Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn văn minh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn văn minh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 12 tháng 12, 2015

Pablo Picasso và trường phái hội họa lập thể - Cubism .


Pablo Picasso và trường phái hội họa lập thể - Cubism .

 


Pablo Ruiz Picasso (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881, mất ngày 8 tháng 4 năm 1973), thường được biết tới với tên Pablo Picasso hay Picasso là một họa sĩ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha. Tên đầy đủ của ông là Pablo Diego José Francisco de Paula Juan Nepomuceno María de los Remedios Cipriano de la Santísima Trinidad Clito Ruiz y Picasso . Picasso được coi là một trong những nghệ sĩ nổi bật nhất của thế kỷ 20, ông cùng với Georges Braque là hai người sáng lập trường phái lập thể trong hội họa và điêu khắc.Ông là một trong 10 họa sĩ vĩ đại nhất trong top 200 nghệ sĩ tạo hình lớn nhất thế giới thế kỷ 20 do tạp chí The Times, Anh, công bố.

Tiểu sử

Pablo Picasso sinh năm 1881 tại Málaga, miền nam Tây Ban Nha. Picasso là con đầu lòng của ông José Ruiz y Blasco và bà María Picasso y López. Ông được đặt tên thánh là Pablo, Diego, José, Francisco de Paula, Juan Nepomuceno, Maria de los Remedios và Cipriano de la Santísima Trinidad.

Ngay từ khi còn nhỏ, Picasso đã bộc lộ sự say mê và năng khiếu trong lĩnh vực hội họa, theo mẹ ông kể lại thì từ đầu tiên mà cậu bé Pablo nói được chính là "piz", cách nói tắt của từ "lápiz", trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là bút chì. Cha của Picasso là một họa sĩ chuyên vẽ chim theo trường phái hiện thực, ông José còn là một giảng viên nghệ thuật và phụ trách bảo tàng địa phương, trường Mỹ thuật công nghệ tạo hình của Barcelona. Vì vậy, Picasso có được những bài học đầu tiên về nghệ thuật chính từ cha mình.

Vào Học viện mỹ thuật (Academia de San Fernando) tại Madrid được chưa đầy một năm, năm 1900 Picasso đã bỏ học để sang Paris, trung tâm nghệ thuật của Châu Âu thời kỳ đó. Tại thủ đô nước Pháp, ông sống cùng Max Jacob, một nhà báo và nhà thơ, người đã giúp Pablo học tiếng Pháp. Đây là giai đoạn khó khăn của người họa sĩ trẻ khi ông phải sống trong cảnh nghèo túng, lạnh lẽo và đôi khi tuyệt vọng, phần lớn tác phẩm của Pablo đã phải đốt để sưởi ấm cho căn phòng nhỏ của hai người. Năm 1901, cùng với người bạn Soler, Picasso đã thành lập tờ tạp chí Arte Joven ở Madrid. Số đầu tiên của tạp chí hoàn toàn do Pablo minh họa.

Trong những năm đầu của thế kỉ 20, Picasso thường xuyên qua lại giữa hai thành phố Barcelona và Paris. Tại Paris, Picasso kết bạn với rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng ở khu Montmartre và Montparnasse, trong đó có người sáng lập trường phái siêu thực André Breton, nhà thơ Guillaume Apollinaire và nhà văn Gertrude Stein. Năm 1911, Picasso và Apollinaire thậm chí đã từng bị bắt giữ vì bị nghi ăn trộm bức tranh Mona Lisa khỏi Bảo tàng Louvre nhưng cuối cùng hai người cũng được tha vì vô tội.

Đời tư

Năm 1904, ông bắt đầu mối quan hệ lâu dài với Fernande Olivier, người phụ nữ xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm Thời kỳ Hồng của họa sĩ. Thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Hồng vì đây là thời kỳ ông toàn dùng màu hồng nhạt mềm mại để làm nền tranh cho mình, thời kỳ Hồng của ông được tồn tại trong 3 năm. Sau khi bắt đầu nổi tiếng và trở nên giàu có, Picasso đã bỏ Olivier để quan hệ với Marcelle Humbert mà ông gọi đơn giản là Eva, chủ đề của rất nhiều bức tranh theo trường phái lập thể của ông. Sau đó ông còn đi lại với nhiều người phụ nữ khác mặc dù đã có vợ và con. Picasso đã hai lần làm đám cưới và ông có bốn đứa con với ba người phụ nữ. Năm 1918, họa sĩ cưới cô Olga Khokhlova, một nữ diễn viên ba lê của đoàn ba lê Sergei Diaghilev mà Picasso đã từng nhận trang trí cho họ vở Parade ở Roma. Khokhlova đã giới thiệu Picasso với tầng lớp trên của nước Pháp trong những buổi tiệc tùng và gặp gỡ của những người giàu có ở Paris trong thập niên 1920. Hai người cũng có với nhau một đứa con, Paulo,sau này trở thành một tay đua xe phóng đãng và là tài xế cho chính họa sĩ. Cuộc hôn nhân giữa Picasso và Khokhlova nhanh chóng chấm dứt, tuy vậy trên danh nghĩa hai người chỉ ly thân cho đến tận khi Khokhlova qua đời năm 1955 vì theo luật pháp Pháp, Picasso sẽ phải chia đôi tài sản cho vợ nếu chính thức ly dị. Năm 1927 Picasso gặp cô gái 17 tuổi Marie-Thérèse Walter và bắt đầu đi lại bí mật với cô. Với Marie-Thérèse, Picasso cũng có một người con gái, Maia. Marie-Thérèse luôn sống với hy vọng hão huyền rằng người họa sĩ nổi tiếng sẽ lấy cô làm vợ và cô đã treo cổ tự vẫn bốn năm sau cái chết của Picasso. Nhà nhiếp ảnh và họa sĩ Dora Maar cũng là một người tình lâu năm của Picasso, hai người đặc biệt gắn bó trong giai đoạn cuối thập niên 1930 và đầu thập niên 1940.

Sau khi Paris được giải phóng năm 1944, lúc đó ở tuổi 63, Picasso bắt đầu quan hệ với một sinh viên nghệ thuật trẻ là Françoise Gilot. Françoise và Picasso có chung với nhau hai đứa con, Claude và Paloma. Khác với những người tình khác của họa sĩ, chính Françoise là người rời bỏ Pablo năm 1953. Đây là một cú sốc với Picasso, ông nghĩ rằng mình đã già và trở nên kỳ cục trong mắt phụ nữ, Một vài tác phẩm của ông thời kỳ cuối đã khai thác đề tài này khi miêu tả một người lùn già nua gớm ghiếc đối lập với một cô gái trẻ đẹp. Tuy vậy không lâu sau người họa sĩ cũng tìm được một người tình khác, đó là Jacqueline Roque. Roque làm việc tại xưởng gốm Madoura, nơi Picasso thực hiện các tác phẩm bằng gốm của ông. Hai người duy trì mối quan hệ suốt phần đời còn lại của Picasso, họ cưới nhau năm 1961. Đám cưới này cũng là một sự trả thù của họa sĩ đối với người tình cũ Gilot. Gilot khi đó đang tìm cách hợp pháp hóa quan hệ cha con của Picasso với Claude và Paloma. Được Picasso thúc đẩy, cô đã sắp đặt việc ly dị với chồng là Luc Simon để cưới Picasso, qua đó bảo vệ quyền lợi cho con chung của hai người. Tuy nhiên Picasso đã bí mật làm đám cưới với Roque ngay sau khi Gilot hoàn thành thủ tục ly hôn, họa sĩ coi đây là sự trả thù của ông với việc Gilot đã rời bỏ mình năm 1953.

Pablo Picasso từ trần ngày 8 tháng 4 năm 1973 tại Mougins, Pháp, trong khi ông cùng bà Jacqueline đang chủ trì một buổi tiệc với bạn bè. Tác phẩm ông để lại gồm có 1800 bức tranh sơn dầu, 3 vạn bản tranh, 7000 bức ký họa phác thảo và có khá nhiều tác phẩm khó hiểu. Picasso được an táng tại công viên Vauvenargues ở Vauvenargues, Bouches-du-Rhône. Jacqueline Roque đã ngăn cản hai đứa con của ông là Claude và Paloma tham gia tang lễ cha mình.


Xu hướng chính trị

Picasso tỏ ra trung lập trong suốt Thế chiến thứ nhất, Nội chiến Tây Ban Nha và Thế chiến thứ hai, họa sĩ từ chối ủng hộ bất cứ bên tham chiến nào. Trong Nội chiến Tây Ban Nha, tuy thể hiện sự phẫn nộ và phản đối chế độ của tướng Francisco Franco và chủ nghĩa phát xít qua các tác phẩm của mình, Picasso không hề cầm vũ khí chống lại chế độ này.

Năm 1944, Picasso gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tham gia một hội nghị hòa bình quốc tế tổ chức ở Ba Lan. Năm 1950, họa sĩ được nhận Giải thưởng hòa bình Stalin của chính phủ Liên Xô[10]. Năm 1962, ông được nhận một giải thưởng lớn khác của nhà nước Xô viết, đó là Giải thưởng hòa bình Lenin.

Tác phẩm

Các tác phẩm của Picasso thường được phân loại theo các thời kỳ khác nhau. Tuy rằng tên gọi các thời kỳ sáng tác sau này của họa sĩ còn gây nhiều tranh cãi, người ta phần lớn đều chấp nhận cách phân chia thời kỳ đầu sáng tác của Picasso thành Thời kỳ Xanh (1901–1904), Thời kỳ Hồng (1904–1906), Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu - điêu khắc (1908–1909), Thời kỳ Lập thể phân tích (1909–1912) và Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919).

Trước 1901





Picasso bắt đầu tập vẽ dưới sự hướng dẫn của cha ông từ năm 1890. Sự tiến bộ trong kỹ thuật của họa sĩ có thể thấy trong bộ sưu tập các tác phẩm thời kì đầu ở Bảo tàng Museu Picasso tại Barcelona. Có thể thấy chủ nghĩa hiện thực hàn lâm trong các tác phẩm thời kì đầu này, tiêu biểu là bức The First Communion (1896). Cũng năm 1896, khi mới 14 tuổi, Picasso đã hoàn thành tác phẩm Portrait of Aunt Pepa (Chân dung dì Pepa), một bức chân dung gây ấn tượng sâu sắc đến mức Juan-Eduardo Cirlot đã đánh giá rằng "không nghi ngờ gì nữa, đây là một trong những tác phẩm lớn nhất trong lịch sử hội họa Tây Ban Nha".

Năm 1897, chủ nghĩa hiện thực của Picasso bắt đầu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, thể hiện qua một loạt các bức tranh phong cảnh sử dụng tông màu xanh lá cây và tím không tự nhiên.







Thời kỳ Xanh (1901–1904)

Trong thời kỳ này, tác phẩm của Picasso có tông màu tối hơn với màu chủ đạo là xanh thẫm, đôi khi được làm ấm hơn bởi các màu khác. Mốc bắt đầu của Thời kỳ Xanh không rõ ràng, nó có thể bắt đầu từ mùa xuân năm 1901 ở Tây Ban Nha, hoặc ở Paris nửa cuối năm đó. Có lẽ cách dùng màu của họa sĩ chịu ảnh hưởng từ chuyến đi xuyên Tây Ban Nha và sự tự sát của người bạn Carlos Casagemas.

Thời kỳ Hồng (1905–1907)

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/a/a8/Autoportrait_%C3%A0_la_palette.jpg/240px-Autoportrait_%C3%A0_la_palette.jpg

Các tác phẩm của Picasso trong giai đoạn này mang vẻ tươi tắn hơn với việc sử dụng nhiều màu cam và hồng. Năm 1904 tại Paris, Picasso gặp Fernande Olivier, một người mẫu cho các họa sĩ và nhà điêu khắc, rất nhiều tác phẩm của ông trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ nồng ấm giữa hai người.

Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu (1908–1909)

Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu bắt đầu với tác phẩm nổi tiếng Những cô nàng ở Avignon (Les Demoiselles d'Avignon) lấy cảm hứng từ những đồ tạo tác Phi châu. Ông cho rằng mọi loại nghệ thuật phải tự học được cái hay của nhau. Ông chọn châu Phi làm cản hứng của mình bởi tính Lập thể rõ ràng của nó.



Thời kỳ Lập thể phân tích (1909–1912)
Chủ nghĩa Lập thể phân tích là phong cách vẽ mà Picasso đã phát triển cùng Georges Braque theo đó sử dụng những màu đơn sắc ngả nâu cho các tác phẩm. Các vật thể sẽ được hai họa sĩ tách thành những bộ phận riêng biệt và "phân tích" chúng theo hình dạng bộ phận này.



Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919)

Đây là sự phát triển chủ nghĩa lập thể của Picasso với việc sử dụng nghệ thuật cắt dán bằng các chất liệu vải, giấy báo, giấy dán tường để mô tả đề tài tĩnh vật và nhân vật.

Chủ nghĩa cổ điển và siêu thực

Sau Thế chiến thứ nhất, Picasso bắt đầu thực hiện các tác phẩm theo trường phái tân cổ điển (neoclassicism). Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Picasso, bức Guernica đã được sáng tác trong thời kì này. Bức tranh mô tả cuộc ném bom vào Guernica của phát xít Đức trong Nội chiến Tây Ban Nha.




Giai đoạn sau

Tác phẩm điêu khắc của Picasso tại Chicago
Picasso là một trong 250 nhà điêu khắc tham gia Triển lãm điêu khắc quốc tế lần thứ 3 tổ chức tại Bảo tàng mỹ thuật Philadelphia vào mùa hè năm 1949.

Trong thập niên 1950, họa sĩ một lần nữa thay đổi phong cách sáng tác, ông thực hiện các bức tranh dựa trên phong cách của các bậc thầy cổ điển như Diego Velázquez, Goya, Poussin, Édouard Manet, Courbet và Delacroix.

Di sản

Khi Picasso qua đời, rất nhiều tác phẩm do họa sĩ sáng tác vẫn thuộc quyền sở hữu của ông vì Picasso cảm thấy không cần thiết phải bán chúng. Thêm vào đó, ông còn có một bộ sưu tập rất giá trị các tác phẩm của những họa sĩ yêu thích như Henri Matisse. Vì Picasso không để lại di chúc, một phần bộ sưu tập này được dùng để trả thuế cho chính phủ Pháp và nó được trưng bày tại Bảo tàng Musée Picasso tại Paris. Năm 2003, những người thân của họa sĩ đã cho khánh thành một bảo tàng tại thành phố quê hương ông, Málaga, đó là Bảo tàng Museo Picasso Málaga.

Picasso có vài bức tranh nằm trong danh sách những tác phẩm nghệ thuật đắt giá nhất thế giới:

    Bức "Nude on a black armchair" - được bán với giá 45,1 triệu USD năm 1999.
    Bức Les Noces de Pierrette - được bán với giá hơn 51 triệu USD năm 1999.
    Bức Garçon à la pipe - được bán với giá 104 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's ngày 4 tháng 5 năm 2004 đã lập kỉ lục thế giới về giá cho một tác phẩm nghệ thuật.
    Bức Dora Maar au Chat - được bán với giá 95,2 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's ngày 3 tháng 5 năm 2006.


 Nguồn
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pablo_Picasso













------------------------------------------------------------------------------------------- 

-Bậc thềm tiến vào thánh đường của trí tuệ là biết sự ngu dốt của chính mình. 

The doorstep to the temple of wisdom is a knowledge of our own ignorance. 

Benjamin Franklin

Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2015

TÌM HIỂU VỀ STEM .




TÌM HIỂU VỀ STEM




I . TỔNG QUAN VỀ STEM




1. Sơ lược vài nét về STEM .

STEM là gì? Đó là từ viết tắt của khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Nhưng trong khi từ mẫu giáo đến lớp 12 việc giáo dục thường tập trung vào khoa học hay toán học theo cách độc lập, thì tất cả bốn lĩnh vực đó lại được quyện chặt vào nhau trong thế giới thực. Hãy tưởng tượng nếu các học sinh K-12 đều được giảng dạy theo cách nêu bật những kết nối này, nó sẽ làm cho nền tảng giáo dục sẽ có liên quan nhiều hơn đến cuộc sống của họ và mở rộng cánh cửa đến những sự nghiệp mới mẻ và hết sức thú vị.


2. Mô tả cách tiếp cận phương pháp giảng day STEM .

Dưới đây là một đoạn video trình bày về thực hành STEM .

 Tiến sĩ Diana Wehrello-Grabowski hướng dẫn thực hành-truyền đạt , những yêu cầu và tiêu chuẩn dựa trên chương trình đào tạo giáo viên STEM tại Hoa Kỳ và trên thế giới. Trong các powerpoint /bộ phim đào tạo giáo viên STEM sau đây tiến sĩ Diana Wehrell-Grabowski cung cấp hình ảnh và video của các giáo viên tiến hành khảo sát thực hành STEM. Giáo viên được giới thiệu về thực hành và nội dung STEM , quá trình thiết kế kỹ thuật, nhật ký phản ảnh trong lớp học STEM, và cách thức giáo dục STEM giúp cho việc xây dựng chuẩn 4C: sáng tạo, tư duy phê phán, giao tiếp và hợp tác. Trong các buổi tập huấn giáo viên STEM , tiến sĩ Wehrell-Grabowski hướng dẫn các giáo viên đang tích cực tham gia vào quá trình học, điều này sẽ làm họ thay đổi cách tiếp cận những vấn đề giáo dục. Tiến sĩ Wehrell-Grabowski tin rằng STEM sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi giáo dục ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Theo truyền thống, hệ thống giáo dục của chúng ta đã không được phép hoặc không khuyến khích sự sáng tạo, tư duy phê phán, giao tiếp và hợp tác trong các sinh viên hoặc các giáo viên. Giáo dục STEM thực sự có thể là một trong những câu trả lời để chuyển đổi hệ thống giáo dục và nguồn nhân lực lao động trong tương lai .




3. Ý nghĩa của  STEM đối với sự phát triển quốc gia .

Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, và Toán học (STEM, trước đây được viết tắt SETM) là một nền giáo dục nhóm được sử dụng tại Hoa Kỳ. Các từ viết tắt dùng để chỉ các môn học của khoa học (science) , công nghệ (technology), kỹ thuật(engineering) và toán học(mathematics). Thuật ngữ này thường được sử dụng khi giải quyết các chính sách giáo dục và chương trình giảng dạy trong nhà trường lựa chọn để cải thiện năng lực cạnh tranh trong phát triển khoa học và công nghệ.

Nó có ý nghĩa đối với việc phát triển nhân lực, vấn đề an ninh quốc gia và chính sách nhập cư. Các chữ viết tắt nảy  được sử dụng phổ biến thời gian ngắn sau khi một cuộc họp liên ngành về khoa học giáo dục được tổ chức tại Quỹ Khoa học Quốc gia (sau đó là NSF) dưới sự chủ trì của Giám đốc Rita Colwell.
Giám đốc của Văn phòng Khoa học và phát triển nhân lực Giáo viên và Khoa học gia đã đề xuất các thay đổi từ viết tắt SMET cũ thành STEM. Tiến sĩ Colwell, tỏ ra không thích các từ viết tắt cũ, trả lời bằng cách gợi ý NSF nên khởi đầu sự thay đổi. Một trong những dự án NSF đầu tiên sử dụng các từ viết tắt là STEMTEC nghĩa là Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Hợp tác Giáo dục giữa giáo viên Toán  tại Đại học Massachusetts Amherst, được chính phủ Hoa Kỳ  tài trợ trong năm 1997.

II. NỀN TẢNG STEM TẠI HOA KỲ

Image result for stem education

Tại Hoa Kỳ, các từ viết tắt này bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong các các cuộc tranh luận về chính sách giáo dục và nhập cư trong các sáng kiến để bắt đầu giải quyết sự thiếu nhận thức của các ứng cử viên đủ hoặc chưa đủ tiêu chuẩn cho công việc công nghệ cao.
Nó cũng giải quyết mối quan tâm mà các môn học thường được giảng dạy một cách độc lập, thay vì như một chương trình giảng dạy tích hợp. Việc đào tạo và duy trì một công dân thành thạo trong các lĩnh vực STEM là một phần quan trọng của chương trình giáo dục công của Hoa Kỳ. STEM cũng đã trở thành phổ biến trong các cuộc thảo luận giáo dục như là một tham chiếu về tình trạng thiếu hụt công nhân lành nghề và có một nền giáo dục chưa đầy đủ trong các lĩnh vực này.


1. Quỹ Khoa học Quốc gia (National Science Foundation NSF) .

Nhiều tổ chức tại Hoa Kỳ tuân thủ theo hướng dẫn của Quỹ khoa học quốc gia về cấu trúc của lĩnh vực STEM. NSF sử dụng một định nghĩa rộng hơn của các đối tượng STEM bao gồm các đối tượng trong các lĩnh vực hóa học, khoa học máy tính và công nghệ thông tin, kỹ thuật, khoa học địa chất, khoa học đời sống, khoa học toán học, vật lý và thiên văn học, khoa học xã hội (nhân học, kinh tế học, tâm lý học và xã hội học),  giáo dục STEM và nghiên cứu học tập.
Quỹ khoa học quốc gia tài trợ các dự án nghiên cứu .


Điều kiện cho chương trình học bổng như Chương trình học giả STEM CSM cũng sử dụng các định nghĩa của NSF. Đó là các cơ quan liên bang Mỹ chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ cho tất cả các lĩnh vực khoa học cơ bản và kỹ thuật, ngoại trừ đối với khoa học y tế. Các hoạt động về lĩnh vực chương trình này bao gồm học bổng, trợ cấp, giải thưởng tài trợ trong các lĩnh vực như khoa học sinh học, máy tính và thông tin khoa học và kỹ thuật, giáo dục và nguồn nhân lực, kỹ thuật, nghiên cứu môi trường và giáo dục, khoa học địa chất, khoa học và kỹ thuật quốc tế, khoa học toán học và vật lý, khoa học xã hội, hành vi và kinh tế, hạ tầng điều khiển (cyberinfrastructure) và các chương trình địa cực.

Thông qua việc thực hành, học tập trong lớp học theo dự án, học sinh tìm hiểu làm thế nào để áp dụng những kỹ năng đã học trong môn toán và khoa học áp dụng vào thực tế


2. Trình độ STEM - chuẩn điều kiện nhập cư vào Hoa Kỳ .


Một danh sách đầy đủ của các ngành STEM không tồn tại vì nhiều định nghĩa khác nhau của những tổ chức khác nhau. Bộ di trú nhập cư và Hải quan Hoa Kỳ đưa ra các danh sách môn học bao gồm : vật lý, khoa học tính toán bảo hiểm, hóa học, sinh học, toán học, toán học ứng dụng, thống kê, khoa học máy tính, khoa học tính toán , tâm lý học, hóa sinh, robotics , kỹ thuật máy tính, kỹ thuật điện, điện tử, cơ khí , kỹ thuật công nghiệp, khoa học thông tin, công trình dân dụng, kỹ thuật hàng không vũ trụ, công nghệ hóa học, vật lý thiên văn, thiên văn học, quang học, công nghệ nano, vật lý hạt nhân, sinh học toán học, hoạt động nghiên cứu thần kinh học, cơ chế sinh học, vi sinh học, kỹ thuật âm thanh, hệ thống thông tin địa lý, khoa học khí quyển, giáo dục công nghệ / giảng dạy, kỹ thuật phần mềm, và nghiên cứu giáo dục.


3. Giáo dục và nền tảng STEM .

STEM thường hỗ trợ cho sự mở rộng các nghiên cứu về kỹ thuật theo từng đối tượng khác , và bắt đầu với kỹ thuật ở lớp trẻ, thậm chí còn ở cấp tiểu học. Nó cũng mang lại giáo dục STEM cho tất cả sinh viên thay vì chỉ là các chương trình năng khiếu. Trong ngân sách năm 2012 của mình, Tổng thống Barack Obama đổi tên và mở rộng chương trình  "Toán học và  Đối tác Khoa học  (Mathematics and Science Partnership-MSP)" để trao giải khối tài trợ cho các tiểu bang trong việc cải thiện quy trình đào tạo giáo viên trong các môn học.
Vào năm 2006 Viện Hàn lâm Hoa Kỳ bày tỏ quan ngại của họ về tình trạng suy giảm của nền giáo dục STEM tại Hoa Kỳ. Ủy ban Khoa học Kỹ thuật và chính sách công đã phát triển một danh sách gồm 10 hành động. Top ba hành động khuyến nghị của họ là :

   - Gia tăng quỹ tài năng Hoa Kỳ bằng cách cải tiến giáo dục khoa học và  toán học K-12 .
   - Tăng cường kỹ năng của giáo viên thông qua đào tạo bổ sung về kiến thức khoa học, toán học và công nghệ .
   - Khuyếch trương các kênh cung cấp sinh viên chuẩn bị bước vào đại học và sau đại học với cấp độ STEM .

Cơ quan hàng không và không gian quốc gia (NASA) cũng đã thực hiện các chương trình song song cùng với chương trình giảng dạy để nâng cao giáo dục STEM nhằm bổ sung nguồn các khoa học gia , kỹ sư và toán học gia , những người sẽ dẫn dắt chương trình khám phá vũ trụ trong thế kỷ 21.

Du thuyền thám hiểm vũ trụ NASA


Từng tiểu bang, như California, đã thực hiện thí điểm chương trình sau học tập STEM , ví dụ, để tìm hiểu những quy trình thực hành nào có nhiều hứa hẹn nhất và làm thế nào để thực hiện chúng nhằm mục đích tăng cơ hội thành công của học sinh. Nền giáo dục STEM đã và đang tiếp tục mở rộng đến cấp độ sau trung học và đại học thông qua các chương trình thạc sĩ như chương trình STEM của đại học Maryland cũng như trường đại học Cincinnati.

4. Sáng kiến ​​cạnh tranh Hoa Kỳ .

Trong diễn văn Chính phủ Liên Bang ngày 31 Tháng 1 năm 2006, Tổng thống George W. Bush tuyên bố Sáng kiến ​​Cạnh tranh Mỹ. Bush đã đề xuất các sáng kiến ​​để giải quyết sự thiếu sót trong việc hỗ trợ của chính phủ liên bang về phát triển giáo dục và tiến bộ ở tất cả các cấp học trong các lĩnh vực STEM. Cụ thể, sáng kiến này kêu gọi gia tăng về ngân sách liên bang cho các chương trình R & D tiên tiến (bao gồm cả tăng gấp đôi kinh phí hỗ trợ liên bang cho nghiên cứu chuyên sâu trong khoa học vật lý thông qua DOE) và gia tăng số lượng sinh viên tốt nghiệp đại học trong các ngành STEM ở Mỹ .

Sự cạnh tranh về kinh doanh các phương tiện NASA , được tài trợ bởi Texas Space Grant Consortium, cũng nhằm đẩy xa hơn nữa mục tiêu đó. Sinh viên đại học được đào tạo trong môi trường cạnh tranh để phát triển các kế hoạch , khuyến khích học sinh trung học đại học và cao học nghiên cứu các môn học STEM và truyền cảm hứng cho các giáo sư trong các lĩnh vực STEM để học sinh tham gia vào các hoạt động tiếp cận cộng đồng hỗ trợ giáo dục STEM.

Học viện STEM là một tổ chức quốc gia phi lợi nhuận - dành cho việc nâng cao STEM , xóa mù chữ cho tất cả học sinh. Học viện này đại diện cho một mô hình học thuật quốc gia được công nhận về tác động cao đến thế hệ tiếp nối . Các tập quán , chiến lược và chương trình đều được xây dựng trên một nền tảng của thực hành quốc gia xác định tốt nhất  được thiết kế để cải thiện việc thu ngắn khoảng cách thành tích thiểu số , giảm lượng sinh viên có thu nhập thấp,, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, tăng tỷ lệ tốt nghiệp trung học và cải thiện giáo viên và kèm theo những hiệu quả thực tế thông qua việc giáo dục STEM . Học viện STEM là một mô hình học tập sử dụng linh hoạt nhằm vào tất cả các trường học và dành cho tất cả học sinh , sinh viên.
Học sinh Hoa Kỳ tham gia Dự án khai mở PLTW


Dự án khai mở - Project Lead The Way (PLTW) được xem như  là một nhà cung cấp hàng đầu về các chương trình ngoại khóa giáo dục STEM cho các trường trung học tại Hoa Kỳ. Các tổ chức phi lợi nhuận quốc gia có hơn 5.200 chương trình , có mặt tại hơn 4.700 trường học ở tất cả 50 tiểu bang. Chương trình này bao gồm một chương trình giảng dạy trung học kỹ thuật được gọi là Quỹ đạo Kỹ thuật - Pathway Engineering, một chương trình khoa học y sinh cấp trung học phổ thông , và một chương trình kỹ thuật công nghệ cấp trung học cơ sở gọi là   Nhập môn Công nghệ - Gateway To Technology. PLTW cung cấp chương trình giảng dạy và phát triển chuyên môn  giáo viên đồng thời hỗ trợ liên tục để tạo ra các chương trình chuyển đổi trong các trường học, các quận hạt , và các cộng đồng. Chương trình PLTW đã được xác nhận bởi Tổng thống Barack Obama và  Bộ trưởng Giáo dục Hoa Kỳ Arne Duncan cũng như nhiều lãnh đạo chính phủ các cấp , quốc gia, và giới chức lãnh đạo hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh .
Chương trình Đường vào công nghệ dành cho học sinh trung học cơ sở .

5. Các tổ chức và liên minh giáo dục STEM.

Liên minh Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học (STEM) và Giáo dục đã hoạt động để hỗ trợ các chương trình STEM cho giáo viên và học sinh tại Bộ Giáo Dục Hoa Kỳ, Quỹ Khoa học Quốc gia và các cơ quan khác cung cấp các chương trình STEM liên quan . Thông qua việc thực hành, học tập trong lớp học theo dự án, học sinh tìm hiểu làm thế nào để áp dụng những kỹ năng đã học trong môn toán và khoa học để áp dụng vào thực tế . Hoạt động của Liên minh STEM dường như đã chậm lại kể từ tháng 9 năm 2009 nhưng có chiều hướng tăng trưởng trở lại trong những năm gần đây 2012-2015 .



6.  STEM và Tổ chức Hướng Đạo Sinh Hoa Kỳ.

Tổ chức Hướng Đạo Sinh Hoa Kỳ  đã công bố các văn kiện của chương trình giải thưởng trong mùa xuân năm 2012 để thúc đẩy hơn nữa sự quan tâm và tham gia của thành viên trong các lĩnh vực STEM. Các giải thưởng NOVA và SUPERNOVA dành cho Hướng Đạo Sinh Thiếu Niên , Hướng Đạo Sinh Ấu Niên và Hướng Đạo Sinh Tráng Niên khi họ hoàn thành các yêu cầu cụ thể phù hợp với cấp độ chương trình của họ thuộc một trong bốn lĩnh vực chương trình STEM chính : Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, và Toán.

Một buổi thảo luận về mô hình Robotic của các Hướng Đạo Sinh Thiếu Niên 


Giảng dạy về khám phá không gian cho các Hướng Đạo Sinh Ấu Nhi


Rất nhiều ví dụ điển hình cho chương trình liên kết STEM và Tổ chức Hướng Đạo như sự hợp tác giữa Tiến sĩ Dave Hairston, một nhà nghiên cứu thần kinh học cùng với Trung tâm nghiên cứu ARL's Human và Giám đốc kỹ thuật, giới thiệu cho Hướng Đạo Sinh Thiếu Niên về trạng thái thần kinh quá độ bằng cách sử dụng tai nghe và laptop trong chương trình  do các tình nguyện viên đứng ra tổ chức .

Dave Hairston , tiến sĩ thần kinh học và các Hướng Đạo Sinh Ấu Nhi


Trại hè Hướng Đạo tháng 5-2015 tại St . Louis với chủ đề gắn kết với STEM đã được tổ chức cùng với sự hợp tác giữa nhiều trường đại học , tổ chức nghiên cứu , cơ quan giáo dục tiểu bang và liên bang .


Biểu tượng của Trại hè Hướng Đạo tháng 5 - 2015


7. Các chương trình thuộc Bộ quốc phòng Hoa Kỳ.

Các đặc vụ điều khiển học-điện tử (Ecybermission) là cuộc tranh tài tự do về những nội dung như  khoa học web, toán học và công nghệ dành cho học sinh từ lớp sáu đến chín được tài trợ bởi quân đội Mỹ. Mỗi webinar được tập trung vào một bước khác nhau của các phương pháp khoa học và được trình bày bởi một Hướng dẫn viên đặc vụ điều khiển học-điện tử  (eCYBERMISSION CyberGuide) có kinh nghiệm. CyberGuides là  những tình nguyện viên quân sự và dân sự với một nền tảng mạnh mẽ về STEM và giáo dục STEM , những người này có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc có giá trị về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học cho sinh viên và các cố vấn đội nhóm .

Một buổi huấn luyện thể lực-kỹ năng trong chương trinh Ecybermission .

Đại sứ cho chương trình này là những người thuộc các tổ chức dân sự hay quân sự , có nhiệm vụ thúc đẩy các chương trình eCYBERMISSION trong cộng đồng của họ. Đại sứ cũng có thể tình nguyện như một CyberGuide. Tất cả các Đại sứ sẽ cần phải có một nền tảng STEM và phải đạt yêu cầu kiểm tra được tiến hành bởi eCYBERMISSION trước khi bắt đầu vai trò của họ như là một tình nguyện viên.

Vai trò của một đại sứ eCYBERMISSION thường là
    -Thăm viếng các trường học trong cộng đồng của họ nhằm mục đích khuyến khích sự tham gia và tìm kiếm các cơ hội , học bổng cho học sinh , sinh viên .
    -Tìm kiếm các cơ quan giáo dục STEM hoặc các tổ chức thiện chí để giúp thúc đẩy các chương trình và sự tham gia liên kết trong tương lai;
    -Tuyển dụng các đồng nghiệp và bạn bè tham gia tình nguyện cho chương trình, hình thành nên các đội nhóm hỗ trợ STEM .


Jonathan Berman, Benjamin Kotzubei và Austin Veseliza trình bày cho Tổng thống Obama về dự án của các em trong eCYBERMISSION.

STARBASE là chương trình giáo dục hàng đầu, được tài trợ bởi Văn phòng Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về công vụ hậu cần . Học sinh sẽ được tương tác với các nhân viên quân sự , các sĩ quan , tướng lĩnh cao cấp để khám phá nghề nghiệp và kết nối khoa học với "thế giới thực". Chương trình cung cấp cho học sinh , sinh viên từ 20-25 giờ nhằm kích thích tiềm năng , thu thập kinh nghiệm tại Lực lượng cảnh vệ Quốc gia , Hải quân, Thủy quân lục chiến, Khu bảo tồn Không quân và các căn cứ không quân trên toàn quốc.

SEAPERCH là  chương trình nghiên cứu robot dưới nước tiên tiến , đào tạo giáo viên dạy cho học sinh của mình cách thức thiết kế , vận hành một chiếc xe điều khiển từ xa dưới nước (remotely operated vehicle -ROV) trong các buổi học chính trong trường học hoặc ngoài giờ . Học sinh sẽ xây dựng các ROV từ những bộ lắp ghép chi phí thấp, các bộ phận dễ dàng tháo ráp , tiếp sau đó là một chương trình giảng dạy d0a8c biệt về kỹ thuật và khoa học , các khái niệm cơ bản về chủ đề kỹ thuật hàng hải.

8. Các quy định về Luật pháp Hoa Kỳ về STEM .

Đạo luật cạnh tranh Hoa Kỳ 2007: Đạo luật cạnh tranh Mỹ (PL 110-69) có hiệu lực vào ngày 9 tháng 8, 2007. Đạo luật này đáp ứng mối quan tâm rằng Hoa Kỳ có thể không có khả năng cạnh tranh kinh tế với các quốc gia khác trong tương lai do không đủ đầu tư ngày hôm nay trong nghiên cứu khoa học và công nghệ và khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) giáo dục và phát triển lực lượng lao động. Luật cạnh tranh Mỹ là nhằm tăng cường đầu tư của quốc gia trong nghiên cứu khoa học và kỹ thuật và giáo dục STEM từ mầm non đến sau đại học và giáo dục bậc sau tiến sĩ.

Đạo luật cho phép tăng cường tài trợ cho Quỹ Khoa học Quốc gia, Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ phòng thí nghiệm , và Bộ Năng lượng (DOE) Văn phòng Khoa học từ năm ngân sách 2008 - 2010. Robert Gabrys, Giám đốc Giáo dục tại Goddard Space Flight Center của NASA, đã liên kết thành công với kết quả gia tăng thành tích học sinh, những biểu hiện sớm của học sinh quan tâm đến các môn STEM, và việc chuẩn bị cho sinh viên khi làm việc .

Vào tháng Giêng năm 2014, tiểu ban Nghiên cứu và Công nghệ Hạ viện Mỹ đã tổ chức một buổi điều trần để xem xét các chương trình giáo dục STEM do khu vực tư nhân thực hiện . Trong năm 2014 chính phủ liên bang Mỹ lên kế hoạch chi tiêu 3 tỷ USD về các chương trình giáo dục STEM thông qua một loạt các cơ quan liên bang.


9. Tác động của STEM và việc làm tại Hoa Kỳ .

Tháng 11 năm 2012 thông báo của Nhà Trắng trước cuộc bỏ phiếu của Quốc hội về Đạo luật Việc làm STEM  khiến Tổng thống Obama đối lập với rất nhiều các công ty Silicon Valley và các giám đốc điều hành , là người cấp vốn cho chiến dịch tái tranh cử của ông . Bộ Lao động xác định 14 lĩnh vực được "dự kiến để tăng thêm số lượng đáng kể việc làm mới cho nền kinh tế, hoặc ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của ngành công nghiệp khác hoặc đang bị biến đổi bởi công nghệ và đổi mới đòi hỏi phải tập trung đào tạo những kỹ năng mới cho người lao động ". Các lĩnh vực được xác định như sau: công nghệ sản xuất tiên tiến, Ô tô, xây dựng, dịch vụ tài chính, công nghệ địa lý không gian , an ninh quốc gia, công nghệ thông tin, giao thông vận tải, hàng không vũ trụ, công nghệ sinh học, năng lượng, y tế, khách sạn, và thương mại bán lẻ.

Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã  lưu ý rằng các nghề nghiệp có liên quan đến lĩnh vực STEM là một số trong những việc làm có tiền lương tốt nhất và có tiềm năng lớn nhất cho sự tăng trưởng việc làm trong những năm đầu thế kỷ 21. Báo cáo cũng lưu ý rằng công nhân STEM đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững và ổn định của nền kinh tế Mỹ, và đào tạo trong các lĩnh vực STEM nói chung kết quả vẫn có được mức lương cao hơn, dù có hoặc không làm việc trong một môi trường STEM.


III. MỘT SỐ TỔ CHỨC TRONG GIÁO DỤC STEM TẠI HOA KỲ

http://www.nsf.gov/nsb/sei/edTool/  trang web tài nguyên giáo dục STEM, nơi bạn có thể khám phá được kết luận cho những câu hỏi quan trọng về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) giáo dục và nghề nghiệp bằng cách sử dụng thông tin từ báo cáo Hội đồng Khoa học và chỉ số kỹ thuật Quốc gia.

http://www.stemedcoalition.org/  trang web của Liên minh giáo dục STEM với mục đích hoạt động tích cực để nâng cao nhận thức trong Quốc hội, Cục Quản lý, và các tổ chức khác về vai trò quan trọng của STEM trong giáo dục nhằm triển khai thực hiện mục tiêu Mỹ sẽ vẫn là nhà lãnh đạo kinh tế và công nghệ của các thị trường toàn cầu của thế kỷ 21. Liên Minh được tổ chức theo hình thức và cấu trúc như một tổ chức phi lợi nhuận 501c4.

http://www.definedstem.com/  website  giáo dục cho học sinh K-12 kết hợp công nghệ, sáng tạo, xây dựng chương trình đào tạo và chuyên môn để cung cấp sản phẩm hữu ích và có liên quan đến trường học , các nền tảng cho phép giáo viên có thể áp dụng các kiến ​​thức khoa học cho học sinh thông qua việc sử dụng các dự án dựa vào học tập, nghề nghiệp trong thế giới thực .

http://www.ndep.us/  Chương trình Giáo dục Quốc phòng với mục tiêu xây dựng nền tảng cho các nhu cầu của lực lượng lao động tương lai của Bộ Quốc phòng bằng cách hỗ trợ các chương trình khoa học và toán học tại ba cấp học: dự bị-đại học, cao đẳng - đại học, và sau tiến sĩ.

http://www.nianet.org/?s=+STEM Viện hàng không vũ trụ quốc gia (NIA) là một viện nghiên cứu giáo dục phi lợi nhuận được thành lập ra để tiến hành những công trình nghiên cứu hàng không vũ trụ và khí quyển tiên tiến , tìm kiếm phát triển công nghệ mới cho nhu cầu quốc gia và giúp truyền cảm hứng cho thế hệ tiếp nối các khoa học gia và các kỹ sư.

http://www.stemschool.com/   tập trung vào các môn học STEM nhằm giúp đỡ học sinh , sinh viên đạt được những kỹ năng cần thiết thành công trong thế giới đầy thách thức hiện nay. Điều này bao gồm khả năng tư duy phê phán, giải quyết các vấn đề phức tạp, và đạt được tiến bộ trong khoa học và công nghệ.

http://stemcareer.com/  nhằm đáp ứng nhu cầu đối với người lao động có tay nghề cao trong khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) có liên quan chặt chẽ đến khả năng cạnh tranh toàn cầu. Web site này có chức năng tư vấn cho sinh viên đồng thời truyền cảm hứng để giải quyết những vấn đề trong khi thúc đẩy sự nghiệp STEM .



Trần hồng Cơ 
Ngày 20/10/2105

Nguồn  :
https://en.wikipedia.org/wiki/Science,_Technology,_Engineering,_and_Mathematics#cite_note-1
https://www.ecybermission.com/Roles
http://ecybermission.blogspot.com/2010_10_01_archive.html
http://www.asbmb.org/asbmbtoday/asbmbtoday_article.aspx?id=6766
https://www.govtrack.us/congress/bills/110/hr2272/tex

-------------------------------------------------------------------------------------------

 Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

 Geothe

Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2015

Thomas Edison - Nhà phát minh lỗi lạc .


 Thomas Edison - Nhà phát minh lỗi lạc .


Thomas Edison holding his right hand to his right ear.
Thomas Edison smiling as he holds his hand to his ear.
Thomas Edison NHP Archives

Thomas Edison (1847 - 1931) nhà phát minh số một của Hoa Kỳ và thế giới

1. Thời thơ ấu
Vào khoảng tháng 12 năm 1837, Đại Úy William L. Mackenzie và các đồng chí trong đó có ông Samuel Edison, đã tổ chức một cuộc cách mạng, định đánh chiếm thành phố Toronto thuộc Gia Nã Đại nhưng mưu sự không thành. Để tránh sự lùng bắt, ông Samuel Edison phải trốn sang Michigan, Hoa Kỳ, rồi lưu lại Detroit vì thời bấy giờ, chính phủ Gia Nã Đại dự định lưu đầy các phạm nhân chính trị sang Tasmania, châu Úc.

Sau khi mang được gia đình gồm vợ và hai con sang Hoa Kỳ vào đầu năm 1839, ông Samuel Edison dời nhà tới Milan, thuộc tiểu bang Ohio. Milan là một thị trấn nhỏ bên giòng sông Huron, cách hồ Erie vài dặm đường. Tại Milan, công việc buôn bán khá sầm uất. Từ nơi đây người dân chở đi nào ngũ cốc, rau trái, nào củi gỗ và các nông sản khác. Ông Samuel Edison dựng nên tại nơi đây một xưởng cưa và công việc làm ăn khá phát đạt. Chính tại nơi cư ngụ mới này, gia đình Edison đã có thêm một đứa trẻ vào ngày 11/2/1847. Ông Samuel đặt tên cho đứa bé là Thomas Alva Edison để ghi nhớ Đại Úy Alva Bradley đã có công giúp đỡ gia đình Samuel sang Hoa Kỳ.

Alva hay Al, tên gọi tắt, là một đứa trẻ có cái đầu to khác thường khiến cho bác sĩ bảo cậu sẽ bị đau óc nhưng điều tiên đoán này đã trở thành sai lầm và thực ra, chính bộ óc của Al sau này đã làm tiến triển ngành Kỹ Thuật của Nhân Loại.

Càng lớn, Al càng tỏ ra hiếu kỳ. Cậu thường đặt các câu hỏi “tại sao, thế nào... “ và các câu thắc mắc không bao giờ hết của cậu đã khiến cho những người chung quanh đành phải trả lời “không biết”. Khi lên 5 tuổi, Al thường lang thang bên bờ sông mà coi người lớn làm việc. Tại nơi này, cậu được nghe nhiều bài hát và đã thuộc lòng rất nhanh các câu ca bình dân, điều này chứng tỏ Al có một trí nhớ rất tốt và nhờ trí nhớ này mà về sau, cậu thu thập được nhiều kiến thức sâu rộng.


Vào năm 1850, đường xe lửa được đặt tại nhiều nơi trên đất Hoa Kỳ. Tại Milan, các bô lão từ chối không cho phép đường sắt đi qua làng mình vì e ngại công việc làm trên sông bị tê liệt. Vì thế đường xe lửa chỉ được thiết lập tại phía bắc tiểu bang Ohio và cũng do vậy, thị trấn Milan trở nên kém sầm uất. Ông Samuel đành phải đóng xưởng cưa và dọn nhà qua Port Huron, thuộc tiểu bang Michigan vào năm 1854. Tại Port Huron, ông Samuel buôn bán ngũ cốc, củi gỗ và cũng trồng rau và trái cây. Năm lên 8 tuổi, Al từng giúp cha, chất rau trái lên một chiếc xe ngựa và đi bán hàng từng nhà trong thị xã.

Al cũng được cha mẹ cho đi học tại một ngôi trường độc nhất. Trường chỉ có một lớp với khoảng 40 học sinh, lớn có, nhỏ có, học một ông giáo theo các trình độ khác nhau. Trong phòng học những chỗ ngồi gần ông thầy chỉ để dành cho các trẻ em ngu đần. Tại lớp học, Al đặt rất nhiều câu hỏi hắc búa mà lại không chịu trả lời các câu hỏi của thầy. Al thường đội sổ, khiến cho các bạn cậu chế riễu cậu là đần độn.

Một hôm, nhân có viên thành tra vào thăm lớp học, thầy giáo đã chỉ vào Al và nói : “trò này điên khùng, không đáng ngồi học lâu hơn”. Al rất căm hận về hai chữ “điên khùng” và đem câu chuyện này kể lại với mẹ. Bà Nancy khi nghe kể xong, liền nổi giận, bà dẫn ngay Al đến trường và bảo ông giáo : “ông bảo con tôi điên khùng hả? Tôi nói thật cho ông rõ, trí óc của nó còn hơn ông đấy. Tôi sẽ giữ nó tại nhà và dạy lấy, vì tôi đã là giáo viên, để ông thấy rằng sau này nó sẽ ra sao!”.

Từ đó, Alva không đến trường nữa mà học với mẹ tại nhà trong suốt 6 năm trường. Nhờ mẹ, Al học dần các môn Lịch Sử của Hy Lạp, La Mã và Sử Thế Giới. Al cũng được làm quen với Thánh Kinh, với các tác phẩm của Shakespeare và của các văn sĩ, thi sĩ, sử gia danh tiếng khác. Nhưng đặc biệt nhất, Al ưa thích Khoa Học. Cậu có thể kể lại rành mạch các phát minh, các thí nghiệm và tiểu sử của các đại bác học như Newton, Galileo. . . Chỉ trong vòng 6 năm, bà Nancy đã truyền lại cho con tất cả kiến thức của mình, từ môn Địa Dư với những tên núi sông, tới môn Toán Học chính xác. Bà Nancy không những dạy con về học vấn mà còn huấn luyện Al về hạnh kiểm. Al được mẹ nhắc nhở các đức tính thật thà, ngay thẳng, tự tin và cần cù, cộng với lòng ái quốc và tình yêu nhân loại.

Al học hành tiến bộ rất nhanh chóng khiến cho cha rất hài lòng. Ông Samuel thường cho con các món tiền nhỏ đủ mua dần từng cuốn sách hữu ích, nhờ thế Al đã say sưa với các tác phẩm như Ivanho của Scott, Robinson Crusoe của Defoe và Oliver Twist của Dickens. Nhưng tác giả mà Al ưa thích nhất là Victor Hugo và cậu thường kể lại cho các bạn nghe các câu chuyên đã đọc qua.

Năm 10 tuổi, Al được cha cho cuốn sách toát yếu về Khoa Học của soạn giả Parker (School Compendium of Natural and Experimental Philosophy by Richard Green Paker). Trong cuốn sách toát yếu này, Paker đã giảng giải về máy hơi nước, máy điện báo, cột thu lôi, pin Volta. . . Cuốn sách đã trả lời Al rất nhiều điều mà từ trước, Al vẫn thường thắc mắc. Cuốn sách này đã dẫn đường cho Al tới phạm vi rộng lớn của Khoa Học và khiến cho cậu yêu thích môn Hóa Học.


2. Thời kỳ thực tập.

Năm 12 tuổi, Al nói với cha mẹ : “Thưa cha mẹ, con hiện nay cần nhiều tiền, cha mẹ cho phép con đi xin việc làm”. Hai ông bà Edison đã ngăn cản con vì lo sợ Al sẽ gặp phải các rủi ro, hơn nữa công việc kiếm ăn sẽ làm trở ngại sự học nhưng Al đã quyết định rồi, cậu nằng nặc đòi cha mẹ cho phép thử tự lập và hứa rằng sẽ hết sức thận trọng.

Thời bấy giờ, công ty xe lửa Grand Trunk thiết lập một ga nhỏ tại Port Huron. Al xin được phép bán báo, tạp chí, sách vở, trái cây và bánh kẹo trên xe lửa chạy quãng đường Port Huron và Detroit dài 101 cây số. Từ đó cậu bé 12 tuổi này mỗi tháng thức dậy lúc 6 giờ để đáp chuyến xe lửa 7 giờ và tới Detroit lúc 10 giờ. Thông thường tới Detroit, Al vội vã đến thư viện và nghiền ngẫm trong nhiều giờ các cuốn sách mà cậu không thể tìm thấy tại nơi mình cư ngụ. Al tập dần cách đọc nhanh và cậu quyết định bắt đầu đọc các sách của các tác giả từ vần A cho tới hết 16,000 cuốn của thư viện. Tới 6 giờ chiều, Al lại ra xe và trở về Port Huron lúc 9 giờ 30 tối. Ít khi Al đi ngủ trước 11 giờ đêm vì cậu còn phải làm các thí nghiệm hóa học trong hơn một giờ đồng hồ.

Trong thời gian bán báo và kẹo bánh trên xe lửa, Al làm quen được nhiều người gồm các chuyên viên điện báo, các công nhân và nhân viên nhà ga. Cậu được các người này giúp đỡ trong nhiều trường hợp khó khăn.

Vào năm 1861, cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ bùng nổ. Các trận đánh càng ác liệt thì số báo lại càng bán chạy. Al bèn nghĩ tới việc bán báo tại tất cả các nhà ga phụ. Vào ngày 01 tháng 4 năm 1862, tờ báo Free Press loan tin trận đánh quyết định tại Shiloh trong tiểu bang Tennessee. Al liền chạy vội tới tòa báo Free Press là tờ báo lớn nhất tại Detroit và hỏi mua 1,000 tờ trả tiền sau, rồi Al và hai người bạn vác báo lên tầu. Tại các ga đầu, số báo bán được còn ít ỏi nhưng càng đi xa hơn, số người hỏi mua báo càng gia tăng khiến cho Al nghĩ cả đến việc tăng giá báo từ 5 xu tới 10 xu, rồi sau cùng bán tới 25 xu một tờ. Nội trong ngày hôm đó, Al đã bán hết 1,000 tờ báo trước khi tới Port Huron và thu được hơn 100 đô la, một số tiền lớn nhất mà cậu kiếm được từ trước tới nay.


3. Ông chủ báo nhỏ tuổi và điện tín viên.

Một sáng kiến khác lại nẩy ra trong đầu óc của cậu bé đầy nghị lực này : Al định ra báo. Cậu liền mua một máy in quay tay và cậu thiết lập thêm trong toa hành lý “một cơ sở báo chí” nữa. Al đã cho ra đời tờ tuần báo khổ nhỏ có tên là “The Weekly Herald” (Diễn Đàn Hàng Tuần). Viên chủ nhiệm nhỏ tuổi này nhận thấy không thể cạnh tranh với các báo chí tại Detroit về các tin tức chiến sự nên quyết định chỉ phổ biến mọi tin xẩy ra trong vùng dọc theo hai bên con đường sắt. Cậu thu lượm tin tức nhờ các chuyên viên điện báo địa phương. Al vừa là chủ nhiệm, quản lý, vừa là ký giả, thợ in và người bán báo. Từ đó tuần báo The Weekly Herald 2 trang, được in mỗi mặt 3 cột. Ngoài các tin tức địa phương, Al còn cho phổ biến các tin về hiếu hỉ, các tai nạn, hỏa hoạn. . .

Báo của Al bán được khá chạy. Ngay ở số đầu tiên đã tiêu thụ được chừng 400 tờ trong một tháng. Al còn nhận cả việc quảng cáo trên báo nữa. Tuần báo The Weekly Herald đã có lần được bán cho nhà phát minh người Anh là ông Stephenson khi viên kỹ sư này một hôm đi trên chuyến xe lửa qua miền Port Huron. Ông Stephenson đã ngợi khen các ý tưởng của Al và ông quả quyết rằng báo của cậu cũng giá trị như các báo của những người lớn gấp đôi tuổi.

Muốn làm gia tăng số độc giả, Al cho thêm vào tuần báo một đề mục chuyện nói chuyện ngồi lê mách lẻo và ký dưới tên hiệu Paul Pry (Paul, người tọc mạch). Al đã dùng báo chí của mình để chỉ trích một vài người trong vùng và cậu đã cẩn thận ghi tên của họ bằng mẫu tự đầu tiên. Nhưng quãng đường 101 cây số rất ngắn ngủi, không thể giúp Al tránh khỏi sự săn đuổi của những nạn nhân bị chế nhạo. Rồi vào một ngày đẹp trời, khi Al đang đi bộ trên bờ sông Saint Clair, bỗng có một người vạm vỡ tiến lại gần Al, túm cổ viên chủ nhiệm nhỏ tuổi, ném xuống sông. Al ngoi lên bờ, quần áo ướt như chuột. Bực mình vì bị một số độc giả luôn rình rập quấy rầy, Al quyết định ngưng việc làm báo.

Vào một buổi sáng tháng 8 năm 1862, Al đứng nói chuyện với ông Mackenzie, nhân viên nhà ga kiêm chuyên viên điện báo. Ông Mackenzie có một đứa con trai 2 tuổi rưỡi, tên là Jimmy, thường hay lân la chơi tại sân ga. Khi đang trò chuyện, bỗng Al trông thấy Jimmy đang đi dọc theo đường sắt trong khi đó, một toa xe goòng đang phóng đến. Nhận thấy sự nguy hiểm trước mắt, Al liền lao mình tới chỗ đứa bé, ôm lấy nó mà lăn ra phía ngoài. Để đền đáp ơn cứu tử đứa con của mình, ông Mackenzie nhận dạy Al nghề điện báo và hứa sẽ xin việc cho cậu khi nào Al thành thạo.

Từ đó Al bắt đầu bỏ ra mỗi ngày 18 giờ để học về điện báo và chữ Morse. Chỉ trong vài tuần lễ, Al đã theo kịp tất cả các tín hiệu do ông Mackenzie đánh đi. Sau 3 tháng học hỏi, không những Al tiến bộ đến nỗi ông Mackenzie phải gọi Al là chuyên viên điện báo hạng nhất, và Al còn chế tạo được một máy điện tín có đầy đủ tính cách toàn hảo cũng như cho phép người xử dụng máy gửi điện tín đi thật nhanh chóng.

Trong thời kỳ Nội Chiến Nam Bắc Mỹ, hàng trăm điện tín viên bị gọi nhập ngũ vào các đội truyền tin. Kết quả của sự kiện này là các công ty thương mại cũng như hỏa xa thiếu chuyên viên. Vì thế xin một chân làm việc về điện tín là một điều dễ dàng và một người mới học nghề cũng có thể kiếm được việc. Vào khoảng năm 1864, Al nhận thấy có đủ khả năng nhận một chân điện tín viên nên từ bỏ nghề bán báo và tới Stradford, Gia Nã Đại, xin làm việc vào tháng 5. Al trở thành điện tín viên tại ga Stratford này và lãnh lương mỗi tháng 25 đô la.

Từ năm 1864 tới năm 1868, Al đã làm việc tại nhiều nơi như New Orleans, Indianapolis, Louisville, Memphis và Cincinnati. . . Chàng thanh niên này cũng bắt đầu bỏ cách gọi tắt là Al mà dùng tới tên chính là Thomas hay cách gọi thân mật là Tom.

Thomas Edison bây giờ là một chàng thanh niên khỏe mạnh, nhiều thiện cảm và vui tính. Sự cởi mở, lòng chân thật đã khiến Tom có nhiều bạn nhưng cách làm việc đặc biệt của Tom đã khiến cho các bạn bè cho chàng là người kỳ quặc. Tom ăn mặc giản dị, quần áo cũ kỹ và dính mực, đôi giày của chàng mòn đế cũng không khiến chàng nghĩ đến việc thay đôi mới. Vào mùa lạnh, Tom cố chịu rét hơn là bỏ tiền mua một áo choàng bằng nỉ vì chàng đã dồn tiền vào việc mua sắm các sách vở khoa học và dụng cụ thí nghiệm.

Vào đêm hôm 14/ 4/1865, cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ chấm dứt, làm cho hàng trăm điện tín viên mất việc. Tom Edison trở về Louisville rồi tới cuối năm 1868, từ biệt cha mẹ đi Boston để nhận chân chuyên viên điện tín. Năm 21 tuổi, Tom thực hiện được phát minh đầu tiên, đó là một máy đầu phiếu. Tom gửi sáng kiến này tới Phòng Văn Bằng Sáng Chế rồi đưa trình lên Quốc Hội, nhưng vào thời đó không nghị sĩ nào ưa thích thứ máy móc tân kỳ đó. Mặc dù thất bại, Tom lại bắt đầu làm nhiều việc khác. Chàng đã chế ra được một máy điện báo cùng một lúc gửi đi hai điện tín trên một đường dây.



4. Thời kỳ thành công.

Vào một buổi sáng tháng 6 năm 1869, con tầu khởi hành từ Boston tiến dần vào hải cảng New York. Edison, chàng thanh niên 22 tuổi, đứng trên boong tầu, mơ màng nhìn vào thành phố xa lạ, không người quen biết, trong túi không có một đồng nào bởi vì chàng đang mang nợ 800 đô la. Edison rời Boston với hai bàn tay trắng vì chàng đã để lại tất cả các dụng cụ thí nghiệm cùng sách vở cho chủ nợ, hứa sẽ trở lại lấy khi có đủ tiền thanh toán. Nhưng có nhiều thứ mà không ai có thể lấy bớt được ở chàng, đó là lòng cam đảm, ý chí theo đuổi mục đích, học vấn và kinh nghiệm kỹ thuật cùng với các đức tính khác mà chàng đã thu lượm được vào thời niên thiếu.

Ngày đầu tiên tại New York, Tom đi tới tất cả các cơ sở điện báo để tìm kiếm người quen và đã vay mượn được một đô la. Sống với đồng tiền nhỏ mọn này cho tới ngày thứ ba, Tom khi đi qua Công Ty Hối Đoái Gold Indicator thì thấy hàng trăm người đang chen chúc chờ đợi. Tom tiến lại gần thì được biết rằng chiếc máy ghi giá vàng bị trục trặc và vì thế thị trường vàng hoàn toàn bị trở ngại. Khi đó viên giám đốc của công ty, Bác Sĩ Laws, đang la ầm lên : “Tôi trả lương cho hàng tá người mà chẳng ai làm được việc gì ! Ôi, tôi chỉ cần một người thợ có tài là đủ!”. Nghe thấy vậy, Tom tiến lại gần ông Laws và nói : “Thưa ông, tôi không phải là thợ của ông nhưng tôi tự xét có thể sửa chữa được chiếc máy”. Trong vòng hai giờ, chiếc máy do Tom sửa chữa lại chạy đều như trước. Ngày hôm sau, sau khi khảo sát khả năng, Bác Sĩ Laws đã thuê Tom làm quản đốc kỹ thuật với lương tháng 300 đô la.

Mặc dù lương bổng cao, Tom Edison luôn chán nản trước hoàn cảnh làm công cần cù vì trong đầu óc của chàng đang chứa đựng hàng tá sáng kiến sôi động. Trong khoảng thời gian làm việc tại công ty hối đoái, Edison được gặp Franklin L. Pope và hai người bàn với nhau hợp tác trong một công cuộc kinh doanh. Ngày 01/ 10/1869, Edison và Pope lập ra xưởng điện cơ và điện báo rồi ít lâu sau, lại có J. N. Ashley của tờ báo Telegraph cộng tác. Để sống gần người bạn cộng sự, Edison dọn nhà tới thị xã Elizabeth, thuộc tiểu bang New Jersey. Vì muốn tiết kiệm thời giờ dùng cho các công việc cần thiết, Edison tự luyện tập các giấc ngủ thật ngắn, mỗi ngày ngủ 3 hay 4 lần. Ngoài 5 giờ để ngủ, thời gian được chàng dùng cho các cải tiến kỹ thuật và công việc chuyên môn.

Vào thời bấy giờ, điện tín được ghi bằng các chấm và gạch in trên những băng giấy dài, rồi người ta lại phải chép tay ra các bản điện tín trước khi gửi cho người nhận. Nếu có cách nào in bằng chữ lên các phiếu điện tín, người ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian vô giá. Điều này làm Edison suy nghĩ. Vì Edison nổi tiếng về giỏi Kỹ Thuật, Tướng Marshall Lefferts, giám đốc công ty Gold and Stock Telegraph liền nhờ Edison biến đổi loại máy thường ra máy điện tín in chữ. Sau vài tháng tìm tòi, Edison đã thành công và lấy bằng phát minh vào năm 1869. Máy móc mới này của Edison vừa giản dị hơn, vừa chính xác hơn loại cũ nên đẵ khiến ông Lefferts đề nghị mua lại bằng sáng chế.

Công việc làm ăn của Edison tăng lên một cách rất nhanh chóng khiến chàng và các hội viên khác đồng ý đổi cơ xưởng cũ thành Công Ty Điện Báo Tự Động (The Automatic Telegraph Co.). Lúc đầu chàng chỉ mướn 18 người thợ rồi số thợ tăng lên dần tới 50 và sau này tới 250 người. Nhiều người làm việc với Edison đã trở nên các kỹ sư tài ba và đã cộng tác với chàng cho tới chết. Edison chia thợ ra từng toán, làm từng phiên cả sáng lẫn đêm. Mặc dù mới 23 tuổi, Edison được nhiều người tặng cho biệt hiệu “lão già” vì chàng điều kiển nhóm chuyên viên của mình một cách chín chắn, đôi khi hơi tàn ác nhưng ngược lại, chàng trả lương các nhân viên rất hậu, căn cứ vào tài khéo và thời gian làm việc vì chàng muốn họ đóng góp với tất cả lương tâm nghề nghiệp.

Vóc người mập mạp, Thomas Edison có đôi mắt sắc sảo dưới hàng mi rậm rạp và chiếc trán rộng. Với dáng đi nặng nề, chàng đi đi, lại lại trong xưởng, quần áo vừa bẩn lấm, vừa tả tơi, mang vào mình hình ảnh một tên vô nghề nghiệp hơn là một viên đốc công, một vị giám đốc và cũng là một kỹ nghệ gia đầy tương lai hứa hẹn. Thực vậy, người ta phải ngạc nhiên về cơ xưởng của Edison, không những do các hoạt động mà còn vì giờ giấc. Edison đã treo trong xưởng tất cả 6 chiếc đồng hồ, chỉ các giờ giấc khác nhau và nhân viên của chàng thường theo chàng làm đến hết việc chứ không phải hết giờ. Trong khoảng thời gian từ năm 1870 tới 1876, bắt đầu với tuổi 23, Thomas Edison đã cầu chứng 122 phát minh và như thế, mỗi tháng trung bình chàng có hơn một sáng kiến được thực hiện.

Vào thời kỳ của phát minh thứ 46, Thomas Edison được nghe người ta kể lại rằng Christopher Sholes tại Milwakee đang thí nghiệm về một thứ máy móc gọi là “máy đánh chữ”. Vì biết rằng thứ máy mới này sẽ góp phần to lớn trong việc chế tạo máy điện báo tự động, Edison liền mời Sholes mang mẫu máy tới Newark và chàng đã đề nghị nhiều sửa đổi hợp lý. Công Ty The Automatic Telegraph là nơi đầu tiên chế tạo máy đánh chữ rồi dùng nó trong văn phòng và chiếc máy đánh chữ đó đã mở đường cho các máy Remington mà sau này được dùng trên khắp thế giới. Nếu Morse phát minh ra máy điện báo thì Edison lại góp vào đó rất nhiều cải tiến quan trọng khiến cho chính Morse cũng khó nhận ra được phát minh của mình. Không những Edison hoàn thành máy điện báo kép cho phép gửi đồng thời 2 điện tín trên cùng một đường dây mà còn phát minh ra một phương pháp gửi đồng thời 4 hay 5 điện tín. Edison còn cứu vãn Công Ty Western Union khỏi bị phá sản bằng một hệ thống truyền tin mới.

Vào một buổi chiều năm 1870, Edison ngồi một mình trong văn phòng. Các thợ thuyền đã ra về trong khi nhà phát minh còn nán lại vì chàng muốn ghi chép cho xong các nhận xét về một thứ máy đang hoàn thành. Edison định ra về thì một trận mưa lớn đổ xuống. Lúc ra cửa, chàng gặp hai thiếu nữ đứng trú mưa tại lối đi. Edison liền tự giới thiệu : “Tôi là Thomas Edison, chủ nhân tiệm này. Xin mời các cô vào văn phòng chờ hết mưa. Tôi sẽ đi thắp đèn lên”. Một thiếu nữ trả lời chàng : “Chúng tôi không dám phiền ông, ông Edison ạ. Tôi là Mary Stilwell, còn đây là em Alice của tôi”. Edison cúi chào hai thiếu nữ và nói chuyện xuông với hai chị em Stilwell cho qua thời giờ. Nhưng ánh mắt trong sáng, khuôn mặt xin xắn và cử chỉ thanh lịch của Mary đã làm tâm hồn Edison xao xuyến.

Từ đây, Edison không thể quên hình ảnh của Mary. Chàng hỏi dò bạn bè thì được biết Mary là một giáo viên tại Newark. Edison liền nhờ bạn đưa lại thăm gia đình Stilwell và sau buổi viếng thăm, chàng thấy rằng mình đã tìm được người vợ mong ước. Sau đó, Edison thường cùng Mary đi coi hát, dự các buổi hòa tấu nhạc hay đi cắm trại ngoài trời. Sau một năm trường chờ đợi sự ưng thuận của gia đình Stilwell, Edison đã cử hành hôn lễ với Mary vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1871.

Cuối năm 1871, Edison đã có ba tiệm khác nhau tại Newark. Ba cơ xưởng ở rải rác trong một thành phố lớn đã làm mất nhiều thời giờ và năng lực quý báu của nhà phát minh. Vì vậy Edison quyết định tìm kiếm nơi xây cất một cơ xưởng lớn hơn cách Newark 40 cây số. Menlo Park là một ga nhỏ trong tiểu bang New Jersey nhưng khá yên tĩnh, thích hợp cho nhà phát minh làm việc. Ngày 3/ 01/1876, công cuộc xây cất bắt đầu. Edison đã phác họa từng chi tiết cho đồ án phòng thí nghiệm và cơ xưởng.

Cũng trong năm này, công ty Western Union lại nhờ Edison cải tiến máy điện thoại của Alexander Graham Bell vừa mới cầu chứng cách đó ít lâu. Thời bấy giờ, điện thoại của Bell là một bộ máy còn rắc rối, ống nói và loa nghe được làm chung, và người ta để loa lên miệng để nói rồi đặt vào tai nghe. Tầm hoạt động của máy bị giới hạn và dù nói từ phòng nọ sang phòng kia, những tiếng sè sè của máy sinh ra do bộ ma nhê tô đã làm cho việc đối thoại rất khó khăn. Sau hai năm tìm tòi, Edison đã phát minh ra bộ vi âm (microphone), hoàn thành một máy truyền (transmetteur) dùng thỏi than và đã thành công rực rỡ trong việc truyền tiếng nói qua 225 cây số đường dây. Edison làm cho cường độ tiếng nói qua máy điện thoại lớn gấp bội và âm thanh trở nên rõ ràng. Hãng Western Union đã mua lại bằng sáng chế chiếc máy truyền với giá 100,000 đô la. Thành công của Edison trong việc cải tiến máy điện thoại đã khiến người đời phải nói rằng “Bell đã phát minh ra máy điện thoại nhưng chính nhờ Edison mà máy điện thoại trở thành hữu dụng”.



5. Phát minh ra Máy Hát.

Lúc bấy giờ Edison đã có phòng thí nghiệm tại Menlo Park, một nơi có đủ phương tiện cho nhà phát minh tìm tòi, nghiên cứu. Edison có một cách làm việc rất đặc biệt. Khi một ý tưởng nẩy ra trong trí óc, ông liền thử ngay bằng ngàn cách khác nhau với sự cộng tác của những người giúp việc. Vào thời đó, mặc dù nhà phát minh có hàng trăm bằng sáng chế nhưng danh tiếng của Edison chỉ thực sự được đại chúng biết tới sau ngày ông cho ra đời chiếc máy hát.My Webpage

Thực ra sự phát minh này do khả năng nhận xét và suy luận của ông hơn là do công lao tìm kiếm. Vào một chiều mùa hè năm 1877, trong khi Edison đang loay hoay với chiếc máy dịch điện tín tự động, chiếc máy này gồm một mũi kim thép rạch các rãnh trên một đĩa giấy, đột nhiên khi cho đĩa quay nhanh hơn Edison đã nghe thấy tiếng cọ sát tăng lên và giảm đi tùy theo sự gồ ghề của chiếc đĩa. Sự kiện này đã ám ảnh nhà phát minh. Ông liền làm lại thí nghiệm nhưng lần này, thêm vào chiếc kim bộ phận chứa một màng mỏng. Edison nhận thấy cơ phận này đã làm tăng âm độ lên một cách đáng kể.

http://files.gereports.com/wp-content/uploads/2012/07/TimelessThomas1.jpg

Các công trình khảo cứu về máy điện thoại đã khiến Edison nhận thức rằng một màng kim loại mỏng đã rung động khi nói vào một máy phát. Như thế có thể ghi lại sự rung động này trên một chất gì đó để rồi làm cho màng kim loại rung động trở lại mà phát ra các âm thanh như tiếng nói. Nửa đêm hôm đó, Edison ngồi lại văn phòng và vẽ trên giấy một bức họa về thứ máy móc sẽ thực hiện. Ngày 24/12/1877, Edison cầu chứng cho chiếc máy hát và bằng phát minh được chính phủ Hoa Kỳ cấp cho ông vào ngày 19/ 02/1878.

Một bộ máy ghi được tiếng nói và lại phát ra tiếng nói làm cho đại chúng phải bàn tán. Để làm cho mọi người tin chắc rằng máy hát nói được là một sự thật, Edison quyết định trình bày chiếc máy kỳ lạ trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Hoa Kỳ. Sáng ngày 8/ 4/1878, nhà phát minh Edison đã xử dụng chiếc máy hát trước ông Joseph Henry, Chủ Tịch Viện Smithsonian, rồi vào buổi chiều, ông biểu diễn máy trước Hàn Lâm Viện Khoa Học. Ngay buổi tối hôm đó, Edison lại nhận được giấy mời trình bày máy hát trước Tổng Thống Rutherford B. Hayes. Nhà phát minh đã làm cho các nhân vật Tòa Bạch Cung cũng như dân chúng tin tưởng. Cả thế giới sôi nổi về phát minh này. Danh tiếng Thomas Edison được nhắc nhở tại khắp nơi. Báo chí đã nói nhiều về nhà phát minh 31 tuổi. Môt tờ báo gọi Edison là “Thầy Phù Thủy vùng Menlo Park” và danh hiệu này đã được phổ thông hóa.

Chiếc máy hát là một phát minh mà Edison rất ưa chuộng. Ông đã cải tiến máy dần dần trong nhiều năm trường để về sau này, máy được thay đổi khối trụ và tay quay bằng một đĩa tròn chuyển động do một bộ phận đồng hồ. Sự sản xuất máy hát càng ngày càng gia tăng, vào năm 1910 tiền bán máy và đĩa hát đã lên tới 7 triệu đô la. Vào năm 31 tuổi, Thomas Edison có 157 bằng phát minh và đang chờ đợi 78 bằng sáng chế khác từ Washington gửi về. Mặc dù vậy, ông vẫn không ngừng làm việc, mỗi ngày từ 18 tới 20 giờ.


6. Phát minh ra Đèn Điện.


Tháng 3 năm 1878 là đầu thời kỳ Edison bắt tay vào việc nghiên cứu đèn điện. Vào thời bấy giờ người ta chỉ biết tới nguyên tắc của đèn hồ quang là loại đèn được phát minh vào khoảng năm 1809. Khi đốt đèn hồ quang, người ta phải luôn luôn thay thỏi than, ngoài ra đèn còn phát ra tiếng cháy sè sè và cho một sức nóng quá cao, kèm theo một mùi khó chịu, không thích hợp với việc xử dụng trong nhà.

Vào năm 1831, Michael Faraday tìm ra nguyên tắc của máy ma-nhê-tô là bộ máy sinh ra các tia lửa đốt loại khí bên trong động cơ dầu lửa. Tới năm 1860, một loại đèn điện sơ sài ra đời tuy chưa thực dụng nhưng đã khiến cho người ta nghĩ tới khả năng của điện lực trong việc làm phát sáng. Thomas Edison cũng cho rằng điện lực có thể cung cấp một thứ ánh sáng dịu hơn, rẻ tiền hơn và an toàn hơn ánh sáng của đèn hồ quang của William Wallace. Edison đã tìm đọc tất cả các sách báo liên quan tới điện học. Ông muốn thấu triệt sâu rộng lý thuyết về điện lực để có thể mang kiến thức của mình vào các áp dụng thực tế. Ngày nay trong số 2,500 cuốn sổ tay 300 trang được Viện Edison cất giữ, người ta còn thấy hơn 200 cuốn ghi chép về điện học. Chính những điều ghi chép này đã là căn bản của các khám phá vĩ đại của thiên tài Edison trong phạm vi Khoa Học và Kỹ Thuật.



Thời bấy giờ, báo chí nói nhiều đến công cuộc nghiên cứu của Edison về đèn điện làm cho các công ty đèn thắp bằng khí đốt lo ngại trong khi đó Edison khuyên các hội viên của Công Ty Đèn Điện Edison (the Edison Electric Light Co.) bỏ thêm 50,000 đô la để ông theo đuổi công trình nghiên cứu. Hồi đó trong phòng thí nghiệm tại Menlo Park có vào khoảng 50 người làm việc không ngừng. Bình điện, dụng cụ, hóa chất và máy móc chất cao trong các phòng nghiên cứu. Đồng thời với việc nghiên cứu đèn điện, Edison còn phải cải tiến rất nhiều máy móc khác cũng như tìm ra các kỹ thuật cần thiết vì vào thời bấy giờ, kỹ nghệ điện lực còn trong giai đoạn phôi thai. Cũng nhờ nghiên cứu đèn điện, Edison đã sáng chế ra cầu chì, cái ngắt điện, đynamô, các lối mắc dây. . .

Căn cứ từ đèn hồ quang của Wallace, Edison thấy rằng có thể có ánh sáng từ một vật cháy sáng bằng cách đốt nóng. Edison đã dùng nhiều vòng dây kim loại rất mảnh rồi cho dòng điện có cường độ lớn đi qua để những vòng dây đó nóng đỏ lên, nhưng chỉ sau chốc lát, các vòng đó đều cháy thành than. Vào tháng 4 năm 1879, Edison nẩy ra một sáng kiến. Ông tự hỏi cái gì sẽ xẩy ra nếu sợi dây kim loại được đặt trong một bóng thủy tinh không chứa không khí? Edison liền cho gọi Ludwig Boehm, một người thợ thổi thủy tinh tại Philadelphia tới Menlo Park và phụ trách việc thổi bóng đèn. Việc rút không khí trong bóng đèn cũng đòi hỏi một máy bơm mạnh mà vào thời đó chỉ có tại trường đại học Princeton. Cuối cùng Edison cũng mang được chiếc máy bơm đó về Menlo Park.

Edison thử cho một sợi kim loại rất mảnh vào trong bóng thủy tinh rồi rút không khí ra hết, khi nối dòng điện, ông có được thứ ánh sáng trắng hơn, thời gian cháy cũng lâu hơn nhưng chưa đủ. Ngày 12/ 04/1879, để bảo vệ phát minh của mình, Edison xin bằng sáng chế về bóng đèn cháy trong chân không mặc dù ông biết rằng loại đèn này chưa hoàn hảo vì ông chưa tìm ra được một thứ gì dùng làm tóc trong bóng đèn. Edison đã dùng sợi Platine nhưng thứ này quá đắt tiền lại làm tốn nhiều điện lực hơn là cho ánh sáng hữu ích. Edison đã thử với nhiều thứ kim loại hiếm, chẳng hạn như Rhodium, Ruthenium, Titane, Zirconium và Baryum nhưng tất cả những chất đó chưa cho kết quả khả quan.

Vào 3 giờ sáng ngày Chủ Nhật, 19/ 10/ 1879, trong khi Edison và Batchelor, người cộng sự, đang cặm cụi thí nghiệm thì nhà phát minh chợt nghĩ tại sao không dùng một sợi than rất mảnh. Edison nghĩ ngay tới thứ thường dùng nhất trong nhà là sợi chỉ may. Ông liền bảo Batchelor đốt cháy sợi chỉ để lấy các sợi than rồi cho vào bóng đèn. Khi nối dòng điện, đèn cháy sáng, phát ra một thứ ánh sáng không đổi và chói chan. Edison và các cộng sự viên thở ra nhẹ nhõm. Nhưng mọi người đều không rõ đèn cháy sáng như vậy được bao lâu? 2 giờ trôi qua, rồi 3, 4. . . rồi 12 giờ. . . đèn vẫn sáng. Edison đành nhờ các cộng sự viên thay thế để đi ngủ. Chiếc đèn điện đầu tiên của Thomas Edison đã cháy liền trong hơn 40 giờ đồng hồ khiến cho mọi người hân hoan, tin tưởng vào kết quả. Lúc đó, Edison mới tăng điện thế lên khiến cho sợi dây cháy sáng gấp bội rồi đứt hẳn.

Rất hãnh diện về phát minh của mình, Edison viết thư mời viên chủ nhiệm tờ báo New York Herald gửi đặc phái viên tới Menlo Park. Ký giả Marshall Fox đã tới phòng thí nghiệm của Edison và cùng nhà phát minh làm việc trong hai tuần lễ. Sáng Chủ Nhật 21/12/1879, tờ báo Herald tường thuật về sự phát minh ra chiếc đèn điện nhưng bài tường trình này đã làm đại chúng nghi ngờ và có người còn cho rằng “một thứ ánh sáng như vậy trái với định luật thiên nhiên”. Có nhà báo lại khôi hài câu chuyện và bảo “đèn điện của Edison đã được ông dùng bóng bay thả lên trời thành những ngôi sao lấp lánh ban chiều”.

Edison rất buồn cười về những lời phủ nhận sự thật. Ông quyết định trình bày trước đại chúng chiếc đèn điện để phá tan mọi mối hoài nghi. Ông cho treo hàng trăm bóng đèn điện quanh phòng thí nghiệm, quanh nhà ở và dọc theo các con đường tại Menlo Park. Ngày 31/12/1879, một chuyến xe lửa đặc biệt đã xuôi ngược New York - Menlo Park, mang theo hơn 3,000 người hiếu kỳ gồm cả các nhà khoa học, các giáo sư, các nhân viên chính quyền cũng như các nhà kinh tài tới quan sát tận mắt chiếc đèn điện. Đêm hôm đó cả vùng Menlo Park tràn ngập trong ánh sáng chan hòa của một thứ đèn mới.My Webpage


7. Công Ty Đèn Điện Edison.

Thành công của chiếc đèn điện làm cho công ty khí thắp xuống dốc trong khi đó, Edison vẫn cho rằng đèn điện chỉ đắc dụng khi nào ông tìm ra được một thứ sợi tóc rẻ và bền hơn. Ông cho thử hơn 6,000 thứ sợi thảo mộc, cuối cùng đã chọn một thứ tre Nhật Bản và loại sợi này đã được dùng trong suốt 10 năm trường trước khi bị chất Tungstène thay thế.

Edison lại tính tới việc dùng điện lực thắp sáng một khu vực rộng lớn hơn. Ông quyết định dùng một quận trong thành phố New York rộng 2,500 mét vuông làm nơi thí nghiệm. Ông tìm ra nhiều phương pháp cách điện và chính ông trông coi việc đặt đường dây. Vào năm 1881, số chuyên viên về điện lực rất hiếm. Edison liền mở ra một trường dạy nghề và đặt những cộng sự viên cũ của mình vào các chân giảng viên. Chính ông cũng viết ra một cuốn sách kỹ thuật về điện học. Nhờ cách làm việc có phương pháp như vậy, sang năm sau Edison đã có hơn 1,500 người chuyên đào đường, đặt đường dây và bắt dây điện vào tư gia. Một nhu cầu mới cần thiết nữa lại được đặt ra là việc thiết lập một nhà máy phát điện mạnh. Việc này đòi hỏi nhiều triệu đô la. Một công ty vì thế được thành lập với tên là Công Ty Đèn Điện Edison tại New York (the Edison Electric Lighting Company of New York).

Edison lập ra một xưởng chế tạo các thành phần của máy phát điện, một xưởng chuyên làm bóng đèn điện và một cơ xưởng đặc biệt chuyên sản xuất các đồng hồ điện, các đui đèn, ngắt điện cùng các phụ tùng cần thiết cho ngành kỹ nghệ mới này.

Từ trước, công ty khí thắp độc quyền phụ trách việc đốt đèn các con đường và cung cấp khí đốt cho dân chúng. Edison muốn thay thế những phương tiện thắp sáng cũ đó bằng một cách khác, vừa tiện lợi hơn, vừa rẻ tiền hơn. Ông biết rằng ông đã tham dự một cuộc mạo hiểm rất khó khăn, nếu thất bại, ông sẽ mất hết danh tiếng, tiền bạc và tín nhiệm của dân chúng cũng như của bạn bè. Nhưng Edison vẫn không sờn lòng. Ông tuyên bố rằng tiền phí tổn về điện lực sẽ rẻ hơn tiền khí thắp và ông chỉ nhận tiền của thân chủ khi nào họ thấy thỏa mãn về cách cung ứng điện lực. Cuộc thí nghiệm đại quy mô này đã khiến Edison phải từ chối đi dự các bữa tiệc, các buổi diễn thuyết. . . Người ta thường thấy nhiều đêm ông Edison, với chiếc khăn quàng quấn quanh cổ, bước xuống những đường rãnh đặt dây điện hoặc trông coi việc thiết lập nhà máy điện trên đường Pearl.

Tới ngày 4 tháng 9 năm 1882, tất cả các công tác thiết kế đã hoàn thành và sẵn sàng chờ đợi sự thí nghiệm. Tại nhà máy phát điện đường Pearl, người thợ đổ than vào lò, các động cơ bắt đầu chuyển vận, Edison hạ chiếc cần xuống và trong khoảng khắc, dòng điện đi qua 24 cây số đường dây khiến cho hàng trăm bóng đèn Edison cháy sáng trong các công sở, cơ xưởng và các tư gia. Ông Thomas Edison đã thắng cuộc và lấy lại được niềm tin của toàn thể dân chúng.

Mặc dù là một nhà kỹ thuật có tài, Edison rất ghét sự trục lợi, đầu cơ. Khi đã đạt được các công trình nghiên cứu rồi, Edison lấy làm thỏa mãn về sự thành công mà coi thường các lời lãi do phát minh của mình mang tới. Edison đã bán xưởng chế tạo bóng đèn cho một công ty điện và công ty này về sau trở nên rất phát đạt và nổi danh trên thế giới : Công Ty General Electric.

Hai năm sau ngày thành công về đèn điện, bà Mary mắc bệnh thương hàn và qua đời, để lại cho chồng ba đứa con và lòng thương nhớ. Quá buồn phiền, Edison gửi các con về ông bà ngoại tại New York còn mình thì tìm quên trong phòng thí nghiệm. Edison nhận thấy cần phải có một cơ xưởng rộng lớn hơn cơ xưởng Menlo Park. Ông đã chọn thành phố West Orange, thuộc tiểu bang New Jersey. Công việc xây cất được bắt đầu. Cũng trong thời gian này, Edison cho thiết lập thêm một phòng thí nghiệm để làm việc trong mùa đông, vì thế một cơ xướng mới được lắp ráp tại Fort Myers, một nơi gần bờ biển trong tiểu bang Florida.

Trong khoảng thời gian từ năm 1881 tới năm 1887, Thomas Edison nghiên cứu nhiều thứ và phát minh ra các máy móc thuộc nhiều loại. Ông đã tìm ra cách gửi điện tín từ một ga tới một xe lửa đang chạy. Ông đã thử cách cất giữ trái cây trong chân không, phác họa ra máy bay trực thăng, máy gặt bông gòn, máy may điện, thang máy điện, xe lửa điện, xe gạt tuyết và ông khảo cứu cả về vô tuyền điện. Ngày nay “hiện tượng Edison” còn được áp dụng vào các bóng đèn máy vô tuyến truyền thanh.

Công việc quá bận rộn đã khiến Edison quên bớt nỗi buồn phiền về người vợ đã khuất. Ông bắt đầu cảm thấy cần phải ra khỏi tháp ngà. Người ta thường thấy ông đi dự các buổi trình diễn âm nhạc hay có mặt tại các bữa yến tiệc. Vào một buổi chiều năm 1885, trong một bữa ăn do một người bạn tổ chức, Edison đã gặp một thiếu nữ rất đẹp và duyên dáng, hôm đó đang ngồi tại đàn dương cầm. Nàng tên là Mina Miller, là con gái của ông Lewis Miller, một kỹ nghệ gia và cũng là người phát minh ra chiếc máy gặt lúa. Hai người trở nên đôi bạn thân.

Lần gặp gỡ cô Mina đã làm cho Edison hết cô đơn. Edison đã dạy cho Mina tín hiệu Morse vì ông kém về thính giác. Trong một buổi đi coi hát, Edison đã dùng tín hiệu Morse để hỏi cảm tình của Mina đối với ông. Cô Mina cũng đáp lại bằng thứ tín hiệu đó. Hai người cưới nhau vào năm 1886, khi đó chàng 39, nàng 21 tuổi, nhưng sự chênh lệch về tuổi tác không là hàng rào ngăn cách hai người. Edison thường ăn mặc lôi thôi như một đứa trẻ và Mina đã săn sóc chồng từng chút một. Mina thường dấu chiếc áo ngoài của chồng nên khi muốn ra đường, Edison phải gọi tới nàng, đó là lúc nàng kiểm soát cách ăn mặc, bắt chồng phải cạo râu, chải tóc.

Mina còn săn sóc Edison cả về sự ăn uống. Chính nàng tự tay mang thức ăn tới phòng thí nghiệm cho chồng và luôn luôn khuyến khích chồng bằng những lời nói êm dịu. Nếu Mary Stitwell, người vợ thứ nhất của Edison, là người đã góp phần quan trọng vào các thành công đầu tiên thì Mina Miller lại là người bạn trung thành và cộng sự viên đắc lực của Edison. Nàng luôn luôn theo chồng trong các chuyến du lịch hay tham dự những buổi yến tiệc, nàng nhắc lại cho Edison những gì ông không nghe rõ. Trong các buổi tiếp tân tại nhà, các bạn của Edison đã tặng Mina danh hiệu “Bà chủ nhà duyên dáng nhất Mỹ Quốc”. Mina còn làm cho gia đình Edison gồm 4 trai, 2 gái, trong đó có 3 người con của Mary, tất cả đều cảm thấy hạnh phúc.



8. Phát minh ra Máy Chiếu Bóng.

Vào một buổi chiều năm 1887, Thomas Armat tới thăm Edison và đưa cho nhà phát minh xem một máy chiếu hình, khi đó chưa hoàn hảo. Armat biết rằng chỉ có Edison mới có đủ tài cải biến máy móc đó ra một thứ có ích lợi thực tế. Khi nhìn thấy chiếc máy kinematoscope (do chữ Hy Lạp kinema là chuyển động), Edison nhận ra ngay giá trị của nó. Ông đã bỏ ra 4 năm công sức vào việc cải tiến máy chiếu bóng và chế tạo máy quay phim và như vậy, đã mở đầu cho một ngành kỹ nghệ rộng lớn trên thế giới, chuyên cung cấp món giải trí bình dân nhất.

Edison đã bỏ ra 100,000 đô la để lập phim trường tại Bronx Park. Ông đã thuê võ sĩ vô địch quyền Anh hạng năng tên là James J. Corbett tới Orange biểu diễn, để quay thành phim. Edison đã sản xuất được nhiều cuốn phim và còn cho phối hợp chiếc máy hát vào việc chiếu phim nói.



Khi kỹ nghệ chiếu bóng bắt đầu phát triển, Edison lại quay sang các lãnh vực mới. Ông làm nhiều thí nghiệm về quang tuyến X, thời đó vừa được Roentgen tìm ra. Công trình nghiên cứu của ông khiến ông chế tạo được máy huỳnh quang nghiệm (fluoroscope) và đèn huỳnh quang (lampe fluorescente). Edison còn lấy bằng phát minh cho bình ắc quy, loại đèn điện an toàn dùng trong hầm mỏ, cải tiến máy tính, tìm ra hợp chất sắt nickel. . . Ngoài ra còn rất nhiều phát minh nhỏ mọn khác mà ngày nay đối với chúng ta coi là tầm thường nhưng ở vào thời kỳ đó chưa có ai nghĩ tới cả.

Vào tuổi 60, Thomas Edison vẫn còn làm việc hăng hái như xưa. Ông đã “giải trí bằng cách thay đổi công việc làm”. Người ta hỏi ông về nghệ thuật của “Thành Công” và được ông trả lời : “Đó là khả năng kiên nhẫn”. Ông đã định nghĩa : “Thiên tài gồm 2 phần trăm cảm hứng và 98 phần trăm cực nhọc”. Edison cho rằng cách làm việc miệt mài bằng trí óc chính là bí quyết của sức khỏe và sự sống lâu, và ông còn nói thêm “Tôi chỉ cần tới thân xác để nuôi dưỡng bộ óc”.

Năm Thomas Edison 67 tuổi, một trận hỏa hoạn đã đốt sạch 7 dãy nhà không bảo hiểm tại West Orange, thiệt hại lên tới 5 triệu đô la. Edison đã mỉm cười với số phận. Ông liền bắt tay vào việc thiết lập lại cơ xưởng cũ.

Vào năm 1915, chính quyền Hoa Kỳ dự định tổ chức một cuộc triển lãm tại San Francisco, lấy tên là Cuộc Triển Lãm Panama Thái Bình Dương (Panama Pacific Exposition) để kỷ niệm ngày hoàn thành Kênh Đào Panama. Ban tổ chức Cuộc Triển Lãm có nhã ý dành ngày 21/10 làm “Ngày Edison”. Vào sáng ngày 21/10/1915 đó, ngày sinh nhật thứ 36 của chiếc đèn điện, Thomas Edison cùng Luther Burbank và Henry Ford tới thăm Phòng Triển Lãm. 50,000 người đã đứng hai bên đường để đón chào ba nhân vật đã mở mang con đường dẫn tới Văn Minh. Tại Phòng Đại Hội, Edison đã nhận lãnh huy chương đặc biệt trước hàng ngàn dân chúng hâm mộ và huy chương này được trao tặng về các công trình tốt đẹp mà ông đã thực hiện cho Nhân Loại.

Ngày 28/ 6/1914, Trận Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ và lan dần tới Mỹ Quốc khiến cho quốc gia này cũng bị liên hệ. Các nhà Khoa Học và Phát Minh đều theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Mặc dù gần 70 tuổi, Thomas Edison cũng tình nguyện gia nhập Hải Quân và nhận làm Chủ Tịch Ủy Ban Cố Vấn Kỹ Thuật với lòng mong ước mang lại Vinh Quang cho Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ông Edison đã phát minh ra máy dò tầu ngầm và thủy lôi, đèn soi sáng dưới nước và phương pháp ngụy trang tầu chiến. . . Hơn 40 phát minh có tính cách chiến thuật của ông đã mang lại cho ông Quân Công Bội Tinh (the Distinguished Service Medal), một trong những huy chương cao quý nhất của Quân Lực Hoa Kỳ.


9. Danh vọng cuối cùng

Từ năm 12 tuổi tới lúc già, Thomas Edison đã làm việc miệt mài mà không biết mỏi. Ông đã tự học từ năm lên 7 tuổi, khi bà Nancy kéo con về nhà. Ông Edison là một người đọc sách không biết mệt và thường hay thực hiện 6 dự án cùng một lượt. Lúc 70 tuổi, ông còn coi mình như một người đang độ sung sức.

Năm 1918 khi Thế Chiến Thứ Nhất kết thúc, ông Edison trở về phòng thí nghiệm và bắt tay vào việc nghiên cứu một chất cần thiết cho cả thời chiến lẫn thời bình : chất cao su. Tới năm 75 tuổi, ông Edison mới chịu giảm bớt thời giờ làm việc xuống 16 giờ một ngày. Ông thực hiện thứ đĩa hát quay lâu (disque de longue durée) vào năm 80 tuổi.

Ngày 21/ 10/1929, ông Thomas Edison được mời làm khách danh dự trong một bữa tiệc tổ chức tại Detroit. Tối hôm đó Tổng Thống Hoa Kỳ Herbert Hoover đã đứng lên ca tụng nhà Đại Phát Minh. Edison đã đáp từ bằng mấy câu cảm ơn ngắn. Bỗng bà Mina thấy mặt ông tái xanh đi rồi ông ngã người xuống ghế. Bác sĩ riêng của Tổng Thống điều trị cho ông nhưng sức mạnh không thể trở lại với ông. Edison yếu dần từ đó.

Sáng ngày Chủ Nhật, 18/10/1931, Thomas Edison lìa trần và 3 ngày sau, đúng ngày sinh nhật thứ 52 của chiếc đèn điện đầu tiên, đám tang nhà Đại Phát Minh được cử hành rất trọng thể tại thành phố West Orange, New Jersey. Buổi tối hôm đó, tất cả đèn điện trên toàn thể lãnh thổ Hoa Kỳ đều tắt trong một phút để tưởng nhớ một Vĩ Nhân, một “Người Bạn của Nhân Loại” mà 52 năm về trước, đã cho Nhân Loại một thứ đèn quý giá.

Vào 2 năm trước, 1929, nhân ngày kỷ niệm chiếc đèn điện được 50 tuổi, ông Henry Ford cho thiết lập tại Greenfield Park, thuộc tiểu bang Michigan, một ngôi làng lịch sử nhắc nhở lại cuộc đời và công trình của Thomas Edison. Phòng thí nghiệm tại Menlo Park cũng được dựng lại với tất cả chi tiết cũ cùng các máy móc xưa. Henry Ford cũng cho tìm kiếm và mua lại được 2 tờ báo The Weekly Herald, tờ báo mà hơn 70 năm về trước, Thomas Edison đã in trên xe lửa. Không những chỉ có Henry Ford là người kính trọng Thomas Edison mà hầu hết các người cộng sự của nhà Đại Phát Minh đều kính mến ông cho tới khi ông qua đời.

Trong suốt cuộc đời tận tụy, Thomas Edison đã lãnh tất cả 1,097 bằng phát minh. Thomas Edison là gương sáng của người tự học. Ngoài nền giáo dục do mẹ ban cho, Edison tìm học tại các thư viện công cộng. Tính ra ông đã đọc hơn 10,000 cuốn sách nhờ cách “ăn bớt thời giờ làm việc để ngốn hết 3 cuốn sách mỗi ngày”. Trí nhớ và óc thông minh siêu việt của ông đã giúp ông thấu hiểu và lưu trữ được tất cả kiến thức thu thập cho tới khi chết. Ngoài học vấn về Khoa Học và Sử Học, Thomas Edison còn là một học giả chuyên khảo cứu nền Văn Minh Hy Lạp và La Mã.

Lòng tận tụy đối với Nhân Loại của Thomas Alva Edison đã được ông thực hiện đúng như câu nói mà ông thường nhắc nhở : “Tổ Quốc của tôi là Thế Giới và Tôn Giáo của tôi là làm Việc Thiện”.


 Nguồn : 

http://mrnussbaum.com/thomas_edison/
http://easyscienceforkids.com/all-about-thomas-edison/
http://z3.invisionfree.com/superstudents_10a/ar/t146.htm
http://www.softschools.com/facts/biography/thomas_edison_facts/861/
http://www.theschoolrun.com/homework-help/thomas-edison
http://www.nps.gov/edis/faqs.htm
http://www.watchknowlearn.org/Video.aspx?VideoID=23758

-------------------------------------------------------------------------------------------

Trên đời không gì vĩ đại bằng con người. Trong con người không gì vĩ đại bằng trí tuệ.

A.Hamillton

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran