoa học xã hội, hành vi và kinh tế, hạ tầng điều khiển (cyberinfrastructure) và các chương trình địa cực.

Thông qua việc thực hành, học tập trong lớp học theo dự án, học sinh tìm hiểu làm thế nào để áp dụng những kỹ năng đã học trong môn toán và khoa học áp dụng vào thực tế


2. Trình độ STEM - chuẩn điều kiện nhập cư vào Hoa Kỳ .


Một danh sách đầy đủ của các ngành STEM không tồn tại vì nhiều định nghĩa khác nhau của những tổ chức khác nhau. Bộ di trú nhập cư và Hải quan Hoa Kỳ đưa ra các danh sách môn học bao gồm : vật lý, khoa học tính toán bảo hiểm, hóa học, sinh học, toán học, toán học ứng dụng, thống kê, khoa học máy tính, khoa học tính toán , tâm lý học, hóa sinh, robotics , kỹ thuật máy tính, kỹ thuật điện, điện tử, cơ khí , kỹ thuật công nghiệp, khoa học thông tin, công trình dân dụng, kỹ thuật hàng không vũ trụ, công nghệ hóa học, vật lý thiên văn, thiên văn học, quang học, công nghệ nano, vật lý hạt nhân, sinh học toán học, hoạt động nghiên cứu thần kinh học, cơ chế sinh học, vi sinh học, kỹ thuật âm thanh, hệ thống thông tin địa lý, khoa học khí quyển, giáo dục công nghệ / giảng dạy, kỹ thuật phần mềm, và nghiên cứu giáo dục.


3. Giáo dục và nền tảng STEM .

STEM thường hỗ trợ cho sự mở rộng các nghiên cứu về kỹ thuật theo từng đối tượng khác , và bắt đầu với kỹ thuật ở lớp trẻ, thậm chí còn ở cấp tiểu học. Nó cũng mang lại giáo dục STEM cho tất cả sinh viên thay vì chỉ là các chương trình năng khiếu. Trong ngân sách năm 2012 của mình, Tổng thống Barack Obama đổi tên và mở rộng chương trình  "Toán học và  Đối tác Khoa học  (Mathematics and Science Partnership-MSP)" để trao giải khối tài trợ cho các tiểu bang trong việc cải thiện quy trình đào tạo giáo viên trong các môn học.
Vào năm 2006 Viện Hàn lâm Hoa Kỳ bày tỏ quan ngại của họ về tình trạng suy giảm của nền giáo dục STEM tại Hoa Kỳ. Ủy ban Khoa học Kỹ thuật và chính sách công đã phát triển một danh sách gồm 10 hành động. Top ba hành động khuyến nghị của họ là :

   - Gia tăng quỹ tài năng Hoa Kỳ bằng cách cải tiến giáo dục khoa học và  toán học K-12 .
   - Tăng cường kỹ năng của giáo viên thông qua đào tạo bổ sung về kiến thức khoa học, toán học và công nghệ .
   - Khuyếch trương các kênh cung cấp sinh viên chuẩn bị bước vào đại học và sau đại học với cấp độ STEM .

Cơ quan hàng không và không gian quốc gia (NASA) cũng đã thực hiện các chương trình song song cùng với chương trình giảng dạy để nâng cao giáo dục STEM nhằm bổ sung nguồn các khoa học gia , kỹ sư và toán học gia , những người sẽ dẫn dắt chương trình khám phá vũ trụ trong thế kỷ 21.

Du thuyền thám hiểm vũ trụ NASA


Từng tiểu bang, như California, đã thực hiện thí điểm chương trình sau học tập STEM , ví dụ, để tìm hiểu những quy trình thực hành nào có nhiều hứa hẹn nhất và làm thế nào để thực hiện chúng nhằm mục đích tăng cơ hội thành công của học sinh. Nền giáo dục STEM đã và đang tiếp tục mở rộng đến cấp độ sau trung học và đại học thông qua các chương trình thạc sĩ như chương trình STEM của đại học Maryland cũng như trường đại học Cincinnati.

4. Sáng kiến ​​cạnh tranh Hoa Kỳ .

Trong diễn văn Chính phủ Liên Bang ngày 31 Tháng 1 năm 2006, Tổng thống George W. Bush tuyên bố Sáng kiến ​​Cạnh tranh Mỹ. Bush đã đề xuất các sáng kiến ​​để giải quyết sự thiếu sót trong việc hỗ trợ của chính phủ liên bang về phát triển giáo dục và tiến bộ ở tất cả các cấp học trong các lĩnh vực STEM. Cụ thể, sáng kiến này kêu gọi gia tăng về ngân sách liên bang cho các chương trình R & D tiên tiến (bao gồm cả tăng gấp đôi kinh phí hỗ trợ liên bang cho nghiên cứu chuyên sâu trong khoa học vật lý thông qua DOE) và gia tăng số lượng sinh viên tốt nghiệp đại học trong các ngành STEM ở Mỹ .

Sự cạnh tranh về kinh doanh các phương tiện NASA , được tài trợ bởi Texas Space Grant Consortium, cũng nhằm đẩy xa hơn nữa mục tiêu đó. Sinh viên đại học được đào tạo trong môi trường cạnh tranh để phát triển các kế hoạch , khuyến khích học sinh trung học đại học và cao học nghiên cứu các môn học STEM và truyền cảm hứng cho các giáo sư trong các lĩnh vực STEM để học sinh tham gia vào các hoạt động tiếp cận cộng đồng hỗ trợ giáo dục STEM.

Học viện STEM là một tổ chức quốc gia phi lợi nhuận - dành cho việc nâng cao STEM , xóa mù chữ cho tất cả học sinh. Học viện này đại diện cho một mô hình học thuật quốc gia được công nhận về tác động cao đến thế hệ tiếp nối . Các tập quán , chiến lược và chương trình đều được xây dựng trên một nền tảng của thực hành quốc gia xác định tốt nhất  được thiết kế để cải thiện việc thu ngắn khoảng cách thành tích thiểu số , giảm lượng sinh viên có thu nhập thấp,, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, tăng tỷ lệ tốt nghiệp trung học và cải thiện giáo viên và kèm theo những hiệu quả thực tế thông qua việc giáo dục STEM . Học viện STEM là một mô hình học tập sử dụng linh hoạt nhằm vào tất cả các trường học và dành cho tất cả học sinh , sinh viên.
Học sinh Hoa Kỳ tham gia Dự án khai mở PLTW


Dự án khai mở - Project Lead The Way (PLTW) được xem như  là một nhà cung cấp hàng đầu về các chương trình ngoại khóa giáo dục STEM cho các trường trung học tại Hoa Kỳ. Các tổ chức phi lợi nhuận quốc gia có hơn 5.200 chương trình , có mặt tại hơn 4.700 trường học ở tất cả 50 tiểu bang. Chương trình này bao gồm một chương trình giảng dạy trung học kỹ thuật được gọi là Quỹ đạo Kỹ thuật - Pathway Engineering, một chương trình khoa học y sinh cấp trung học phổ thông , và một chương trình kỹ thuật công nghệ cấp trung học cơ sở gọi là   Nhập môn Công nghệ - Gateway To Technology. PLTW cung cấp chương trình giảng dạy và phát triển chuyên môn  giáo viên đồng thời hỗ trợ liên tục để tạo ra các chương trình chuyển đổi trong các trường học, các quận hạt , và các cộng đồng. Chương trình PLTW đã được xác nhận bởi Tổng thống Barack Obama và  Bộ trưởng Giáo dục Hoa Kỳ Arne Duncan cũng như nhiều lãnh đạo chính phủ các cấp , quốc gia, và giới chức lãnh đạo hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh .
Chương trình Đường vào công nghệ dành cho học sinh trung học cơ sở .

5. Các tổ chức và liên minh giáo dục STEM.

Liên minh Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học (STEM) và Giáo dục đã hoạt động để hỗ trợ các chương trình STEM cho giáo viên và học sinh tại Bộ Giáo Dục Hoa Kỳ, Quỹ Khoa học Quốc gia và các cơ quan khác cung cấp các chương trình STEM liên quan . Thông qua việc thực hành, học tập trong lớp học theo dự án, học sinh tìm hiểu làm thế nào để áp dụng những kỹ năng đã học trong môn toán và khoa học để áp dụng vào thực tế . Hoạt động của Liên minh STEM dường như đã chậm lại kể từ tháng 9 năm 2009 nhưng có chiều hướng tăng trưởng trở lại trong những năm gần đây 2012-2015 .



6.  STEM và Tổ chức Hướng Đạo Sinh Hoa Kỳ.

Tổ chức Hướng Đạo Sinh Hoa Kỳ  đã công bố các văn kiện của chương trình giải thưởng trong mùa xuân năm 2012 để thúc đẩy hơn nữa sự quan tâm và tham gia của thành viên trong các lĩnh vực STEM. Các giải thưởng NOVA và SUPERNOVA dành cho Hướng Đạo Sinh Thiếu Niên , Hướng Đạo Sinh Ấu Niên và Hướng Đạo Sinh Tráng Niên khi họ hoàn thành các yêu cầu cụ thể phù hợp với cấp độ chương trình của họ thuộc một trong bốn lĩnh vực chương trình STEM chính : Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, và Toán.

Một buổi thảo luận về mô hình Robotic của các Hướng Đạo Sinh Thiếu Niên 


Giảng dạy về khám phá không gian cho các Hướng Đạo Sinh Ấu Nhi


Rất nhiều ví dụ điển hình cho chương trình liên kết STEM và Tổ chức Hướng Đạo như sự hợp tác giữa Tiến sĩ Dave Hairston, một nhà nghiên cứu thần kinh học cùng với Trung tâm nghiên cứu ARL's Human và Giám đốc kỹ thuật, giới thiệu cho Hướng Đạo Sinh Thiếu Niên về trạng thái thần kinh quá độ bằng cách sử dụng tai nghe và laptop trong chương trình  do các tình nguyện viên đứng ra tổ chức .

Dave Hairston , tiến sĩ thần kinh học và các Hướng Đạo Sinh Ấu Nhi


Trại hè Hướng Đạo tháng 5-2015 tại St . Louis với chủ đề gắn kết với STEM đã được tổ chức cùng với sự hợp tác giữa nhiều trường đại học , tổ chức nghiên cứu , cơ quan giáo dục tiểu bang và liên bang .


Biểu tượng của Trại hè Hướng Đạo tháng 5 - 2015


7. Các chương trình thuộc Bộ quốc phòng Hoa Kỳ.

Các đặc vụ điều khiển học-điện tử (Ecybermission) là cuộc tranh tài tự do về những nội dung như  khoa học web, toán học và công nghệ dành cho học sinh từ lớp sáu đến chín được tài trợ bởi quân đội Mỹ. Mỗi webinar được tập trung vào một bước khác nhau của các phương pháp khoa học và được trình bày bởi một Hướng dẫn viên đặc vụ điều khiển học-điện tử  (eCYBERMISSION CyberGuide) có kinh nghiệm. CyberGuides là  những tình nguyện viên quân sự và dân sự với một nền tảng mạnh mẽ về STEM và giáo dục STEM , những người này có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc có giá trị về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học cho sinh viên và các cố vấn đội nhóm .

Một buổi huấn luyện thể lực-kỹ năng trong chương trinh Ecybermission .

Đại sứ cho chương trình này là những người thuộc các tổ chức dân sự hay quân sự , có nhiệm vụ thúc đẩy các chương trình eCYBERMISSION trong cộng đồng của họ. Đại sứ cũng có thể tình nguyện như một CyberGuide. Tất cả các Đại sứ sẽ cần phải có một nền tảng STEM và phải đạt yêu cầu kiểm tra được tiến hành bởi eCYBERMISSION trước khi bắt đầu vai trò của họ như là một tình nguyện viên.

Vai trò của một đại sứ eCYBERMISSION thường là
    -Thăm viếng các trường học trong cộng đồng của họ nhằm mục đích khuyến khích sự tham gia và tìm kiếm các cơ hội , học bổng cho học sinh , sinh viên .
    -Tìm kiếm các cơ quan giáo dục STEM hoặc các tổ chức thiện chí để giúp thúc đẩy các chương trình và sự tham gia liên kết trong tương lai;
    -Tuyển dụng các đồng nghiệp và bạn bè tham gia tình nguyện cho chương trình, hình thành nên các đội nhóm hỗ trợ STEM .


Jonathan Berman, Benjamin Kotzubei và Austin Veseliza trình bày cho Tổng thống Obama về dự án của các em trong eCYBERMISSION.

STARBASE là chương trình giáo dục hàng đầu, được tài trợ bởi Văn phòng Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về công vụ hậu cần . Học sinh sẽ được tương tác với các nhân viên quân sự , các sĩ quan , tướng lĩnh cao cấp để khám phá nghề nghiệp và kết nối khoa học với "thế giới thực". Chương trình cung cấp cho học sinh , sinh viên từ 20-25 giờ nhằm kích thích tiềm năng , thu thập kinh nghiệm tại Lực lượng cảnh vệ Quốc gia , Hải quân, Thủy quân lục chiến, Khu bảo tồn Không quân và các căn cứ không quân trên toàn quốc.

SEAPERCH là  chương trình nghiên cứu robot dưới nước tiên tiến , đào tạo giáo viên dạy cho học sinh của mình cách thức thiết kế , vận hành một chiếc xe điều khiển từ xa dưới nước (remotely operated vehicle -ROV) trong các buổi học chính trong trường học hoặc ngoài giờ . Học sinh sẽ xây dựng các ROV từ những bộ lắp ghép chi phí thấp, các bộ phận dễ dàng tháo ráp , tiếp sau đó là một chương trình giảng dạy d0a8c biệt về kỹ thuật và khoa học , các khái niệm cơ bản về chủ đề kỹ thuật hàng hải.

8. Các quy định về Luật pháp Hoa Kỳ về STEM .

Đạo luật cạnh tranh Hoa Kỳ 2007: Đạo luật cạnh tranh Mỹ (PL 110-69) có hiệu lực vào ngày 9 tháng 8, 2007. Đạo luật này đáp ứng mối quan tâm rằng Hoa Kỳ có thể không có khả năng cạnh tranh kinh tế với các quốc gia khác trong tương lai do không đủ đầu tư ngày hôm nay trong nghiên cứu khoa học và công nghệ và khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) giáo dục và phát triển lực lượng lao động. Luật cạnh tranh Mỹ là nhằm tăng cường đầu tư của quốc gia trong nghiên cứu khoa học và kỹ thuật và giáo dục STEM từ mầm non đến sau đại học và giáo dục bậc sau tiến sĩ.

Đạo luật cho phép tăng cường tài trợ cho Quỹ Khoa học Quốc gia, Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ phòng thí nghiệm , và Bộ Năng lượng (DOE) Văn phòng Khoa học từ năm ngân sách 2008 - 2010. Robert Gabrys, Giám đốc Giáo dục tại Goddard Space Flight Center của NASA, đã liên kết thành công với kết quả gia tăng thành tích học sinh, những biểu hiện sớm của học sinh quan tâm đến các môn STEM, và việc chuẩn bị cho sinh viên khi làm việc .

Vào tháng Giêng năm 2014, tiểu ban Nghiên cứu và Công nghệ Hạ viện Mỹ đã tổ chức một buổi điều trần để xem xét các chương trình giáo dục STEM do khu vực tư nhân thực hiện . Trong năm 2014 chính phủ liên bang Mỹ lên kế hoạch chi tiêu 3 tỷ USD về các chương trình giáo dục STEM thông qua một loạt các cơ quan liên bang.


9. Tác động của STEM và việc làm tại Hoa Kỳ .

Tháng 11 năm 2012 thông báo của Nhà Trắng trước cuộc bỏ phiếu của Quốc hội về Đạo luật Việc làm STEM  khiến Tổng thống Obama đối lập với rất nhiều các công ty Silicon Valley và các giám đốc điều hành , là người cấp vốn cho chiến dịch tái tranh cử của ông . Bộ Lao động xác định 14 lĩnh vực được "dự kiến để tăng thêm số lượng đáng kể việc làm mới cho nền kinh tế, hoặc ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của ngành công nghiệp khác hoặc đang bị biến đổi bởi công nghệ và đổi mới đòi hỏi phải tập trung đào tạo những kỹ năng mới cho người lao động ". Các lĩnh vực được xác định như sau: công nghệ sản xuất tiên tiến, Ô tô, xây dựng, dịch vụ tài chính, công nghệ địa lý không gian , an ninh quốc gia, công nghệ thông tin, giao thông vận tải, hàng không vũ trụ, công nghệ sinh học, năng lượng, y tế, khách sạn, và thương mại bán lẻ.

Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã  lưu ý rằng các nghề nghiệp có liên quan đến lĩnh vực STEM là một số trong những việc làm có tiền lương tốt nhất và có tiềm năng lớn nhất cho sự tăng trưởng việc làm trong những năm đầu thế kỷ 21. Báo cáo cũng lưu ý rằng công nhân STEM đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững và ổn định của nền kinh tế Mỹ, và đào tạo trong các lĩnh vực STEM nói chung kết quả vẫn có được mức lương cao hơn, dù có hoặc không làm việc trong một môi trường STEM.


III. MỘT SỐ TỔ CHỨC TRONG GIÁO DỤC STEM TẠI HOA KỲ

http://www.nsf.gov/nsb/sei/edTool/  trang web tài nguyên giáo dục STEM, nơi bạn có thể khám phá được kết luận cho những câu hỏi quan trọng về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) giáo dục và nghề nghiệp bằng cách sử dụng thông tin từ báo cáo Hội đồng Khoa học và chỉ số kỹ thuật Quốc gia.

http://www.stemedcoalition.org/  trang web của Liên minh giáo dục STEM với mục đích hoạt động tích cực để nâng cao nhận thức trong Quốc hội, Cục Quản lý, và các tổ chức khác về vai trò quan trọng của STEM trong giáo dục nhằm triển khai thực hiện mục tiêu Mỹ sẽ vẫn là nhà lãnh đạo kinh tế và công nghệ của các thị trường toàn cầu của thế kỷ 21. Liên Minh được tổ chức theo hình thức và cấu trúc như một tổ chức phi lợi nhuận 501c4.

http://www.definedstem.com/  website  giáo dục cho học sinh K-12 kết hợp công nghệ, sáng tạo, xây dựng chương trình đào tạo và chuyên môn để cung cấp sản phẩm hữu ích và có liên quan đến trường học , các nền tảng cho phép giáo viên có thể áp dụng các kiến ​​thức khoa học cho học sinh thông qua việc sử dụng các dự án dựa vào học tập, nghề nghiệp trong thế giới thực .

http://www.ndep.us/  Chương trình Giáo dục Quốc phòng với mục tiêu xây dựng nền tảng cho các nhu cầu của lực lượng lao động tương lai của Bộ Quốc phòng bằng cách hỗ trợ các chương trình khoa học và toán học tại ba cấp học: dự bị-đại học, cao đẳng - đại học, và sau tiến sĩ.

http://www.nianet.org/?s=+STEM Viện hàng không vũ trụ quốc gia (NIA) là một viện nghiên cứu giáo dục phi lợi nhuận được thành lập ra để tiến hành những công trình nghiên cứu hàng không vũ trụ và khí quyển tiên tiến , tìm kiếm phát triển công nghệ mới cho nhu cầu quốc gia và giúp truyền cảm hứng cho thế hệ tiếp nối các khoa học gia và các kỹ sư.

http://www.stemschool.com/   tập trung vào các môn học STEM nhằm giúp đỡ học sinh , sinh viên đạt được những kỹ năng cần thiết thành công trong thế giới đầy thách thức hiện nay. Điều này bao gồm khả năng tư duy phê phán, giải quyết các vấn đề phức tạp, và đạt được tiến bộ trong khoa học và công nghệ.

http://stemcareer.com/  nhằm đáp ứng nhu cầu đối với người lao động có tay nghề cao trong khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) có liên quan chặt chẽ đến khả năng cạnh tranh toàn cầu. Web site này có chức năng tư vấn cho sinh viên đồng thời truyền cảm hứng để giải quyết những vấn đề trong khi thúc đẩy sự nghiệp STEM .



Trần hồng Cơ 
Ngày 20/10/2105

Nguồn  :
https://en.wikipedia.org/wiki/Science,_Technology,_Engineering,_and_Mathematics#cite_note-1
https://www.ecybermission.com/Roles
http://ecybermission.blogspot.com/2010_10_01_archive.html
http://www.asbmb.org/asbmbtoday/asbmbtoday_article.aspx?id=6766
https://www.govtrack.us/congress/bills/110/hr2272/tex

-------------------------------------------------------------------------------------------

 Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

 Geothe

Thứ Hai, 19 tháng 10, 2015

VŨ QUỐC PHÓNG - Nhà toán học xuất sắc của Việt Nam .

Ý kiến của GS Vũ Quốc Phóng, Giáo sư Toán học, Đại học Ohio, Hoa Kỳ

18/08/2011 08:23:43
Đào tạo từ xa đã có từ hàng trăm năm nay qua các phương tiện khác nhau như gửi thư, truyền hình,…, nhưng từ khi có Internet thì phương tiện chủ yếu được áp dụng trong đào tạo từ xa là Internet, qua text, âm thanh, hình ảnh, video, mô phỏng và các phần mềm hỗ trợ trên nền Web (web based learning). Cách học này thường hay được gọi là e-learning. Từ khi xuất hiện vào cuối những năm 90’s, e-learning đã mở ra những kỳ vọng lớn về những thay đổi có tính chất cách mạng trong giáo dục. Nhiều công ty, trường đại học và nhà đầu tư mạo hiểm đã đầu tư hàng chục tỷ đô la Mỹ vào e-learning.
Tuy nhiên, “bong bóng” e-learning đã vỡ, cùng một lúc với bong bóng dot.com. Song điều đó không phủ nhận vai trò và ý nghĩa của e-learning trong giáo dục, cũng như việc bong bóng dot.com vỡ không phủ nhận sự phát triển, ý nghĩa và vai trò của Internet trong cuộc sống hiện tại. Thực tế là đào tạo từ xa và e-learning vẫn tiếp tục phát triển mạnh ở khắp các trường đại học trên thế giới và đặc biệt là ở Mỹ [1]. Hầu hết các trường ĐH ở Mỹ đều có các chương trình dạy qua mạng cho một số môn, và thậm chí có hẳn cả một số chương trình học có thể học được qua mạng hoàn toàn. Nhiều công ty kinh doanh đào tạo qua mạng phất lên khá nhanh, tiêu biểu như Universityof Phoenix Online[2].
Người ta thấy rõ hơn những sai lầm mắc phải trong thời kỳ đầu triển khai e-learning, tìm thấy vị trí của công nghệ như là công cụ hỗ trợ, như là môi trường để tiến hành việc học, nó không thay thế được bản thân việc dạy và học [3].
Khi áp dụng công cụ e-learning để dạy và học, đặc biệt là để học từ xa, người thầy và học sinh cần phải đồng thời thay đổi một số thói quen thường thấy trong các phương pháp dạy và học truyền thống lấy người thầy làm trung tâm, bằng phương pháp học mới lấy học sinh làm trung tâm. Nói cách khác, từ chỗ tiếp thu kiến thức một cách thụ động, học sinh nay sẽ phải chủ động tìm tòi, khai thác các nguồn thông tin từ sách báo, Internet,…, và biến nó thành kiến thức của mình, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo.
Trên thực tế để thực hiện được như trên một cách thường xuyên là một việc khó. Vì thế vẫn còn có nhiều người hoài nghi, một cách có cơ sở, về chất lượng của học từ xa [4]. Bản thân tôi cũng cho rằng học từ xa không phải là cách học tốt nhất. Ví dụ, nếu muốn trở thành một nhà kinh tế học, chắc chắn rằng được học ở một trường nổi tiếng ở Mỹ như đại học Harvard hay Yale, theo tôi, sẽ tốt hơn là theo học bất kỳ một chương trình đào tạo từ xa thuần túy nào. Việc được tiếp xúc trực tiếp với các nhà khoa học lớn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của một cá nhân.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay, cho dù một học sinh có học ở trường lớn đến đâu chăng nữa, kể cả đó là đại học Harvard hay Yale, thì cũng phải biết áp dụng cách học từ xa, áp dụng e-learning. Vì, như Giáo sư Tạ Quang Bửu nói: "Trình độ đại học là trình độ biết tự học”. Trong thời đại Internet, tự học phần lớn là tự học qua mạng: qua google, wikipedia, chats, forums, blogs, v.v…
Nếu biết khai thác những mặt mạnh và triệt để khắc phục những mặt kém, thì đào tạo từ xa bằng e-learning có thể là một phương pháp đào tạo có hiệu quả. Đặc biệt, trong điều kiện như ở Việt Nam hiện tại, khi đội ngũ các giảng viên có trình độ cao ở trong nước chưa nhiều, khi chúng ta muốn sử dụng những giảng viên đại học và chuyên gia người Việt ở nước ngoài để đào tạo cấp đại học và trên đại học, thì đào tạo từ xa và e-learning có thể xem là phương pháp tương đối khả thi.
Trích từ Đề án xây dựng đại học từ xa chất lượng cao của GS Vũ Quốc Phóng, Giáo sư Toán học, Đại học Ohio, Hoa Kỳ (www.ewiu.org)
[1] Xem http://chronicle.com/weekly/v53/i34/34a04901.htm
[2] Universityof Phoenixonline là thành viên của Appolo Group (NQSDQ:APOL).
[3] Xem http://chronicle.com/weekly/v53/i18/18b02001.htm
[4] Xem http://chronicle.com/weekly/v52/i30/30a03801.htm

 

Sơ lược thông tin về giáo sư, tiến sỹ Vũ Quốc Phóng

Bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1978 (ở tuổi 24) tại Đại học (ĐH) Kharkov (Ukraine), sau một thời gian công tác ở Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam (Viện Toán), TS. tiếp tục làm nghiên cứu sinh và đã thành công với luận án tiến sĩ khoa học toán lý – học vị cao nhất của Liên Xô vào năm 1987. Năm 1992, ông “đầu quân” về ĐH Ohio (Hoa Kỳ), được phong phó (1993) và là chính thức từ năm 1999. Ông cũng được nhiều trường đại học của Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Hàn Quốc…mời làm thỉnh giảng. Trong chuyến về nước vừa qua, ông đã dành cho DNSG một cuộc trao đổi về đề tài giáo dục đại học.
634995047773210465 Sơ lược thông tin về giáo sư, tiến sỹ Vũ Quốc Phóng
Ông nhận xét gì về các vấn đề của giáo dục đại học Việt Nam?
Nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là giáo dục đại học, đang thực sự là mối quan tâm lo lắng của công chúng. “Căn bệnh” của nền giáo dục hiện nay, với các biểu hiện và nguyên nhân, đã được nhiều người chỉ ra. Các nhà khoa học đều biết rằng những vấn đề được đặt ra quá sớm, khi các điều kiện khách quan chưa chín muồi để giải quyết, thì sẽ không thực hiện được. Theo đuổi các vấn đề này sẽ làm lãng phí thời gian và công sức mà đáng ra có thể sử dụng để giải quyết các bài toán khác được đặt ra đúng thời điểm, tuy có thể nhỏ hơn.
Giáo dục đại học Việt Nam cũng đang ở trong tình trạng tương tự, khi người ta thích đặt các bài toán thật cao siêu, thích nói đến các mục tiêu cụ thể nhưng rất xa vời. Người ta cũng quên rằng, đặt mục tiêu không quan trọng bằng việc xác định đúng phương hướng. Chúng ta nên xác định hướng đi của đại học Việt Nam, của nền khoa học Việt Nam, tạo mọi điều kiện để các nhà khoa học làm việc, để các trường đại học phát triển, chứ không nên đặt các mục tiêu cụ thể, kiểu như sau 20 năm nữa sẽ có trường đứng trong danh sách 200 trường tốt nhất thế giới, hay có người Việt Nam đoạt giải thưởng Nobel về khoa học…
Hệ quả của việc đề ra mục tiêu nhưng không xác định phương hướng có thể là gì, thưa ông?
Đó là mầm mống của tính cách lề mề, nói mà không làm, vì luôn luôn nghĩ rằng kết quả làm việc của ngày hôm nay cũng không thay đổi được gì đáng kể cho việc đạt được mục tiêu, thôi thì để ngày mai làm luôn một thể. Vả lại, mục tiêu xa vời không thể đạt được qua một nhiệm kỳ, hay một thế hệ, cho nên ta dễ dàng “nhường” việc lại cho người kế tiếp, thế hệ kế tiếp. Có lẽ đó là nguyên nhân mà đã rất nhiều năm trôi đi, giáo dục đại học ở Việt Nam chỉ chủ yếu là hứa hẹn và hô hào chứ chưa thực sự có những hành động quyết liệt để thay đổi thực trạng.
Trong số rất nhiều việc mà đầu óc chúng ta có thể hình dung, tưởng tượng là nếu làm được thì sẽ nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, có những việc rất quan trọng và hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.Tuy không phải là dễ, nhưng chúng nằm trong phạm vi chúng ta có thể giải quyết được. Điều đầu tiên cần làm ngay là xác định những loại bài toán như vậy và giải quyết chúng.
Theo ông, đó là những bài toán nào?
Tôi cho rằng chúng ta có 10 vấn đề cần và giải quyết được. Đó là:
1. Phát triển song song đại học tư thục vì lợi nhuận/phi lợi nhuận, bên cạnh hệ thống trường công lập
2. Xác định phương pháp tuyển sinh hiệu quả;
3. Xây dựng cơ chế học phí đảm bảo quyền lợi hợp lý của cả người dạy và người học,
4. Yêu cầu các trường đại học công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình về mọi hoạt động;
5. Xây dựng quy định hợp lý về độ tuổi nghỉ hưu, nhiệm kỳ lãnh đạo, đảm bảo không bỏ phí tài năng
6. Áp dụng các mô hình và phương pháp quản trị đại học tiên tiến,
7. Nâng lương nhằm góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy;
8. Xây dựng các đại học nghiên cứu có chất lượng, vươn tới đẳng cấp quốc tế;
9. Xây dựng quy chế hội đồng trường;
10. Phát triển hơn nữa và hỗ trợ các kênh đào tạo tiến sĩ chính thức/ không chính thức, chú trọng số lượng, chất lượng
và sự cân bằng giữa các ngành khác nhau của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và công nghệ, kỹ thuật.

Ông có thể nói rõ hơn về cơ chế cùng nhau quản trị trong trường và quy chế hội đồng trường?
Nhiều năm giảng dạy ở Mỹ, tôi thấy các trường đại học ở đây được quản lý theo một mô hình kết hợp của mô hình công ty và cơ chế “cùng nhau quản trị”. Mô hình công ty thể hiện ở chỗ các trường đại học đều có hội đồng trường (hội đồng quản trị) và ban lãnh đạo (chủ tịch trường), với việc giao trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. Cơ chế “cùng nhau quản trị” thể hiện ở chỗ các giảng viên và cán bộ nhà trường tham gia khá tích cực vào công việc quản trị trường. Lãnh đạo trường thường xuyên chuyền tải thông tin đến các giảng viên, gặp gỡ trao đổi ý kiến. Các chủ tịch, hiệu trưởng trường thường xuyên đi đến các khoa để gặp gỡ giảng viên, mở các buổi chiêu đãi (nhẹ nhàng) để tạo môi trường trao đổi cởi mở với giảng viên, và thường xuyên thông báo với giảng viên mọi chuyện liên quan.
Giảng viên phân công nhau tham gia rất nhiều ban khác nhau, từ những ban rất quan trọng về ngân sách, chương trình học, thăng bậc, đến những ban ít quan trọng hơn như “Ban về bãi đậu xe”. Hội đồng trường đại học công lập hay tư thục phi lợi nhuận là một tập hợp những người được các tổ chức chính phủ hay cộng đồng tin cậy giao cho việc trông coi trường, đóng vai trò của một cơ quan giám sát các hoạt động của nhà trường, sao cho nhà trường thực hiện đúng và đầy đủ các nhiệm vụ và kế hoạch đã được thông qua trong hội đồng. Nhiệm vụ của hội đồng trường bao gồm:
–  Cử chức vụ quản trị cao nhất trong trường (chủ tịch, hiệu trưởng hay giám đốc).
–  Thông qua ngân sách hoạt động hằng năm của trường,
–  Thông qua các đầu tư cơ bản để xây dựng cơ sở vật chất của trường.
–  Thông qua các đường lối lớn về phát triển chiến lược của trường trong dài hạn về mọi mặt.
–  Giám sát các hoạt động của ban điều hành của trường, bảo vệ lợi ích của trường trước cộng đồng
–  Làm cầu nối giữa trường, các cơ quan chính phủ, địa phương, các công ty và cộng đồng;
–  Vận động gây quỹ cho trường.

Vai trò của hội đồng trường tương tự như của hội đồng quản trị, cho nên cũng có thể gọi là hội đồng quản trị. Quản trị đại học theo mô hình công ty thể hiện ở nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng trường như là hội đồng quản trị, và của hiệu trưởng, giám đốc hay chủ tịch trường như là CEO của một công ty. Thông thường, hội đồng trường không có giảng viên là nhân viên của trường tham gia, trừ chủ tịch trường (hay hiệu trưởng, giám đốc) luôn luôn là thành viên của hội đồng trường theo điều lệ. Hội đồng trường có thể có đại diện của sinh viên tham gia, nhưng không có quyền bỏ phiếu.
Các thành viên của hội đồng trường (không nhận lương, chỉ được cấp chi phí đi lại, ăn ở để tham gia họp, do một quỹ đặc biệt của nhà trường tài trợ) thường là các nhà hoạt động chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục, doanh nhân… đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu. Từ trước đến nay, chưa có một trường đại học công lập nào của Việt Nam có hội đồng trường như định nghĩa ở trên. Từ đó dẫn đến tình trạng các hoạt động của các trường đại học ở Việt Nam không được giám sát, ban giám hiệu của trường hằng năm tự đề ra các đường lối hoạt động, các chỉ tiêu, tự mình làm được đến đâu thì làm, không cần phải báo cáo, giải trình với ai cả. Theo kinh nghiệm hàng trăm năm nay của nhân loại, các cơ chế quản trị phải là cơ chế đúp, theo nghĩa có bộ phận điều hành và bộ phận kiểm tra, giám sát. Một trường đại học cần hội đồng trường để làm nhiệm vụ ấy. Chỉ có như vậy mọi kế hoạch được vạch ra mới được thi hành đầy đủ và có chất lượng.
Thực ra, phương pháp quản trị đại học nào cũng có những điểm yếu, và những ai muốn phản đối nó đều có thể dễ dàng tìm được lý lẽ. Nhưng thực tế là hầu hết các trường đại học lớn trên thế giới đều áp dụng mô hình quản trị công ty kết hợp với cơ chế cùng nhau quản trị. Trong quá trình vận hành, họ thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh để cho trường đại học của họ vượt qua mọi khó khăn tạm thời và phát triển. Chúng ta nên áp dụng ít nhất là thử nghiệm mô hình quản trị đại học này trong một hoặc một số trường đại học có quy mô tương đối lớn, để rút kinh nghiệm trước khi triển khai rộng rãi.
Trong 10 “bài toán” mà ông nêu ở trên, thứ tự ưu tiên thực hiện như thế nào và những cơ quan chức năng nào phải tham gia vào việc thực hiện ấy?
Mười “bài toán” mà tôi nêu thực chất là kiến nghị về những việc có thể làm được và cần làm ngay, vì thế có thể đồng thời thực hiện. Mỗi công việc đó đều đòi hỏi phải tiến hành với sự kiên trì, quyết tâm lớn và trong một thời gian tương đối dài. Nhưng tôi cho rằng cần phải bắt đầu ngay và phải xác lập lộ trình giải quyết, “thời gian biểu” cho từng việc. Tùy vấn đề cụ thể, cơ quan chức năng trực tiếp có thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo, hay là lãnh đạo các trường đại học và đội ngũ giảng viên. Nhưng để họ có thể làm tốt các chức năng đó thì việc đầu tiên là Chính phủ phải ban hành ngay những chính sách, quy định liên quan về giáo dục đại học.
Chính phủ nên tin tưởng vào một nhóm nhỏ các chuyên gia độc lập, các trí thức uyên bác và am hiểu về giáo dục đại học thế giới và Việt Nam. Nên tránh giao hoàn toàn việc nghiên cứu và đề xuất các chính sách liên quan đến giáo dục đại học cho Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tôi được biết hầu hết những người Việt hiện đang giảng dạy ở nước ngoài đều mong muốn và sẵn sàng tham gia góp sức mình cho sự phát triển giáo dục của đất nước.
Cảm ơn ông (DNSG)

Thứ Hai, ngày 19/10/2015 10:04 AM (GMT+7)

Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng


Bài giảng cuối cùng của GS.TSKH Vũ Quốc Phóng - nhà toán học, niềm tự hào của Ohio University lại không phải về khoa học chuyên ngành cơ bản, chỉ có những vấn đề cốt lõi về y học và câu chuyện của chính ông. 

Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng - 1
GS.TSKH Vũ Quốc Phóng

Bắt bệnh giáo dục Việt Nam: lề mề
Có lẽ đó sẽ là bài giảng cuối cùng của một nhà khoa học lỗi lạc nước Mỹ.
“Buổi lên lớp” cuối cùng của GS.TS Vũ Quốc Phóng - nhà toán học, niềm tự hào của Ohio University lại không phải về những hằng số, đạo hàm hay những gì vốn thuộc chuyên ngành cơ bản.
Những người được vinh hạnh lắng nghe tiếng ngọc cũng chẳng nhiều, vẻn vẹn ba mái đầu xanh tuổi trẻ.
Giờ học đó thật khác lạ. Ông nói về những vấn đề rất cốt lõi của y học. Ông lấy ví dụ từ chính ông, về căn bệnh ung thư quái ác vô phuơng cứu chữa đã sập đến quá nhanh. Bài giảng đó được cất lên bằng một giọng nói yếu ớt nhưng tràn đầy lạc quan, bằng một sự tỉnh táo như hồi quang phản chiếu.  
Một ngày cuối tháng 7.…  
Ở cả bờ tây nước Mỹ, nhắc đến “Thầy Phóng”, đám học sinh cả ta lẫn tây đều “ồ”, “òa” lên tiếng khâm phục. Giảng đường luôn kin đặc chỗ mỗi khi ông lên lớp. Kể cả mấy tháng qua, khi ông đang trải qua những cơn đại phẫu thì lịch giảng online vẫn luôn được học sinh ngóng chờ. Không phải chì vì Giáo sư Phóng có một kiến thức sâu rộng, mà ông truyền cho người học một cảm giác “thèm học”, “muốn học” và “học đến tận cùng”.   
Và kể cả khi nằm dưỡng bệnh, bàn tay gầy guộc đó vẫn níu lấy chiếc bút chì, dọc ngang những ý tưởng trên trang giấy trắng. …  
Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng - 2
GS Phóng vẫn miệt mài làm việc ngay cả khi đang dưỡng bệnh
Giáo sư Phóng có một góc nhìn rất khác về nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là giáo dục đại học, thứ đang thực sự là mối quan tâm lo lắng của công chúng.
Với ông, “căn bệnh” của nền giáo dục hiện nay chẳng có gì là khó hiểu. Đó là mầm mống của tính cách lề mề, nói mà không làm, vì luôn luôn nghĩ rằng kết quả làm việc của ngày hôm nay cũng không thay đổi được gì đáng kể cho việc đạt được mục tiêu, thôi thì để ngày mai làm luôn một thể. Vả lại, mục tiêu xa vời không thể đạt được qua một nhiệm kỳ, hay một thế hệ, cho nên ta dễ dàng “nhường” việc lại cho người kế tiếp, thế hệ kế tiếp. Có lẽ đó là nguyên nhân mà đã rất nhiều năm trôi đi, giáo dục đại học ở Việt Nam chỉ chủ yếu là hứa hẹn và hô hào chứ chưa thực sự có những hành động quyết liệt để thay đổi thực trạng.  
Có gì đâu, khi người ta thích đặt các bài toán thật cao siêu, thích nói đến các mục tiêu cụ thể nhưng rất xa vời, thì chắc chắn người ta cũng quên rằng, đặt mục tiêu không quan trọng bằng việc xác định đúng phương hướng.  
Tấm vé một chiều về nước ...
Đã có lần GS Phóng đăng đàn mạnh mẽ , rằng chúng ta - những người Việt Nam nên xác định hướng đi của đại học Việt Nam, của nền khoa học Việt Nam theo một lối riêng. Hãy tạo mọi điều kiện để các nhà khoa học làm việc, để các trường đại học phát triển, chứ không nên đặt các mục tiêu cụ thể, kiểu như sau 20 năm nữa sẽ có trường đứng trong danh sách 200 trường tốt nhất thế giới, hay có người Việt Nam đoạt giải thưởng Nobel về khoa học…  
Một tiếng nói mạnh mẽ chưa đủ làm nhiều thứ đổi thay, nhưng tiếng nói đó sâu sắc và dám nhìn thẳng vào sự thật. …  
Những người Việt Nam thành đạt trong lĩnh vực khoa học, làm rạng danh tên nước như vậy không nhiều.
Cũng hiếm lắm người có đôi mắt tinh anh như thế, một đôi mắt có thể trao gửi mọi thông điệp mà chẳng cần nói nên lời.
Càng hiếm lắm những người mà chỉ khi gặp một lần đã cho cảm giác thân thuộc, để khâm phục và nhớ mãi.  
Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng - 3
Ngôi nhà của ông cùng những vật dụng cuối cùng đang được rao bán
Có lẽ đúng: “Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để lưu lại dấu ấn trên mặt đất, trong trái tim người khác”.
 Ngoài của nhà, tấm biển “Garage sale” đã treo. Ô tô, xe máy đến những đồ vật cuối cùng cũng đều được rao bán. Và cả ngôi nhà mái đỏ xin xắn nằm trên ngọn đồi cao yên bình này nữa, có lẽ cũng phải nói lời chia xa.   
Tấm vé một chiều về nước cũng đã định ngày.   
Giữa tia nắng ấm của mùa hè, bỗng thấy lòng giá lạnh…

GS.TSKH Vũ Quốc Phóng bảo vệ luận án tiến sĩ năm khi mới 24 tuổi tại Đại học Kharkov (Ukraine). Sau một thời gian công tác ở Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam (Viện Toán), TS. Vũ Quốc Phóng tiếp tục làm nghiên cứu sinh và đã thành công với luận án tiến sĩ khoa học toán lý - học vị cao nhất của Liên Xô vào năm 1987. Năm 1992, ông “đầu quân” về ĐH Ohio (Hoa Kỳ), được phong Phó Giáo sư (1993) và là Giáo sư chính thức từ năm 1999. Ông cũng được nhiều trường đại học của Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Hàn Quốc… mời làm giáo sư thỉnh giảng.
TS Bùi Chí Trung

Vĩnh biệt một tài năng toán học xuất sắc của Việt Nam

   Chủ nhật, 18/10/2015, 14:00 (GMT+7)
(Xã hội) - TSKH Vũ Quốc Phóng nằm trên giường bệnh để chống chọi với căn bệnh ung thư giai đoạn cuối. Dù đau đớn vì bệnh tật, nhưng ông vẫn luôn mỉm cười với bạn bè, đồng nghiệp, bà con khi đến thăm. Nắm lấy bàn tay gầy guộc của ông, ai cũng thương xót cho một tài năng toán học Việt Nam, bởi ngày ông từ giã cõi trần được tính bằng giây, bằng phút.


Nguồn :  http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/268174/vinh-biet-mot-tai-nang-toan-hoc-xuat-sac-cua-viet-nam.html  

Và, ông đã ra đi vào ngày định mệnh 27/8 âm lịch (Ất Mùi) trong niềm tiếc thương vô hạn của hàng trăm sinh viên Đại học Ohio (Mỹ) và cán bộ, GS, các nhà toán học (Viện toán học Việt Nam), cùng gia đình, bạn bè, người thân.


http://img.tintuc.vietgiaitri.com/2015/10/19/vinh-biet-mot-tai-nang-toan-hoc-xuat-sac-cua-viet-nam-960703.jpg

GS Vũ Quốc Phóng với gia đình

PGS, Phó Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam Nguyễn Việt Dũng chia sẻ, Vũ Quốc Phóng, đã chọn toàn học và toán học đã chọn ông. Suốt đời mình, từ tuổi niên thiếu cho đến phút cuối cùng ông say mê và gắn bó với toán học. Ông luôn chọn cho mình những đề tài nghiên cứu khó khăn, hóc búa và đạt nhiều két quả có giá trị đối với Giải tích hàm, Lý thuyết toán tử, Lý thuyết nửa nhóm…
“Ông là tác giả của gần 70 bài viết được xuất bản trong các tạp chí chuyên ngành có uy tín. Các kết quả nghiên cứu của ông đã được trích dẫn sử dụng trong nhiều bái báo và hàng chục đầu sách được xuất bản trên thế giới. Ông được mời làm phản biện cho hàng chục tạp chí khoa học uy tín trên thế giới. Với lòng say mê, tân tậm, bền bỉ, tài năng đã giúp ông gặt hái được nhiều thành công trên lĩnh vực toán học. Ông là nhà toán học hàng đầu của Việt Nam”, PGS Dũng khẳng định.
Sinh ra ở miền quê xứ Nghệ, trong một gia đình hiếu học. Vũ Quốc Phóng có tài năng thiên bẩm về toán học từ bé. Tốt nghiệp cấp 3, với kết quả học tập xuất sắc. Vũ Quốc Phóng được Chính phủ gửi sang Liên Xô học đại học. Ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kharkov với tấm bằng đỏ xuất sắc. Ông được trường đề nghị ở lại làm nghiên cứu sinh chuyển tiếp và bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sỹ tại Đại học Kharcov. Ông trở về nước, công tác tại Viện Toán học Việt Nam.



Chỉ vài năm sau, ông được Viện Toán học Việt Nam cử làm thực tập sinh cao cấp ở Liên Xô và năm 1987, ông bảo vệ xuất sắc Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Toán-Lý ở Viện Toán học Kiev. Từ đây, nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới mời ông làm giáo sư thỉnh giảng tại Đức, Pháp, Nhật, Hoa Kỳ, Hồng Kong… Nhiều viện nghiên cứu toán học tại mỹ, châu Âu, Trung tâm vũ trụ Na Sa còn lưu giữ nhiều bài nghiên cứu về toán của ông. Và, năm 1999 ông trở thành GS toán học của Đại học Ohio.
Dù thành công ở đỉnh cao, nhưng ông luôn có lối sống giản dị, tận tụy với công việc và có trách nhiệm giúp đỡ sinh viên có tài năng về môn toán. Ông được Đại học Ohio giao nhiều trọng trách: Chủ nhiệm khoa sau đại học, chủ tịch hội đồng xét tuyển, thi nâng ngạch giáo viên của trường. Ông là người thiết kế khóa học onlne cho Đại học Ohio và một số trường đại học khác của Mỹ và là tác giả của nhiều bài giảng từ xa.

 tài năng, toán học, xuất sắc, Vũ quốc Phóng, vietnamnet, qua đời, ung thư
GS-TSKH Vũ Quốc Phóng

Cả một đời gắn bó với toán học, Vũ Quốc Phóng luôn đau đáu về ngành Toán của Việt Nam. Vì vậy, các kỳ nghỉ hè, nghỉ đông, ông đều tranh thủ về nước dự các hội nghị về toán. Ông tham gia giảng dạy tại các trường đại học trong cả nước, cộng tác chặt chẽ với Viện Toán học Việt Nam, là câu nối giúp sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam đến với khoa Toán Đại hoc Ohio.
Những ngày cuối tháng 7. Căn bệnh ung thư quái ác đang hành hạ ông. Vũ Quốc Phóng vẫn lên lớp giảng dạy sinh viên. Bài dạy cuối cùng của ông không phải là những hàm đẳng thức, không phải là những hằng số, đạo hàm, mà về đạo làm người, về những căn bệnh quái ác mà y học hiện đại còn bó tay. Giọng nói ông cất lên yếu ớt, nhưng ánh mắt ông vẫn tràn đầy nghị lực…
Ở cả bờ tây nước Mỹ, nhắc đến “Thầy Phóng”, đám học sinh cả ta lẫn tây đều khâm phục. Giảng đường luôn kin đặc chỗ mỗi khi ông lên lớp. Kể cả mấy tháng qua, khi ông đang trải qua những cơn đại phẫu thì lịch giảng online vẫn luôn được học sinh ngóng chờ. Không phải chì vì GS Phóng có một kiến thức sâu rộng, mà ông truyền cho người học một cảm giác “thèm học”, “muốn học” và “học đến tận cùng”.
Và kể cả khi nằm dưỡng bệnh, bàn tay gầy guộc đó vẫn níu lấy chiếc bút chì, dọc ngang những ý tưởng trên trang giấy trắng. …
Ông ra đi ở tuổi 62 với nhiều dự định còn dang dở. Với ông, Việt Nam cần phải thay đổi tư duy giáo dục đại học, đừng lề mề nữa, cần phải có những bước đi cụ thể, thích hợp và phải nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Vĩnh biệt ông! Một tài năng toán học xuất sắc của Viêt Nam.
(Theo Vietnamnet)

Monday, October 19, 2015

Gs Vũ Quốc Phóng

Nguồn :  http://tuanvannguyen.blogspot.com/2015/10/gs-vu-quoc-phong.html


Tối nay, đọc một tin rất sốc với cá nhân tôi: Gs Vũ Quốc Phóng qua đời ở tuổi 62! Anh Phóng (xem hình) là một trong những đồng hương Ohio của tôi ngày xưa, và dù ít liên lạc, nhưng chúng tôi rất thân tình. Bẵng đi một thời gian thì nghe hung tin này (1). Tin anh Phóng qua đời làm tôi nhớ lại những kỉ niệm thời xưa ...


Trong "hội" Ohio ngày xưa gồm có các gia đình anh chị LTThành, VQPhóng, PHTiệp, và vài bạn mới qua sau này. Anh Thành là dân Thái Lọ, học ở Anh, sang Mĩ "tị nạn" ở Columbus. Anh Phóng là dân Nghệ An, mà tôi hay gọi đùa là Do Thái của Việt Nam, và cô vợ lúc đó mới sang mà chúng tôi gọi là hoa hậu vì cô ấy rất xinh gái. Tuần nào, chúng tôi cũng tụ tập ở nhà anh Thành tán gẫu và đàm đạo, vì lí do đơn giản là chị Lan (bà xã anh Thành) nấu phở rất ngon. Nhưng cũng có khi chúng tôi lái xe lên Athens chỗ anh Phóng định cư. Tôi gặp anh Phóng và bà xã của anh ở đó rất thường xuyên.
Anh Phóng giảng dạy ở ĐH Ohio (Thành phố Athens), một đại học có khuôn viên rất đẹp, cách Columbus khoảng 2 giờ lái xe (nếu tôi nhớ không lầm). Tôi chỉ biết anh từng học ở Liên Xô cũ, và sau khi khối xã hội chủ nghĩa sụp đổ, anh "trôi dạt" sang Mĩ và được Mĩ trọng dụng, để sau này thành một giáo sư toán của Mĩ. Anh có một trang ResearchGate nhưng tôi chắc chắn rằng anh không cập nhật hóa vì tôi biết thành tích khoa học của anh lẫy lừng hơn cái trang đơn giản này. Anh ít khi nào nói về mình và công việc của anh, nhưng học trò anh đều không tiếc lời khen anh là một người thầy tuyệt vời, người truyền cảm hứng toán mà hiếm thấy một giáo sư Mĩ nào có thể làm được. Không chỉ là một người thầy truyền cảm hứng khoa học, anh còn được học trò mến anh ở cái tính thân thiện, lúc nào cũng cười, và hình như chẳng làm phiền ai.
Anh là người có công giúp đỡ các em nghiên cứu sinh bên nhà sang Mĩ học và ở lại luôn. Chẳng những thế, anh còn "lôi kéo" những người đã thành danh ở VN sang và được bổ nhiệm chức danh giáo sư ở ĐH Ohio. Biết anh rất mê mô hình dạy trực tuyến, dạo đó, tôi có ý định làm một series trực tuyến để hướng dẫn dạy toán cho học sinh trung học, nhưng anh Phóng lắc đầu nói "Ông với status như thế thì làm chi mấy chuyện cỏn con đó". Cái giọng Nghệ An của anh nghe rất thuyết phục. Anh nhắc đi nhắc lại cái ý này mỗi khi tôi bàn về dự án, và quả thật sau này thì tôi không theo đuổi dự án đó nữa.

Anh Phóng là típ người ít nói. Trong các buổi trò chuyện, anh cười cười và lắng nghe người khác nói là chính, nhưng khi đã nói là rất hăng và hùng biện. Nhớ lúc đó bàn chuyện ông Clinton bị vướn vụ Monica Lewinsky, anh Phóng ông Clinton sẽ tại vị vì người Mĩ họ phân biệt cá nhân ông tổng thống và chức vụ tổng thống. Không như các bạn khác, anh Phóng rất ít nói gì về tình hình Việt Nam, vì anh không đánh giá cao những chính sách của chính phủ bên đó.
Thế rồi theo dòng đời, tôi quay về Úc, tạm biệt "Hội Ohio", và không có dịp gặp anh Phóng lần nữa. Chúng tôi chỉ trao đổi qua email để hỏi han công việc. Anh theo dõi đều những bài viết của tôi về giáo dục, và mỗi lần đọc được ý gì tâm đắc anh gửi tôi một email động viên. Tôi hỏi sao anh không đóng góp ý kiến cho bên nhà, vì với vị thế anh, anh có thể làm nhiều hơn nữa cho quê nhà, nhưng anh chỉ khiêm tốn nói rằng "Ông đã nói hết rồi".
Dù không gặp anh, nhưng qua bạn bè và anh Thành, tôi vẫn hỏi và theo dõi công việc của anh. Tôi cũng mừng khi biết anh có duyên mới và hạnh phúc mới, và nghĩ một ngày sẽ quay lại ghé thăm Hội Ohio. Ấy thế mà tôi không thể nào ngờ rằng anh bị bệnh vì anh ấy rất khoẻ mạnh. Tôi càng không ngờ anh bị căn bệnh quái ác ung thư cướp lấy cuộc đời của anh! Sự ra đi của anh là một sự mất mát của cộng đồng toán học Việt Nam, và tôi mất một người bạn mà tôi hằng mến mộ.
Sự ra đi của anh quả thật làm cho tôi thấy cuộc đời này sao quá mong manh. Mới gặp đó rồi chợt vụt biến. Đúng như câu “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, vạn mộc xuân vinh thu hựu khô” của Thiền sư Vạn Hạnh. Tôi xin có lời chia buồn sâu sắc đến gia đình anh Phóng, và cầu mong cho linh hồn anh sớm siêu sanh về cõi lành.
===
(1) http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/268174/vinh-biet-mot-tai-nang-toan-hoc-xuat-sac-cua-viet-nam.html
 

Cán bộ cũ của Viện

Cán bộ nghiên cứu

Nguồn : http://math.ac.vn/


Họ và  tên Học hàm, học vị lúc công tác tại Viện Thời gian làm việc tại Viện Ghi chú
Hà Lê Anh CN 1973-1986  Đã mất
Nguyễn Việt Anh TS 2005-2012 Hiện là TSKH, giảng viên Đại học Paris 11
Trần Thị Lan Anh TS

Phạm Trà Ân PGS TS 1970-2007 Nghỉ hưu
Nguyễn Lương Bách TS 1982-2004
Trần Quốc Bình  Ths 1990-1995
Bùi Công Cường PGS TSKH 1970-2004 Nghỉ hưu
Lê Văn Chóng TS 1978-2009 Đã mất
Nguyễn Ngọc Chu TS 1981-2010
Lê Ngọc Chuyên  TS 1986-1995
Đỗ Ngọc Cường  CN 1982-2005 Đã mất
Lê Hữu Diện  TS

Hoàng Đình Dung PGS TS 1970-2004 Đã mất năm 2014
Nguyễn Việt Dũng (Đại số) TS 1983-2009 Hiện là GS TSKH, giảng dạy ĐH Ohio
Phạm Cảnh Dương TS 1973-2009
Nguyễn Tiến Đại TS 1976-2012 Nghỉ hưu
Bùi Khởi Đàm PGS TS 1978-1999
Vũ Văn Đạt TS 1974-2010 Nghỉ hưu
Lê Văn Điền  TS 1976-1993
Phạm Huy Điển PGS TSKH 1976-2009
Nguyễn Hữu Điển TS 1977-2007 Hiện là PGS, giảng viên ĐH Khoa học tự nhiên Hà Nội 
Chử Văn Đông  TS 1977-1995
Nguyễn Hồng Đức TS 2007-2013
Nguyễn Hữu Đức TS 1976-1984 PGS TSKH, Hiệu trưởng ĐH Đà Lạt. Đã mất
Nguyễn Văn Gia PGS TSKH 1970-1985
Dương Duy Hải  CN       -1982  Đã mất
Đặng Hấn  CN 1966-1985
Phạm Dương Hiển  CN 1974-1977
Trần Vinh Hiển  TS 1970-1983
Lê Hội TS 1978-2002 Nghỉ hưu
Trần Huy Hổ


Đinh Văn Huỳnh GS TSKH 1978-2008 Nghỉ hưu. Hiện giảng dậy ĐH Ohio
Phan Huy Khải PGS TS 1970-2011 Nghỉ hưu
Lê Xuân Lam
1970-1976
Phan Trung Lâm CN  1986-1995
Trần Gia Lịch PGS TS 1970-2006 Nghỉ hưu
Nguyễn Kim Liên


Trần Vĩnh Linh TS 2003 - 2014
Nguyễn Khắc Lộc  CN 1975-1983 Đã mất
Lê Kim Luật CN  1982-1988
Lê Trọng Lục  CN 1970-2012 Nghỉ hưu (năm 2012)
Đinh Thế Lục GS TSKH 1975-2012 Phó Viện trưởng,
1995-1998
Đinh Quang Lưu PGS TSKH 1978-2005 Đã mất
Đỗ Văn Lưu PGS TS 1970-2009 Phó Viện trưởng,
1995-2000, Nghỉ hưu
Nguyễn Sĩ Minh TS 1976-2012 Nghỉ hưu
Nguyễn Hồng Minh CN  1982-1993
Trịnh Ngọc Minh  TS 1983-
Nguyễn Văn Ngọc TS 1975-2009 Nghỉ hưu
Nguyễn Tố Như  PGS TSKH 1982-2005 Hiện là GS, giảng dạy ĐH Ohio
Nguyễn Ngọc Phan Ths 2002-2013
Vũ Quốc Phóng TSKH 1981-2003   GS, giảng dạy ĐH Ohio. Đã mất (năm 2015).
Phạm Hồng Quang TS 1984-2009
Tạ Hồng Quảng


Đỗ Văn Sĩ


Nguyễn Văn Sinh


Hà Huy Tài TS. 2001-2010
Bùi Thế Tâm PGS. TS. 1970-2013 Nghỉ hưu
Đỗ Hồng Tân PGS. TSKH.  1970-2002 Nghỉ hưu
Lê Thanh


Dương Chí Thành
1974-1976
Lê Công Thành TS.
Nghỉ hưu
Lê Văn Thành PGS. TS. 1970-2009 Đã mất
Trần Hùng Thao PGS. TS. 1970-2005 Nghỉ hưu
Lê Văn Thiêm GS 1970-1985 Viện trưởng Viện
Toán học 1970-1980
Đã mất năm 1991,
Lê Quang Thiệp


Trần Vũ Thiệu GS. TS. 1970-2007 Nghỉ hưu
Nguyễn Văn Thoại GS. TS.

Nguyễn Văn Thu GS. TSKH. 1978-2006
Nguyễn Hữu Trợ TS. 1973-1995 và 2001-2003
Hà Thành Trung
2005-2013
Ngô  Anh Tú TS.

Nguyễn Đức Tuấn TS  1983 - 2014  Đã mất năm 2014
Trần Manh Tuấn GS. TS. 1970-2003 Phó viện trưởng
Viện Toán 1985-1990,
Nghỉ hưu
Đào Quang Tuyến TS. 1974-2010
Ngô Đạt Tứ
1970-1987 Đã mất
Đỗ Long Vân GS. TSKH. 1970-2007 Nghỉ hưu
Trần Đức Vân GS. TSKH. 1981-2011 Viện trưởng  1995-2000,
Đã mất năm 2001
Hồ Hữu Việt TS.

Nguyễn Khắc Việt TSKH.

Cán bộ Văn phòng
Họ và  tên Học vị, học hàm Thời gian làm việc Ghi chú
Đào Viết Bồng

Nghỉ hưu
Hà Thị Cận
1979-2004 Nghỉ hưu
Nguyễn Thị Côi
1970-1992 Đã mất
Vương Ngọc Châu
1970-1998 Nghỉ hưu
Đỗ Ngọc Cường

Đã mất
Nguyễn Lan Dân
1979-2015 Nghỉ hưu
Võ Thị Gái
1979-2005 Nghỉ hưu
Văn Thị Xuân Hương

Nghỉ hưu
Trịnh Bá Kiểm
1982-2004 Nghỉ hưu
Trần Thị Kim Khuyến
1970-1992 Đã mất
Phạm Tuấn Mỹ


Phùng Ngọc Nghiêm


Trần Cao Nguyên


Hoàng Minh Phong


Vũ Đình Tích


Nguyễn Văn Tiến


Mai Văn Toan


Lê Khánh Vân



*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran