Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn toán học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn toán học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2015

TÌM HIỂU VỀ STEM .




TÌM HIỂU VỀ STEM




I . TỔNG QUAN VỀ STEM




1. Sơ lược vài nét về STEM .

STEM là gì? Đó là từ viết tắt của khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Nhưng trong khi từ mẫu giáo đến lớp 12 việc giáo dục thường tập trung vào khoa học hay toán học theo cách độc lập, thì tất cả bốn lĩnh vực đó lại được quyện chặt vào nhau trong thế giới thực. Hãy tưởng tượng nếu các học sinh K-12 đều được giảng dạy theo cách nêu bật những kết nối này, nó sẽ làm cho nền tảng giáo dục sẽ có liên quan nhiều hơn đến cuộc sống của họ và mở rộng cánh cửa đến những sự nghiệp mới mẻ và hết sức thú vị.


2. Mô tả cách tiếp cận phương pháp giảng day STEM .

Dưới đây là một đoạn video trình bày về thực hành STEM .

 Tiến sĩ Diana Wehrello-Grabowski hướng dẫn thực hành-truyền đạt , những yêu cầu và tiêu chuẩn dựa trên chương trình đào tạo giáo viên STEM tại Hoa Kỳ và trên thế giới. Trong các powerpoint /bộ phim đào tạo giáo viên STEM sau đây tiến sĩ Diana Wehrell-Grabowski cung cấp hình ảnh và video của các giáo viên tiến hành khảo sát thực hành STEM. Giáo viên được giới thiệu về thực hành và nội dung STEM , quá trình thiết kế kỹ thuật, nhật ký phản ảnh trong lớp học STEM, và cách thức giáo dục STEM giúp cho việc xây dựng chuẩn 4C: sáng tạo, tư duy phê phán, giao tiếp và hợp tác. Trong các buổi tập huấn giáo viên STEM , tiến sĩ Wehrell-Grabowski hướng dẫn các giáo viên đang tích cực tham gia vào quá trình học, điều này sẽ làm họ thay đổi cách tiếp cận những vấn đề giáo dục. Tiến sĩ Wehrell-Grabowski tin rằng STEM sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi giáo dục ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Theo truyền thống, hệ thống giáo dục của chúng ta đã không được phép hoặc không khuyến khích sự sáng tạo, tư duy phê phán, giao tiếp và hợp tác trong các sinh viên hoặc các giáo viên. Giáo dục STEM thực sự có thể là một trong những câu trả lời để chuyển đổi hệ thống giáo dục và nguồn nhân lực lao động trong tương lai .




3. Ý nghĩa của  STEM đối với sự phát triển quốc gia .

Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, và Toán học (STEM, trước đây được viết tắt SETM) là một nền giáo dục nhóm được sử dụng tại Hoa Kỳ. Các từ viết tắt dùng để chỉ các môn học của khoa học (science) , công nghệ (technology), kỹ thuật(engineering) và toán học(mathematics). Thuật ngữ này thường được sử dụng khi giải quyết các chính sách giáo dục và chương trình giảng dạy trong nhà trường lựa chọn để cải thiện năng lực cạnh tranh trong phát triển khoa học và công nghệ.

Nó có ý nghĩa đối với việc phát triển nhân lực, vấn đề an ninh quốc gia và chính sách nhập cư. Các chữ viết tắt nảy  được sử dụng phổ biến thời gian ngắn sau khi một cuộc họp liên ngành về khoa học giáo dục được tổ chức tại Quỹ Khoa học Quốc gia (sau đó là NSF) dưới sự chủ trì của Giám đốc Rita Colwell.
Giám đốc của Văn phòng Khoa học và phát triển nhân lực Giáo viên và Khoa học gia đã đề xuất các thay đổi từ viết tắt SMET cũ thành STEM. Tiến sĩ Colwell, tỏ ra không thích các từ viết tắt cũ, trả lời bằng cách gợi ý NSF nên khởi đầu sự thay đổi. Một trong những dự án NSF đầu tiên sử dụng các từ viết tắt là STEMTEC nghĩa là Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Hợp tác Giáo dục giữa giáo viên Toán  tại Đại học Massachusetts Amherst, được chính phủ Hoa Kỳ  tài trợ trong năm 1997.

II. NỀN TẢNG STEM TẠI HOA KỲ

Image result for stem education

Tại Hoa Kỳ, các từ viết tắt này bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong các các cuộc tranh luận về chính sách giáo dục và nhập cư trong các sáng kiến để bắt đầu giải quyết sự thiếu nhận thức của các ứng cử viên đủ hoặc chưa đủ tiêu chuẩn cho công việc công nghệ cao.
Nó cũng giải quyết mối quan tâm mà các môn học thường được giảng dạy một cách độc lập, thay vì như một chương trình giảng dạy tích hợp. Việc đào tạo và duy trì một công dân thành thạo trong các lĩnh vực STEM là một phần quan trọng của chương trình giáo dục công của Hoa Kỳ. STEM cũng đã trở thành phổ biến trong các cuộc thảo luận giáo dục như là một tham chiếu về tình trạng thiếu hụt công nhân lành nghề và có một nền giáo dục chưa đầy đủ trong các lĩnh vực này.


1. Quỹ Khoa học Quốc gia (National Science Foundation NSF) .

Nhiều tổ chức tại Hoa Kỳ tuân thủ theo hướng dẫn của Quỹ khoa học quốc gia về cấu trúc của lĩnh vực STEM. NSF sử dụng một định nghĩa rộng hơn của các đối tượng STEM bao gồm các đối tượng trong các lĩnh vực hóa học, khoa học máy tính và công nghệ thông tin, kỹ thuật, khoa học địa chất, khoa học đời sống, khoa học toán học, vật lý và thiên văn học, khoa học xã hội (nhân học, kinh tế học, tâm lý học và xã hội học),  giáo dục STEM và nghiên cứu học tập.
Quỹ khoa học quốc gia tài trợ các dự án nghiên cứu .


Điều kiện cho chương trình học bổng như Chương trình học giả STEM CSM cũng sử dụng các định nghĩa của NSF. Đó là các cơ quan liên bang Mỹ chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ cho tất cả các lĩnh vực khoa học cơ bản và kỹ thuật, ngoại trừ đối với khoa học y tế. Các hoạt động về lĩnh vực chương trình này bao gồm học bổng, trợ cấp, giải thưởng tài trợ trong các lĩnh vực như khoa học sinh học, máy tính và thông tin khoa học và kỹ thuật, giáo dục và nguồn nhân lực, kỹ thuật, nghiên cứu môi trường và giáo dục, khoa học địa chất, khoa học và kỹ thuật quốc tế, khoa học toán học và vật lý, khoa học xã hội, hành vi và kinh tế, hạ tầng điều khiển (cyberinfrastructure) và các chương trình địa cực.

Thông qua việc thực hành, học tập trong lớp học theo dự án, học sinh tìm hiểu làm thế nào để áp dụng những kỹ năng đã học trong môn toán và khoa học áp dụng vào thực tế


2. Trình độ STEM - chuẩn điều kiện nhập cư vào Hoa Kỳ .


Một danh sách đầy đủ của các ngành STEM không tồn tại vì nhiều định nghĩa khác nhau của những tổ chức khác nhau. Bộ di trú nhập cư và Hải quan Hoa Kỳ đưa ra các danh sách môn học bao gồm : vật lý, khoa học tính toán bảo hiểm, hóa học, sinh học, toán học, toán học ứng dụng, thống kê, khoa học máy tính, khoa học tính toán , tâm lý học, hóa sinh, robotics , kỹ thuật máy tính, kỹ thuật điện, điện tử, cơ khí , kỹ thuật công nghiệp, khoa học thông tin, công trình dân dụng, kỹ thuật hàng không vũ trụ, công nghệ hóa học, vật lý thiên văn, thiên văn học, quang học, công nghệ nano, vật lý hạt nhân, sinh học toán học, hoạt động nghiên cứu thần kinh học, cơ chế sinh học, vi sinh học, kỹ thuật âm thanh, hệ thống thông tin địa lý, khoa học khí quyển, giáo dục công nghệ / giảng dạy, kỹ thuật phần mềm, và nghiên cứu giáo dục.


3. Giáo dục và nền tảng STEM .

STEM thường hỗ trợ cho sự mở rộng các nghiên cứu về kỹ thuật theo từng đối tượng khác , và bắt đầu với kỹ thuật ở lớp trẻ, thậm chí còn ở cấp tiểu học. Nó cũng mang lại giáo dục STEM cho tất cả sinh viên thay vì chỉ là các chương trình năng khiếu. Trong ngân sách năm 2012 của mình, Tổng thống Barack Obama đổi tên và mở rộng chương trình  "Toán học và  Đối tác Khoa học  (Mathematics and Science Partnership-MSP)" để trao giải khối tài trợ cho các tiểu bang trong việc cải thiện quy trình đào tạo giáo viên trong các môn học.
Vào năm 2006 Viện Hàn lâm Hoa Kỳ bày tỏ quan ngại của họ về tình trạng suy giảm của nền giáo dục STEM tại Hoa Kỳ. Ủy ban Khoa học Kỹ thuật và chính sách công đã phát triển một danh sách gồm 10 hành động. Top ba hành động khuyến nghị của họ là :

   - Gia tăng quỹ tài năng Hoa Kỳ bằng cách cải tiến giáo dục khoa học và  toán học K-12 .
   - Tăng cường kỹ năng của giáo viên thông qua đào tạo bổ sung về kiến thức khoa học, toán học và công nghệ .
   - Khuyếch trương các kênh cung cấp sinh viên chuẩn bị bước vào đại học và sau đại học với cấp độ STEM .

Cơ quan hàng không và không gian quốc gia (NASA) cũng đã thực hiện các chương trình song song cùng với chương trình giảng dạy để nâng cao giáo dục STEM nhằm bổ sung nguồn các khoa học gia , kỹ sư và toán học gia , những người sẽ dẫn dắt chương trình khám phá vũ trụ trong thế kỷ 21.

Du thuyền thám hiểm vũ trụ NASA


Từng tiểu bang, như California, đã thực hiện thí điểm chương trình sau học tập STEM , ví dụ, để tìm hiểu những quy trình thực hành nào có nhiều hứa hẹn nhất và làm thế nào để thực hiện chúng nhằm mục đích tăng cơ hội thành công của học sinh. Nền giáo dục STEM đã và đang tiếp tục mở rộng đến cấp độ sau trung học và đại học thông qua các chương trình thạc sĩ như chương trình STEM của đại học Maryland cũng như trường đại học Cincinnati.

4. Sáng kiến ​​cạnh tranh Hoa Kỳ .

Trong diễn văn Chính phủ Liên Bang ngày 31 Tháng 1 năm 2006, Tổng thống George W. Bush tuyên bố Sáng kiến ​​Cạnh tranh Mỹ. Bush đã đề xuất các sáng kiến ​​để giải quyết sự thiếu sót trong việc hỗ trợ của chính phủ liên bang về phát triển giáo dục và tiến bộ ở tất cả các cấp học trong các lĩnh vực STEM. Cụ thể, sáng kiến này kêu gọi gia tăng về ngân sách liên bang cho các chương trình R & D tiên tiến (bao gồm cả tăng gấp đôi kinh phí hỗ trợ liên bang cho nghiên cứu chuyên sâu trong khoa học vật lý thông qua DOE) và gia tăng số lượng sinh viên tốt nghiệp đại học trong các ngành STEM ở Mỹ .

Sự cạnh tranh về kinh doanh các phương tiện NASA , được tài trợ bởi Texas Space Grant Consortium, cũng nhằm đẩy xa hơn nữa mục tiêu đó. Sinh viên đại học được đào tạo trong môi trường cạnh tranh để phát triển các kế hoạch , khuyến khích học sinh trung học đại học và cao học nghiên cứu các môn học STEM và truyền cảm hứng cho các giáo sư trong các lĩnh vực STEM để học sinh tham gia vào các hoạt động tiếp cận cộng đồng hỗ trợ giáo dục STEM.

Học viện STEM là một tổ chức quốc gia phi lợi nhuận - dành cho việc nâng cao STEM , xóa mù chữ cho tất cả học sinh. Học viện này đại diện cho một mô hình học thuật quốc gia được công nhận về tác động cao đến thế hệ tiếp nối . Các tập quán , chiến lược và chương trình đều được xây dựng trên một nền tảng của thực hành quốc gia xác định tốt nhất  được thiết kế để cải thiện việc thu ngắn khoảng cách thành tích thiểu số , giảm lượng sinh viên có thu nhập thấp,, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, tăng tỷ lệ tốt nghiệp trung học và cải thiện giáo viên và kèm theo những hiệu quả thực tế thông qua việc giáo dục STEM . Học viện STEM là một mô hình học tập sử dụng linh hoạt nhằm vào tất cả các trường học và dành cho tất cả học sinh , sinh viên.
Học sinh Hoa Kỳ tham gia Dự án khai mở PLTW


Dự án khai mở - Project Lead The Way (PLTW) được xem như  là một nhà cung cấp hàng đầu về các chương trình ngoại khóa giáo dục STEM cho các trường trung học tại Hoa Kỳ. Các tổ chức phi lợi nhuận quốc gia có hơn 5.200 chương trình , có mặt tại hơn 4.700 trường học ở tất cả 50 tiểu bang. Chương trình này bao gồm một chương trình giảng dạy trung học kỹ thuật được gọi là Quỹ đạo Kỹ thuật - Pathway Engineering, một chương trình khoa học y sinh cấp trung học phổ thông , và một chương trình kỹ thuật công nghệ cấp trung học cơ sở gọi là   Nhập môn Công nghệ - Gateway To Technology. PLTW cung cấp chương trình giảng dạy và phát triển chuyên môn  giáo viên đồng thời hỗ trợ liên tục để tạo ra các chương trình chuyển đổi trong các trường học, các quận hạt , và các cộng đồng. Chương trình PLTW đã được xác nhận bởi Tổng thống Barack Obama và  Bộ trưởng Giáo dục Hoa Kỳ Arne Duncan cũng như nhiều lãnh đạo chính phủ các cấp , quốc gia, và giới chức lãnh đạo hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh .
Chương trình Đường vào công nghệ dành cho học sinh trung học cơ sở .

5. Các tổ chức và liên minh giáo dục STEM.

Liên minh Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học (STEM) và Giáo dục đã hoạt động để hỗ trợ các chương trình STEM cho giáo viên và học sinh tại Bộ Giáo Dục Hoa Kỳ, Quỹ Khoa học Quốc gia và các cơ quan khác cung cấp các chương trình STEM liên quan . Thông qua việc thực hành, học tập trong lớp học theo dự án, học sinh tìm hiểu làm thế nào để áp dụng những kỹ năng đã học trong môn toán và khoa học để áp dụng vào thực tế . Hoạt động của Liên minh STEM dường như đã chậm lại kể từ tháng 9 năm 2009 nhưng có chiều hướng tăng trưởng trở lại trong những năm gần đây 2012-2015 .



6.  STEM và Tổ chức Hướng Đạo Sinh Hoa Kỳ.

Tổ chức Hướng Đạo Sinh Hoa Kỳ  đã công bố các văn kiện của chương trình giải thưởng trong mùa xuân năm 2012 để thúc đẩy hơn nữa sự quan tâm và tham gia của thành viên trong các lĩnh vực STEM. Các giải thưởng NOVA và SUPERNOVA dành cho Hướng Đạo Sinh Thiếu Niên , Hướng Đạo Sinh Ấu Niên và Hướng Đạo Sinh Tráng Niên khi họ hoàn thành các yêu cầu cụ thể phù hợp với cấp độ chương trình của họ thuộc một trong bốn lĩnh vực chương trình STEM chính : Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, và Toán.

Một buổi thảo luận về mô hình Robotic của các Hướng Đạo Sinh Thiếu Niên 


Giảng dạy về khám phá không gian cho các Hướng Đạo Sinh Ấu Nhi


Rất nhiều ví dụ điển hình cho chương trình liên kết STEM và Tổ chức Hướng Đạo như sự hợp tác giữa Tiến sĩ Dave Hairston, một nhà nghiên cứu thần kinh học cùng với Trung tâm nghiên cứu ARL's Human và Giám đốc kỹ thuật, giới thiệu cho Hướng Đạo Sinh Thiếu Niên về trạng thái thần kinh quá độ bằng cách sử dụng tai nghe và laptop trong chương trình  do các tình nguyện viên đứng ra tổ chức .

Dave Hairston , tiến sĩ thần kinh học và các Hướng Đạo Sinh Ấu Nhi


Trại hè Hướng Đạo tháng 5-2015 tại St . Louis với chủ đề gắn kết với STEM đã được tổ chức cùng với sự hợp tác giữa nhiều trường đại học , tổ chức nghiên cứu , cơ quan giáo dục tiểu bang và liên bang .


Biểu tượng của Trại hè Hướng Đạo tháng 5 - 2015


7. Các chương trình thuộc Bộ quốc phòng Hoa Kỳ.

Các đặc vụ điều khiển học-điện tử (Ecybermission) là cuộc tranh tài tự do về những nội dung như  khoa học web, toán học và công nghệ dành cho học sinh từ lớp sáu đến chín được tài trợ bởi quân đội Mỹ. Mỗi webinar được tập trung vào một bước khác nhau của các phương pháp khoa học và được trình bày bởi một Hướng dẫn viên đặc vụ điều khiển học-điện tử  (eCYBERMISSION CyberGuide) có kinh nghiệm. CyberGuides là  những tình nguyện viên quân sự và dân sự với một nền tảng mạnh mẽ về STEM và giáo dục STEM , những người này có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc có giá trị về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học cho sinh viên và các cố vấn đội nhóm .

Một buổi huấn luyện thể lực-kỹ năng trong chương trinh Ecybermission .

Đại sứ cho chương trình này là những người thuộc các tổ chức dân sự hay quân sự , có nhiệm vụ thúc đẩy các chương trình eCYBERMISSION trong cộng đồng của họ. Đại sứ cũng có thể tình nguyện như một CyberGuide. Tất cả các Đại sứ sẽ cần phải có một nền tảng STEM và phải đạt yêu cầu kiểm tra được tiến hành bởi eCYBERMISSION trước khi bắt đầu vai trò của họ như là một tình nguyện viên.

Vai trò của một đại sứ eCYBERMISSION thường là
    -Thăm viếng các trường học trong cộng đồng của họ nhằm mục đích khuyến khích sự tham gia và tìm kiếm các cơ hội , học bổng cho học sinh , sinh viên .
    -Tìm kiếm các cơ quan giáo dục STEM hoặc các tổ chức thiện chí để giúp thúc đẩy các chương trình và sự tham gia liên kết trong tương lai;
    -Tuyển dụng các đồng nghiệp và bạn bè tham gia tình nguyện cho chương trình, hình thành nên các đội nhóm hỗ trợ STEM .


Jonathan Berman, Benjamin Kotzubei và Austin Veseliza trình bày cho Tổng thống Obama về dự án của các em trong eCYBERMISSION.

STARBASE là chương trình giáo dục hàng đầu, được tài trợ bởi Văn phòng Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về công vụ hậu cần . Học sinh sẽ được tương tác với các nhân viên quân sự , các sĩ quan , tướng lĩnh cao cấp để khám phá nghề nghiệp và kết nối khoa học với "thế giới thực". Chương trình cung cấp cho học sinh , sinh viên từ 20-25 giờ nhằm kích thích tiềm năng , thu thập kinh nghiệm tại Lực lượng cảnh vệ Quốc gia , Hải quân, Thủy quân lục chiến, Khu bảo tồn Không quân và các căn cứ không quân trên toàn quốc.

SEAPERCH là  chương trình nghiên cứu robot dưới nước tiên tiến , đào tạo giáo viên dạy cho học sinh của mình cách thức thiết kế , vận hành một chiếc xe điều khiển từ xa dưới nước (remotely operated vehicle -ROV) trong các buổi học chính trong trường học hoặc ngoài giờ . Học sinh sẽ xây dựng các ROV từ những bộ lắp ghép chi phí thấp, các bộ phận dễ dàng tháo ráp , tiếp sau đó là một chương trình giảng dạy d0a8c biệt về kỹ thuật và khoa học , các khái niệm cơ bản về chủ đề kỹ thuật hàng hải.

8. Các quy định về Luật pháp Hoa Kỳ về STEM .

Đạo luật cạnh tranh Hoa Kỳ 2007: Đạo luật cạnh tranh Mỹ (PL 110-69) có hiệu lực vào ngày 9 tháng 8, 2007. Đạo luật này đáp ứng mối quan tâm rằng Hoa Kỳ có thể không có khả năng cạnh tranh kinh tế với các quốc gia khác trong tương lai do không đủ đầu tư ngày hôm nay trong nghiên cứu khoa học và công nghệ và khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) giáo dục và phát triển lực lượng lao động. Luật cạnh tranh Mỹ là nhằm tăng cường đầu tư của quốc gia trong nghiên cứu khoa học và kỹ thuật và giáo dục STEM từ mầm non đến sau đại học và giáo dục bậc sau tiến sĩ.

Đạo luật cho phép tăng cường tài trợ cho Quỹ Khoa học Quốc gia, Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ phòng thí nghiệm , và Bộ Năng lượng (DOE) Văn phòng Khoa học từ năm ngân sách 2008 - 2010. Robert Gabrys, Giám đốc Giáo dục tại Goddard Space Flight Center của NASA, đã liên kết thành công với kết quả gia tăng thành tích học sinh, những biểu hiện sớm của học sinh quan tâm đến các môn STEM, và việc chuẩn bị cho sinh viên khi làm việc .

Vào tháng Giêng năm 2014, tiểu ban Nghiên cứu và Công nghệ Hạ viện Mỹ đã tổ chức một buổi điều trần để xem xét các chương trình giáo dục STEM do khu vực tư nhân thực hiện . Trong năm 2014 chính phủ liên bang Mỹ lên kế hoạch chi tiêu 3 tỷ USD về các chương trình giáo dục STEM thông qua một loạt các cơ quan liên bang.


9. Tác động của STEM và việc làm tại Hoa Kỳ .

Tháng 11 năm 2012 thông báo của Nhà Trắng trước cuộc bỏ phiếu của Quốc hội về Đạo luật Việc làm STEM  khiến Tổng thống Obama đối lập với rất nhiều các công ty Silicon Valley và các giám đốc điều hành , là người cấp vốn cho chiến dịch tái tranh cử của ông . Bộ Lao động xác định 14 lĩnh vực được "dự kiến để tăng thêm số lượng đáng kể việc làm mới cho nền kinh tế, hoặc ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của ngành công nghiệp khác hoặc đang bị biến đổi bởi công nghệ và đổi mới đòi hỏi phải tập trung đào tạo những kỹ năng mới cho người lao động ". Các lĩnh vực được xác định như sau: công nghệ sản xuất tiên tiến, Ô tô, xây dựng, dịch vụ tài chính, công nghệ địa lý không gian , an ninh quốc gia, công nghệ thông tin, giao thông vận tải, hàng không vũ trụ, công nghệ sinh học, năng lượng, y tế, khách sạn, và thương mại bán lẻ.

Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã  lưu ý rằng các nghề nghiệp có liên quan đến lĩnh vực STEM là một số trong những việc làm có tiền lương tốt nhất và có tiềm năng lớn nhất cho sự tăng trưởng việc làm trong những năm đầu thế kỷ 21. Báo cáo cũng lưu ý rằng công nhân STEM đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững và ổn định của nền kinh tế Mỹ, và đào tạo trong các lĩnh vực STEM nói chung kết quả vẫn có được mức lương cao hơn, dù có hoặc không làm việc trong một môi trường STEM.


III. MỘT SỐ TỔ CHỨC TRONG GIÁO DỤC STEM TẠI HOA KỲ

http://www.nsf.gov/nsb/sei/edTool/  trang web tài nguyên giáo dục STEM, nơi bạn có thể khám phá được kết luận cho những câu hỏi quan trọng về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) giáo dục và nghề nghiệp bằng cách sử dụng thông tin từ báo cáo Hội đồng Khoa học và chỉ số kỹ thuật Quốc gia.

http://www.stemedcoalition.org/  trang web của Liên minh giáo dục STEM với mục đích hoạt động tích cực để nâng cao nhận thức trong Quốc hội, Cục Quản lý, và các tổ chức khác về vai trò quan trọng của STEM trong giáo dục nhằm triển khai thực hiện mục tiêu Mỹ sẽ vẫn là nhà lãnh đạo kinh tế và công nghệ của các thị trường toàn cầu của thế kỷ 21. Liên Minh được tổ chức theo hình thức và cấu trúc như một tổ chức phi lợi nhuận 501c4.

http://www.definedstem.com/  website  giáo dục cho học sinh K-12 kết hợp công nghệ, sáng tạo, xây dựng chương trình đào tạo và chuyên môn để cung cấp sản phẩm hữu ích và có liên quan đến trường học , các nền tảng cho phép giáo viên có thể áp dụng các kiến ​​thức khoa học cho học sinh thông qua việc sử dụng các dự án dựa vào học tập, nghề nghiệp trong thế giới thực .

http://www.ndep.us/  Chương trình Giáo dục Quốc phòng với mục tiêu xây dựng nền tảng cho các nhu cầu của lực lượng lao động tương lai của Bộ Quốc phòng bằng cách hỗ trợ các chương trình khoa học và toán học tại ba cấp học: dự bị-đại học, cao đẳng - đại học, và sau tiến sĩ.

http://www.nianet.org/?s=+STEM Viện hàng không vũ trụ quốc gia (NIA) là một viện nghiên cứu giáo dục phi lợi nhuận được thành lập ra để tiến hành những công trình nghiên cứu hàng không vũ trụ và khí quyển tiên tiến , tìm kiếm phát triển công nghệ mới cho nhu cầu quốc gia và giúp truyền cảm hứng cho thế hệ tiếp nối các khoa học gia và các kỹ sư.

http://www.stemschool.com/   tập trung vào các môn học STEM nhằm giúp đỡ học sinh , sinh viên đạt được những kỹ năng cần thiết thành công trong thế giới đầy thách thức hiện nay. Điều này bao gồm khả năng tư duy phê phán, giải quyết các vấn đề phức tạp, và đạt được tiến bộ trong khoa học và công nghệ.

http://stemcareer.com/  nhằm đáp ứng nhu cầu đối với người lao động có tay nghề cao trong khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) có liên quan chặt chẽ đến khả năng cạnh tranh toàn cầu. Web site này có chức năng tư vấn cho sinh viên đồng thời truyền cảm hứng để giải quyết những vấn đề trong khi thúc đẩy sự nghiệp STEM .



Trần hồng Cơ 
Ngày 20/10/2105

Nguồn  :
https://en.wikipedia.org/wiki/Science,_Technology,_Engineering,_and_Mathematics#cite_note-1
https://www.ecybermission.com/Roles
http://ecybermission.blogspot.com/2010_10_01_archive.html
http://www.asbmb.org/asbmbtoday/asbmbtoday_article.aspx?id=6766
https://www.govtrack.us/congress/bills/110/hr2272/tex

-------------------------------------------------------------------------------------------

 Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

 Geothe

Thứ Hai, 19 tháng 10, 2015

VŨ QUỐC PHÓNG - Nhà toán học xuất sắc của Việt Nam .

Ý kiến của GS Vũ Quốc Phóng, Giáo sư Toán học, Đại học Ohio, Hoa Kỳ

18/08/2011 08:23:43
Đào tạo từ xa đã có từ hàng trăm năm nay qua các phương tiện khác nhau như gửi thư, truyền hình,…, nhưng từ khi có Internet thì phương tiện chủ yếu được áp dụng trong đào tạo từ xa là Internet, qua text, âm thanh, hình ảnh, video, mô phỏng và các phần mềm hỗ trợ trên nền Web (web based learning). Cách học này thường hay được gọi là e-learning. Từ khi xuất hiện vào cuối những năm 90’s, e-learning đã mở ra những kỳ vọng lớn về những thay đổi có tính chất cách mạng trong giáo dục. Nhiều công ty, trường đại học và nhà đầu tư mạo hiểm đã đầu tư hàng chục tỷ đô la Mỹ vào e-learning.
Tuy nhiên, “bong bóng” e-learning đã vỡ, cùng một lúc với bong bóng dot.com. Song điều đó không phủ nhận vai trò và ý nghĩa của e-learning trong giáo dục, cũng như việc bong bóng dot.com vỡ không phủ nhận sự phát triển, ý nghĩa và vai trò của Internet trong cuộc sống hiện tại. Thực tế là đào tạo từ xa và e-learning vẫn tiếp tục phát triển mạnh ở khắp các trường đại học trên thế giới và đặc biệt là ở Mỹ [1]. Hầu hết các trường ĐH ở Mỹ đều có các chương trình dạy qua mạng cho một số môn, và thậm chí có hẳn cả một số chương trình học có thể học được qua mạng hoàn toàn. Nhiều công ty kinh doanh đào tạo qua mạng phất lên khá nhanh, tiêu biểu như Universityof Phoenix Online[2].
Người ta thấy rõ hơn những sai lầm mắc phải trong thời kỳ đầu triển khai e-learning, tìm thấy vị trí của công nghệ như là công cụ hỗ trợ, như là môi trường để tiến hành việc học, nó không thay thế được bản thân việc dạy và học [3].
Khi áp dụng công cụ e-learning để dạy và học, đặc biệt là để học từ xa, người thầy và học sinh cần phải đồng thời thay đổi một số thói quen thường thấy trong các phương pháp dạy và học truyền thống lấy người thầy làm trung tâm, bằng phương pháp học mới lấy học sinh làm trung tâm. Nói cách khác, từ chỗ tiếp thu kiến thức một cách thụ động, học sinh nay sẽ phải chủ động tìm tòi, khai thác các nguồn thông tin từ sách báo, Internet,…, và biến nó thành kiến thức của mình, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo.
Trên thực tế để thực hiện được như trên một cách thường xuyên là một việc khó. Vì thế vẫn còn có nhiều người hoài nghi, một cách có cơ sở, về chất lượng của học từ xa [4]. Bản thân tôi cũng cho rằng học từ xa không phải là cách học tốt nhất. Ví dụ, nếu muốn trở thành một nhà kinh tế học, chắc chắn rằng được học ở một trường nổi tiếng ở Mỹ như đại học Harvard hay Yale, theo tôi, sẽ tốt hơn là theo học bất kỳ một chương trình đào tạo từ xa thuần túy nào. Việc được tiếp xúc trực tiếp với các nhà khoa học lớn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của một cá nhân.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay, cho dù một học sinh có học ở trường lớn đến đâu chăng nữa, kể cả đó là đại học Harvard hay Yale, thì cũng phải biết áp dụng cách học từ xa, áp dụng e-learning. Vì, như Giáo sư Tạ Quang Bửu nói: "Trình độ đại học là trình độ biết tự học”. Trong thời đại Internet, tự học phần lớn là tự học qua mạng: qua google, wikipedia, chats, forums, blogs, v.v…
Nếu biết khai thác những mặt mạnh và triệt để khắc phục những mặt kém, thì đào tạo từ xa bằng e-learning có thể là một phương pháp đào tạo có hiệu quả. Đặc biệt, trong điều kiện như ở Việt Nam hiện tại, khi đội ngũ các giảng viên có trình độ cao ở trong nước chưa nhiều, khi chúng ta muốn sử dụng những giảng viên đại học và chuyên gia người Việt ở nước ngoài để đào tạo cấp đại học và trên đại học, thì đào tạo từ xa và e-learning có thể xem là phương pháp tương đối khả thi.
Trích từ Đề án xây dựng đại học từ xa chất lượng cao của GS Vũ Quốc Phóng, Giáo sư Toán học, Đại học Ohio, Hoa Kỳ (www.ewiu.org)
[1] Xem http://chronicle.com/weekly/v53/i34/34a04901.htm
[2] Universityof Phoenixonline là thành viên của Appolo Group (NQSDQ:APOL).
[3] Xem http://chronicle.com/weekly/v53/i18/18b02001.htm
[4] Xem http://chronicle.com/weekly/v52/i30/30a03801.htm

 

Sơ lược thông tin về giáo sư, tiến sỹ Vũ Quốc Phóng

Bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1978 (ở tuổi 24) tại Đại học (ĐH) Kharkov (Ukraine), sau một thời gian công tác ở Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam (Viện Toán), TS. tiếp tục làm nghiên cứu sinh và đã thành công với luận án tiến sĩ khoa học toán lý – học vị cao nhất của Liên Xô vào năm 1987. Năm 1992, ông “đầu quân” về ĐH Ohio (Hoa Kỳ), được phong phó (1993) và là chính thức từ năm 1999. Ông cũng được nhiều trường đại học của Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Hàn Quốc…mời làm thỉnh giảng. Trong chuyến về nước vừa qua, ông đã dành cho DNSG một cuộc trao đổi về đề tài giáo dục đại học.
634995047773210465 Sơ lược thông tin về giáo sư, tiến sỹ Vũ Quốc Phóng
Ông nhận xét gì về các vấn đề của giáo dục đại học Việt Nam?
Nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là giáo dục đại học, đang thực sự là mối quan tâm lo lắng của công chúng. “Căn bệnh” của nền giáo dục hiện nay, với các biểu hiện và nguyên nhân, đã được nhiều người chỉ ra. Các nhà khoa học đều biết rằng những vấn đề được đặt ra quá sớm, khi các điều kiện khách quan chưa chín muồi để giải quyết, thì sẽ không thực hiện được. Theo đuổi các vấn đề này sẽ làm lãng phí thời gian và công sức mà đáng ra có thể sử dụng để giải quyết các bài toán khác được đặt ra đúng thời điểm, tuy có thể nhỏ hơn.
Giáo dục đại học Việt Nam cũng đang ở trong tình trạng tương tự, khi người ta thích đặt các bài toán thật cao siêu, thích nói đến các mục tiêu cụ thể nhưng rất xa vời. Người ta cũng quên rằng, đặt mục tiêu không quan trọng bằng việc xác định đúng phương hướng. Chúng ta nên xác định hướng đi của đại học Việt Nam, của nền khoa học Việt Nam, tạo mọi điều kiện để các nhà khoa học làm việc, để các trường đại học phát triển, chứ không nên đặt các mục tiêu cụ thể, kiểu như sau 20 năm nữa sẽ có trường đứng trong danh sách 200 trường tốt nhất thế giới, hay có người Việt Nam đoạt giải thưởng Nobel về khoa học…
Hệ quả của việc đề ra mục tiêu nhưng không xác định phương hướng có thể là gì, thưa ông?
Đó là mầm mống của tính cách lề mề, nói mà không làm, vì luôn luôn nghĩ rằng kết quả làm việc của ngày hôm nay cũng không thay đổi được gì đáng kể cho việc đạt được mục tiêu, thôi thì để ngày mai làm luôn một thể. Vả lại, mục tiêu xa vời không thể đạt được qua một nhiệm kỳ, hay một thế hệ, cho nên ta dễ dàng “nhường” việc lại cho người kế tiếp, thế hệ kế tiếp. Có lẽ đó là nguyên nhân mà đã rất nhiều năm trôi đi, giáo dục đại học ở Việt Nam chỉ chủ yếu là hứa hẹn và hô hào chứ chưa thực sự có những hành động quyết liệt để thay đổi thực trạng.
Trong số rất nhiều việc mà đầu óc chúng ta có thể hình dung, tưởng tượng là nếu làm được thì sẽ nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, có những việc rất quan trọng và hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.Tuy không phải là dễ, nhưng chúng nằm trong phạm vi chúng ta có thể giải quyết được. Điều đầu tiên cần làm ngay là xác định những loại bài toán như vậy và giải quyết chúng.
Theo ông, đó là những bài toán nào?
Tôi cho rằng chúng ta có 10 vấn đề cần và giải quyết được. Đó là:
1. Phát triển song song đại học tư thục vì lợi nhuận/phi lợi nhuận, bên cạnh hệ thống trường công lập
2. Xác định phương pháp tuyển sinh hiệu quả;
3. Xây dựng cơ chế học phí đảm bảo quyền lợi hợp lý của cả người dạy và người học,
4. Yêu cầu các trường đại học công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình về mọi hoạt động;
5. Xây dựng quy định hợp lý về độ tuổi nghỉ hưu, nhiệm kỳ lãnh đạo, đảm bảo không bỏ phí tài năng
6. Áp dụng các mô hình và phương pháp quản trị đại học tiên tiến,
7. Nâng lương nhằm góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy;
8. Xây dựng các đại học nghiên cứu có chất lượng, vươn tới đẳng cấp quốc tế;
9. Xây dựng quy chế hội đồng trường;
10. Phát triển hơn nữa và hỗ trợ các kênh đào tạo tiến sĩ chính thức/ không chính thức, chú trọng số lượng, chất lượng
và sự cân bằng giữa các ngành khác nhau của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và công nghệ, kỹ thuật.

Ông có thể nói rõ hơn về cơ chế cùng nhau quản trị trong trường và quy chế hội đồng trường?
Nhiều năm giảng dạy ở Mỹ, tôi thấy các trường đại học ở đây được quản lý theo một mô hình kết hợp của mô hình công ty và cơ chế “cùng nhau quản trị”. Mô hình công ty thể hiện ở chỗ các trường đại học đều có hội đồng trường (hội đồng quản trị) và ban lãnh đạo (chủ tịch trường), với việc giao trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. Cơ chế “cùng nhau quản trị” thể hiện ở chỗ các giảng viên và cán bộ nhà trường tham gia khá tích cực vào công việc quản trị trường. Lãnh đạo trường thường xuyên chuyền tải thông tin đến các giảng viên, gặp gỡ trao đổi ý kiến. Các chủ tịch, hiệu trưởng trường thường xuyên đi đến các khoa để gặp gỡ giảng viên, mở các buổi chiêu đãi (nhẹ nhàng) để tạo môi trường trao đổi cởi mở với giảng viên, và thường xuyên thông báo với giảng viên mọi chuyện liên quan.
Giảng viên phân công nhau tham gia rất nhiều ban khác nhau, từ những ban rất quan trọng về ngân sách, chương trình học, thăng bậc, đến những ban ít quan trọng hơn như “Ban về bãi đậu xe”. Hội đồng trường đại học công lập hay tư thục phi lợi nhuận là một tập hợp những người được các tổ chức chính phủ hay cộng đồng tin cậy giao cho việc trông coi trường, đóng vai trò của một cơ quan giám sát các hoạt động của nhà trường, sao cho nhà trường thực hiện đúng và đầy đủ các nhiệm vụ và kế hoạch đã được thông qua trong hội đồng. Nhiệm vụ của hội đồng trường bao gồm:
–  Cử chức vụ quản trị cao nhất trong trường (chủ tịch, hiệu trưởng hay giám đốc).
–  Thông qua ngân sách hoạt động hằng năm của trường,
–  Thông qua các đầu tư cơ bản để xây dựng cơ sở vật chất của trường.
–  Thông qua các đường lối lớn về phát triển chiến lược của trường trong dài hạn về mọi mặt.
–  Giám sát các hoạt động của ban điều hành của trường, bảo vệ lợi ích của trường trước cộng đồng
–  Làm cầu nối giữa trường, các cơ quan chính phủ, địa phương, các công ty và cộng đồng;
–  Vận động gây quỹ cho trường.

Vai trò của hội đồng trường tương tự như của hội đồng quản trị, cho nên cũng có thể gọi là hội đồng quản trị. Quản trị đại học theo mô hình công ty thể hiện ở nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng trường như là hội đồng quản trị, và của hiệu trưởng, giám đốc hay chủ tịch trường như là CEO của một công ty. Thông thường, hội đồng trường không có giảng viên là nhân viên của trường tham gia, trừ chủ tịch trường (hay hiệu trưởng, giám đốc) luôn luôn là thành viên của hội đồng trường theo điều lệ. Hội đồng trường có thể có đại diện của sinh viên tham gia, nhưng không có quyền bỏ phiếu.
Các thành viên của hội đồng trường (không nhận lương, chỉ được cấp chi phí đi lại, ăn ở để tham gia họp, do một quỹ đặc biệt của nhà trường tài trợ) thường là các nhà hoạt động chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục, doanh nhân… đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu. Từ trước đến nay, chưa có một trường đại học công lập nào của Việt Nam có hội đồng trường như định nghĩa ở trên. Từ đó dẫn đến tình trạng các hoạt động của các trường đại học ở Việt Nam không được giám sát, ban giám hiệu của trường hằng năm tự đề ra các đường lối hoạt động, các chỉ tiêu, tự mình làm được đến đâu thì làm, không cần phải báo cáo, giải trình với ai cả. Theo kinh nghiệm hàng trăm năm nay của nhân loại, các cơ chế quản trị phải là cơ chế đúp, theo nghĩa có bộ phận điều hành và bộ phận kiểm tra, giám sát. Một trường đại học cần hội đồng trường để làm nhiệm vụ ấy. Chỉ có như vậy mọi kế hoạch được vạch ra mới được thi hành đầy đủ và có chất lượng.
Thực ra, phương pháp quản trị đại học nào cũng có những điểm yếu, và những ai muốn phản đối nó đều có thể dễ dàng tìm được lý lẽ. Nhưng thực tế là hầu hết các trường đại học lớn trên thế giới đều áp dụng mô hình quản trị công ty kết hợp với cơ chế cùng nhau quản trị. Trong quá trình vận hành, họ thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh để cho trường đại học của họ vượt qua mọi khó khăn tạm thời và phát triển. Chúng ta nên áp dụng ít nhất là thử nghiệm mô hình quản trị đại học này trong một hoặc một số trường đại học có quy mô tương đối lớn, để rút kinh nghiệm trước khi triển khai rộng rãi.
Trong 10 “bài toán” mà ông nêu ở trên, thứ tự ưu tiên thực hiện như thế nào và những cơ quan chức năng nào phải tham gia vào việc thực hiện ấy?
Mười “bài toán” mà tôi nêu thực chất là kiến nghị về những việc có thể làm được và cần làm ngay, vì thế có thể đồng thời thực hiện. Mỗi công việc đó đều đòi hỏi phải tiến hành với sự kiên trì, quyết tâm lớn và trong một thời gian tương đối dài. Nhưng tôi cho rằng cần phải bắt đầu ngay và phải xác lập lộ trình giải quyết, “thời gian biểu” cho từng việc. Tùy vấn đề cụ thể, cơ quan chức năng trực tiếp có thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo, hay là lãnh đạo các trường đại học và đội ngũ giảng viên. Nhưng để họ có thể làm tốt các chức năng đó thì việc đầu tiên là Chính phủ phải ban hành ngay những chính sách, quy định liên quan về giáo dục đại học.
Chính phủ nên tin tưởng vào một nhóm nhỏ các chuyên gia độc lập, các trí thức uyên bác và am hiểu về giáo dục đại học thế giới và Việt Nam. Nên tránh giao hoàn toàn việc nghiên cứu và đề xuất các chính sách liên quan đến giáo dục đại học cho Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tôi được biết hầu hết những người Việt hiện đang giảng dạy ở nước ngoài đều mong muốn và sẵn sàng tham gia góp sức mình cho sự phát triển giáo dục của đất nước.
Cảm ơn ông (DNSG)

Thứ Hai, ngày 19/10/2015 10:04 AM (GMT+7)

Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng


Bài giảng cuối cùng của GS.TSKH Vũ Quốc Phóng - nhà toán học, niềm tự hào của Ohio University lại không phải về khoa học chuyên ngành cơ bản, chỉ có những vấn đề cốt lõi về y học và câu chuyện của chính ông. 

Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng - 1
GS.TSKH Vũ Quốc Phóng

Bắt bệnh giáo dục Việt Nam: lề mề
Có lẽ đó sẽ là bài giảng cuối cùng của một nhà khoa học lỗi lạc nước Mỹ.
“Buổi lên lớp” cuối cùng của GS.TS Vũ Quốc Phóng - nhà toán học, niềm tự hào của Ohio University lại không phải về những hằng số, đạo hàm hay những gì vốn thuộc chuyên ngành cơ bản.
Những người được vinh hạnh lắng nghe tiếng ngọc cũng chẳng nhiều, vẻn vẹn ba mái đầu xanh tuổi trẻ.
Giờ học đó thật khác lạ. Ông nói về những vấn đề rất cốt lõi của y học. Ông lấy ví dụ từ chính ông, về căn bệnh ung thư quái ác vô phuơng cứu chữa đã sập đến quá nhanh. Bài giảng đó được cất lên bằng một giọng nói yếu ớt nhưng tràn đầy lạc quan, bằng một sự tỉnh táo như hồi quang phản chiếu.  
Một ngày cuối tháng 7.…  
Ở cả bờ tây nước Mỹ, nhắc đến “Thầy Phóng”, đám học sinh cả ta lẫn tây đều “ồ”, “òa” lên tiếng khâm phục. Giảng đường luôn kin đặc chỗ mỗi khi ông lên lớp. Kể cả mấy tháng qua, khi ông đang trải qua những cơn đại phẫu thì lịch giảng online vẫn luôn được học sinh ngóng chờ. Không phải chì vì Giáo sư Phóng có một kiến thức sâu rộng, mà ông truyền cho người học một cảm giác “thèm học”, “muốn học” và “học đến tận cùng”.   
Và kể cả khi nằm dưỡng bệnh, bàn tay gầy guộc đó vẫn níu lấy chiếc bút chì, dọc ngang những ý tưởng trên trang giấy trắng. …  
Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng - 2
GS Phóng vẫn miệt mài làm việc ngay cả khi đang dưỡng bệnh
Giáo sư Phóng có một góc nhìn rất khác về nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là giáo dục đại học, thứ đang thực sự là mối quan tâm lo lắng của công chúng.
Với ông, “căn bệnh” của nền giáo dục hiện nay chẳng có gì là khó hiểu. Đó là mầm mống của tính cách lề mề, nói mà không làm, vì luôn luôn nghĩ rằng kết quả làm việc của ngày hôm nay cũng không thay đổi được gì đáng kể cho việc đạt được mục tiêu, thôi thì để ngày mai làm luôn một thể. Vả lại, mục tiêu xa vời không thể đạt được qua một nhiệm kỳ, hay một thế hệ, cho nên ta dễ dàng “nhường” việc lại cho người kế tiếp, thế hệ kế tiếp. Có lẽ đó là nguyên nhân mà đã rất nhiều năm trôi đi, giáo dục đại học ở Việt Nam chỉ chủ yếu là hứa hẹn và hô hào chứ chưa thực sự có những hành động quyết liệt để thay đổi thực trạng.  
Có gì đâu, khi người ta thích đặt các bài toán thật cao siêu, thích nói đến các mục tiêu cụ thể nhưng rất xa vời, thì chắc chắn người ta cũng quên rằng, đặt mục tiêu không quan trọng bằng việc xác định đúng phương hướng.  
Tấm vé một chiều về nước ...
Đã có lần GS Phóng đăng đàn mạnh mẽ , rằng chúng ta - những người Việt Nam nên xác định hướng đi của đại học Việt Nam, của nền khoa học Việt Nam theo một lối riêng. Hãy tạo mọi điều kiện để các nhà khoa học làm việc, để các trường đại học phát triển, chứ không nên đặt các mục tiêu cụ thể, kiểu như sau 20 năm nữa sẽ có trường đứng trong danh sách 200 trường tốt nhất thế giới, hay có người Việt Nam đoạt giải thưởng Nobel về khoa học…  
Một tiếng nói mạnh mẽ chưa đủ làm nhiều thứ đổi thay, nhưng tiếng nói đó sâu sắc và dám nhìn thẳng vào sự thật. …  
Những người Việt Nam thành đạt trong lĩnh vực khoa học, làm rạng danh tên nước như vậy không nhiều.
Cũng hiếm lắm người có đôi mắt tinh anh như thế, một đôi mắt có thể trao gửi mọi thông điệp mà chẳng cần nói nên lời.
Càng hiếm lắm những người mà chỉ khi gặp một lần đã cho cảm giác thân thuộc, để khâm phục và nhớ mãi.  
Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng - 3
Ngôi nhà của ông cùng những vật dụng cuối cùng đang được rao bán
Có lẽ đúng: “Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để lưu lại dấu ấn trên mặt đất, trong trái tim người khác”.
 Ngoài của nhà, tấm biển “Garage sale” đã treo. Ô tô, xe máy đến những đồ vật cuối cùng cũng đều được rao bán. Và cả ngôi nhà mái đỏ xin xắn nằm trên ngọn đồi cao yên bình này nữa, có lẽ cũng phải nói lời chia xa.   
Tấm vé một chiều về nước cũng đã định ngày.   
Giữa tia nắng ấm của mùa hè, bỗng thấy lòng giá lạnh…

GS.TSKH Vũ Quốc Phóng bảo vệ luận án tiến sĩ năm khi mới 24 tuổi tại Đại học Kharkov (Ukraine). Sau một thời gian công tác ở Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam (Viện Toán), TS. Vũ Quốc Phóng tiếp tục làm nghiên cứu sinh và đã thành công với luận án tiến sĩ khoa học toán lý - học vị cao nhất của Liên Xô vào năm 1987. Năm 1992, ông “đầu quân” về ĐH Ohio (Hoa Kỳ), được phong Phó Giáo sư (1993) và là Giáo sư chính thức từ năm 1999. Ông cũng được nhiều trường đại học của Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Hàn Quốc… mời làm giáo sư thỉnh giảng.
TS Bùi Chí Trung

Vĩnh biệt một tài năng toán học xuất sắc của Việt Nam

   Chủ nhật, 18/10/2015, 14:00 (GMT+7)
(Xã hội) - TSKH Vũ Quốc Phóng nằm trên giường bệnh để chống chọi với căn bệnh ung thư giai đoạn cuối. Dù đau đớn vì bệnh tật, nhưng ông vẫn luôn mỉm cười với bạn bè, đồng nghiệp, bà con khi đến thăm. Nắm lấy bàn tay gầy guộc của ông, ai cũng thương xót cho một tài năng toán học Việt Nam, bởi ngày ông từ giã cõi trần được tính bằng giây, bằng phút.


Nguồn :  http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/268174/vinh-biet-mot-tai-nang-toan-hoc-xuat-sac-cua-viet-nam.html  

Và, ông đã ra đi vào ngày định mệnh 27/8 âm lịch (Ất Mùi) trong niềm tiếc thương vô hạn của hàng trăm sinh viên Đại học Ohio (Mỹ) và cán bộ, GS, các nhà toán học (Viện toán học Việt Nam), cùng gia đình, bạn bè, người thân.


http://img.tintuc.vietgiaitri.com/2015/10/19/vinh-biet-mot-tai-nang-toan-hoc-xuat-sac-cua-viet-nam-960703.jpg

GS Vũ Quốc Phóng với gia đình

PGS, Phó Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam Nguyễn Việt Dũng chia sẻ, Vũ Quốc Phóng, đã chọn toàn học và toán học đã chọn ông. Suốt đời mình, từ tuổi niên thiếu cho đến phút cuối cùng ông say mê và gắn bó với toán học. Ông luôn chọn cho mình những đề tài nghiên cứu khó khăn, hóc búa và đạt nhiều két quả có giá trị đối với Giải tích hàm, Lý thuyết toán tử, Lý thuyết nửa nhóm…
“Ông là tác giả của gần 70 bài viết được xuất bản trong các tạp chí chuyên ngành có uy tín. Các kết quả nghiên cứu của ông đã được trích dẫn sử dụng trong nhiều bái báo và hàng chục đầu sách được xuất bản trên thế giới. Ông được mời làm phản biện cho hàng chục tạp chí khoa học uy tín trên thế giới. Với lòng say mê, tân tậm, bền bỉ, tài năng đã giúp ông gặt hái được nhiều thành công trên lĩnh vực toán học. Ông là nhà toán học hàng đầu của Việt Nam”, PGS Dũng khẳng định.
Sinh ra ở miền quê xứ Nghệ, trong một gia đình hiếu học. Vũ Quốc Phóng có tài năng thiên bẩm về toán học từ bé. Tốt nghiệp cấp 3, với kết quả học tập xuất sắc. Vũ Quốc Phóng được Chính phủ gửi sang Liên Xô học đại học. Ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kharkov với tấm bằng đỏ xuất sắc. Ông được trường đề nghị ở lại làm nghiên cứu sinh chuyển tiếp và bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sỹ tại Đại học Kharcov. Ông trở về nước, công tác tại Viện Toán học Việt Nam.



Chỉ vài năm sau, ông được Viện Toán học Việt Nam cử làm thực tập sinh cao cấp ở Liên Xô và năm 1987, ông bảo vệ xuất sắc Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Toán-Lý ở Viện Toán học Kiev. Từ đây, nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới mời ông làm giáo sư thỉnh giảng tại Đức, Pháp, Nhật, Hoa Kỳ, Hồng Kong… Nhiều viện nghiên cứu toán học tại mỹ, châu Âu, Trung tâm vũ trụ Na Sa còn lưu giữ nhiều bài nghiên cứu về toán của ông. Và, năm 1999 ông trở thành GS toán học của Đại học Ohio.
Dù thành công ở đỉnh cao, nhưng ông luôn có lối sống giản dị, tận tụy với công việc và có trách nhiệm giúp đỡ sinh viên có tài năng về môn toán. Ông được Đại học Ohio giao nhiều trọng trách: Chủ nhiệm khoa sau đại học, chủ tịch hội đồng xét tuyển, thi nâng ngạch giáo viên của trường. Ông là người thiết kế khóa học onlne cho Đại học Ohio và một số trường đại học khác của Mỹ và là tác giả của nhiều bài giảng từ xa.

 tài năng, toán học, xuất sắc, Vũ quốc Phóng, vietnamnet, qua đời, ung thư
GS-TSKH Vũ Quốc Phóng

Cả một đời gắn bó với toán học, Vũ Quốc Phóng luôn đau đáu về ngành Toán của Việt Nam. Vì vậy, các kỳ nghỉ hè, nghỉ đông, ông đều tranh thủ về nước dự các hội nghị về toán. Ông tham gia giảng dạy tại các trường đại học trong cả nước, cộng tác chặt chẽ với Viện Toán học Việt Nam, là câu nối giúp sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam đến với khoa Toán Đại hoc Ohio.
Những ngày cuối tháng 7. Căn bệnh ung thư quái ác đang hành hạ ông. Vũ Quốc Phóng vẫn lên lớp giảng dạy sinh viên. Bài dạy cuối cùng của ông không phải là những hàm đẳng thức, không phải là những hằng số, đạo hàm, mà về đạo làm người, về những căn bệnh quái ác mà y học hiện đại còn bó tay. Giọng nói ông cất lên yếu ớt, nhưng ánh mắt ông vẫn tràn đầy nghị lực…
Ở cả bờ tây nước Mỹ, nhắc đến “Thầy Phóng”, đám học sinh cả ta lẫn tây đều khâm phục. Giảng đường luôn kin đặc chỗ mỗi khi ông lên lớp. Kể cả mấy tháng qua, khi ông đang trải qua những cơn đại phẫu thì lịch giảng online vẫn luôn được học sinh ngóng chờ. Không phải chì vì GS Phóng có một kiến thức sâu rộng, mà ông truyền cho người học một cảm giác “thèm học”, “muốn học” và “học đến tận cùng”.
Và kể cả khi nằm dưỡng bệnh, bàn tay gầy guộc đó vẫn níu lấy chiếc bút chì, dọc ngang những ý tưởng trên trang giấy trắng. …
Ông ra đi ở tuổi 62 với nhiều dự định còn dang dở. Với ông, Việt Nam cần phải thay đổi tư duy giáo dục đại học, đừng lề mề nữa, cần phải có những bước đi cụ thể, thích hợp và phải nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Vĩnh biệt ông! Một tài năng toán học xuất sắc của Viêt Nam.
(Theo Vietnamnet)

Monday, October 19, 2015

Gs Vũ Quốc Phóng

Nguồn :  http://tuanvannguyen.blogspot.com/2015/10/gs-vu-quoc-phong.html


Tối nay, đọc một tin rất sốc với cá nhân tôi: Gs Vũ Quốc Phóng qua đời ở tuổi 62! Anh Phóng (xem hình) là một trong những đồng hương Ohio của tôi ngày xưa, và dù ít liên lạc, nhưng chúng tôi rất thân tình. Bẵng đi một thời gian thì nghe hung tin này (1). Tin anh Phóng qua đời làm tôi nhớ lại những kỉ niệm thời xưa ...


Trong "hội" Ohio ngày xưa gồm có các gia đình anh chị LTThành, VQPhóng, PHTiệp, và vài bạn mới qua sau này. Anh Thành là dân Thái Lọ, học ở Anh, sang Mĩ "tị nạn" ở Columbus. Anh Phóng là dân Nghệ An, mà tôi hay gọi đùa là Do Thái của Việt Nam, và cô vợ lúc đó mới sang mà chúng tôi gọi là hoa hậu vì cô ấy rất xinh gái. Tuần nào, chúng tôi cũng tụ tập ở nhà anh Thành tán gẫu và đàm đạo, vì lí do đơn giản là chị Lan (bà xã anh Thành) nấu phở rất ngon. Nhưng cũng có khi chúng tôi lái xe lên Athens chỗ anh Phóng định cư. Tôi gặp anh Phóng và bà xã của anh ở đó rất thường xuyên.
Anh Phóng giảng dạy ở ĐH Ohio (Thành phố Athens), một đại học có khuôn viên rất đẹp, cách Columbus khoảng 2 giờ lái xe (nếu tôi nhớ không lầm). Tôi chỉ biết anh từng học ở Liên Xô cũ, và sau khi khối xã hội chủ nghĩa sụp đổ, anh "trôi dạt" sang Mĩ và được Mĩ trọng dụng, để sau này thành một giáo sư toán của Mĩ. Anh có một trang ResearchGate nhưng tôi chắc chắn rằng anh không cập nhật hóa vì tôi biết thành tích khoa học của anh lẫy lừng hơn cái trang đơn giản này. Anh ít khi nào nói về mình và công việc của anh, nhưng học trò anh đều không tiếc lời khen anh là một người thầy tuyệt vời, người truyền cảm hứng toán mà hiếm thấy một giáo sư Mĩ nào có thể làm được. Không chỉ là một người thầy truyền cảm hứng khoa học, anh còn được học trò mến anh ở cái tính thân thiện, lúc nào cũng cười, và hình như chẳng làm phiền ai.
Anh là người có công giúp đỡ các em nghiên cứu sinh bên nhà sang Mĩ học và ở lại luôn. Chẳng những thế, anh còn "lôi kéo" những người đã thành danh ở VN sang và được bổ nhiệm chức danh giáo sư ở ĐH Ohio. Biết anh rất mê mô hình dạy trực tuyến, dạo đó, tôi có ý định làm một series trực tuyến để hướng dẫn dạy toán cho học sinh trung học, nhưng anh Phóng lắc đầu nói "Ông với status như thế thì làm chi mấy chuyện cỏn con đó". Cái giọng Nghệ An của anh nghe rất thuyết phục. Anh nhắc đi nhắc lại cái ý này mỗi khi tôi bàn về dự án, và quả thật sau này thì tôi không theo đuổi dự án đó nữa.

Anh Phóng là típ người ít nói. Trong các buổi trò chuyện, anh cười cười và lắng nghe người khác nói là chính, nhưng khi đã nói là rất hăng và hùng biện. Nhớ lúc đó bàn chuyện ông Clinton bị vướn vụ Monica Lewinsky, anh Phóng ông Clinton sẽ tại vị vì người Mĩ họ phân biệt cá nhân ông tổng thống và chức vụ tổng thống. Không như các bạn khác, anh Phóng rất ít nói gì về tình hình Việt Nam, vì anh không đánh giá cao những chính sách của chính phủ bên đó.
Thế rồi theo dòng đời, tôi quay về Úc, tạm biệt "Hội Ohio", và không có dịp gặp anh Phóng lần nữa. Chúng tôi chỉ trao đổi qua email để hỏi han công việc. Anh theo dõi đều những bài viết của tôi về giáo dục, và mỗi lần đọc được ý gì tâm đắc anh gửi tôi một email động viên. Tôi hỏi sao anh không đóng góp ý kiến cho bên nhà, vì với vị thế anh, anh có thể làm nhiều hơn nữa cho quê nhà, nhưng anh chỉ khiêm tốn nói rằng "Ông đã nói hết rồi".
Dù không gặp anh, nhưng qua bạn bè và anh Thành, tôi vẫn hỏi và theo dõi công việc của anh. Tôi cũng mừng khi biết anh có duyên mới và hạnh phúc mới, và nghĩ một ngày sẽ quay lại ghé thăm Hội Ohio. Ấy thế mà tôi không thể nào ngờ rằng anh bị bệnh vì anh ấy rất khoẻ mạnh. Tôi càng không ngờ anh bị căn bệnh quái ác ung thư cướp lấy cuộc đời của anh! Sự ra đi của anh là một sự mất mát của cộng đồng toán học Việt Nam, và tôi mất một người bạn mà tôi hằng mến mộ.
Sự ra đi của anh quả thật làm cho tôi thấy cuộc đời này sao quá mong manh. Mới gặp đó rồi chợt vụt biến. Đúng như câu “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, vạn mộc xuân vinh thu hựu khô” của Thiền sư Vạn Hạnh. Tôi xin có lời chia buồn sâu sắc đến gia đình anh Phóng, và cầu mong cho linh hồn anh sớm siêu sanh về cõi lành.
===
(1) http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/268174/vinh-biet-mot-tai-nang-toan-hoc-xuat-sac-cua-viet-nam.html
 

Cán bộ cũ của Viện

Cán bộ nghiên cứu

Nguồn : http://math.ac.vn/


Họ và  tên Học hàm, học vị lúc công tác tại Viện Thời gian làm việc tại Viện Ghi chú
Hà Lê Anh CN 1973-1986  Đã mất
Nguyễn Việt Anh TS 2005-2012 Hiện là TSKH, giảng viên Đại học Paris 11
Trần Thị Lan Anh TS

Phạm Trà Ân PGS TS 1970-2007 Nghỉ hưu
Nguyễn Lương Bách TS 1982-2004
Trần Quốc Bình  Ths 1990-1995
Bùi Công Cường PGS TSKH 1970-2004 Nghỉ hưu
Lê Văn Chóng TS 1978-2009 Đã mất
Nguyễn Ngọc Chu TS 1981-2010
Lê Ngọc Chuyên  TS 1986-1995
Đỗ Ngọc Cường  CN 1982-2005 Đã mất
Lê Hữu Diện  TS

Hoàng Đình Dung PGS TS 1970-2004 Đã mất năm 2014
Nguyễn Việt Dũng (Đại số) TS 1983-2009 Hiện là GS TSKH, giảng dạy ĐH Ohio
Phạm Cảnh Dương TS 1973-2009
Nguyễn Tiến Đại TS 1976-2012 Nghỉ hưu
Bùi Khởi Đàm PGS TS 1978-1999
Vũ Văn Đạt TS 1974-2010 Nghỉ hưu
Lê Văn Điền  TS 1976-1993
Phạm Huy Điển PGS TSKH 1976-2009
Nguyễn Hữu Điển TS 1977-2007 Hiện là PGS, giảng viên ĐH Khoa học tự nhiên Hà Nội 
Chử Văn Đông  TS 1977-1995
Nguyễn Hồng Đức TS 2007-2013
Nguyễn Hữu Đức TS 1976-1984 PGS TSKH, Hiệu trưởng ĐH Đà Lạt. Đã mất
Nguyễn Văn Gia PGS TSKH 1970-1985
Dương Duy Hải  CN       -1982  Đã mất
Đặng Hấn  CN 1966-1985
Phạm Dương Hiển  CN 1974-1977
Trần Vinh Hiển  TS 1970-1983
Lê Hội TS 1978-2002 Nghỉ hưu
Trần Huy Hổ


Đinh Văn Huỳnh GS TSKH 1978-2008 Nghỉ hưu. Hiện giảng dậy ĐH Ohio
Phan Huy Khải PGS TS 1970-2011 Nghỉ hưu
Lê Xuân Lam
1970-1976
Phan Trung Lâm CN  1986-1995
Trần Gia Lịch PGS TS 1970-2006 Nghỉ hưu
Nguyễn Kim Liên


Trần Vĩnh Linh TS 2003 - 2014
Nguyễn Khắc Lộc  CN 1975-1983 Đã mất
Lê Kim Luật CN  1982-1988
Lê Trọng Lục  CN 1970-2012 Nghỉ hưu (năm 2012)
Đinh Thế Lục GS TSKH 1975-2012 Phó Viện trưởng,
1995-1998
Đinh Quang Lưu PGS TSKH 1978-2005 Đã mất
Đỗ Văn Lưu PGS TS 1970-2009 Phó Viện trưởng,
1995-2000, Nghỉ hưu
Nguyễn Sĩ Minh TS 1976-2012 Nghỉ hưu
Nguyễn Hồng Minh CN  1982-1993
Trịnh Ngọc Minh  TS 1983-
Nguyễn Văn Ngọc TS 1975-2009 Nghỉ hưu
Nguyễn Tố Như  PGS TSKH 1982-2005 Hiện là GS, giảng dạy ĐH Ohio
Nguyễn Ngọc Phan Ths 2002-2013
Vũ Quốc Phóng TSKH 1981-2003   GS, giảng dạy ĐH Ohio. Đã mất (năm 2015).
Phạm Hồng Quang TS 1984-2009
Tạ Hồng Quảng


Đỗ Văn Sĩ


Nguyễn Văn Sinh


Hà Huy Tài TS. 2001-2010
Bùi Thế Tâm PGS. TS. 1970-2013 Nghỉ hưu
Đỗ Hồng Tân PGS. TSKH.  1970-2002 Nghỉ hưu
Lê Thanh


Dương Chí Thành
1974-1976
Lê Công Thành TS.
Nghỉ hưu
Lê Văn Thành PGS. TS. 1970-2009 Đã mất
Trần Hùng Thao PGS. TS. 1970-2005 Nghỉ hưu
Lê Văn Thiêm GS 1970-1985 Viện trưởng Viện
Toán học 1970-1980
Đã mất năm 1991,
Lê Quang Thiệp


Trần Vũ Thiệu GS. TS. 1970-2007 Nghỉ hưu
Nguyễn Văn Thoại GS. TS.

Nguyễn Văn Thu GS. TSKH. 1978-2006
Nguyễn Hữu Trợ TS. 1973-1995 và 2001-2003
Hà Thành Trung
2005-2013
Ngô  Anh Tú TS.

Nguyễn Đức Tuấn TS  1983 - 2014  Đã mất năm 2014
Trần Manh Tuấn GS. TS. 1970-2003 Phó viện trưởng
Viện Toán 1985-1990,
Nghỉ hưu
Đào Quang Tuyến TS. 1974-2010
Ngô Đạt Tứ
1970-1987 Đã mất
Đỗ Long Vân GS. TSKH. 1970-2007 Nghỉ hưu
Trần Đức Vân GS. TSKH. 1981-2011 Viện trưởng  1995-2000,
Đã mất năm 2001
Hồ Hữu Việt TS.

Nguyễn Khắc Việt TSKH.

Cán bộ Văn phòng
Họ và  tên Học vị, học hàm Thời gian làm việc Ghi chú
Đào Viết Bồng

Nghỉ hưu
Hà Thị Cận
1979-2004 Nghỉ hưu
Nguyễn Thị Côi
1970-1992 Đã mất
Vương Ngọc Châu
1970-1998 Nghỉ hưu
Đỗ Ngọc Cường

Đã mất
Nguyễn Lan Dân
1979-2015 Nghỉ hưu
Võ Thị Gái
1979-2005 Nghỉ hưu
Văn Thị Xuân Hương

Nghỉ hưu
Trịnh Bá Kiểm
1982-2004 Nghỉ hưu
Trần Thị Kim Khuyến
1970-1992 Đã mất
Phạm Tuấn Mỹ


Phùng Ngọc Nghiêm


Trần Cao Nguyên


Hoàng Minh Phong


Vũ Đình Tích


Nguyễn Văn Tiến


Mai Văn Toan


Lê Khánh Vân



Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2015

CÂU CHUYỆN TOÁN HỌC - PHẦN 4 .

CÂU CHUYỆN TOÁN HỌC -

  PHẦN 4 .








1. Hình động mô phỏng các khái niệm toán học

ĐỊNH LÝ PYTHARORAS



CONICS

ELLIPSE
HYPERBOLA

PARABOLA



TAM GIÁC PASCAL

GÓC NGOÀI CỦA LỤC GIÁC ĐỀU

 SỐ PHI

SỐ PI



QUAN HỆ GIỮA HÀM SIN VÀ COS




Nguồn http://kenh14.vn/

2. Viễn vọng kính Không gian Hubble

Viễn vọng kính Không gian Hubble đã thay đổi cách nhìn của chúng ta về vũ trụ. Trong gấn một phần tư thế kỷ, kính viễn vọng này đã gửi về trái đất một số lượng khổng lồ dữ liệu và hình ảnh từ không gian.





25.04.2015

Cách nay đúng 25 năm Viễn vọng kính Hubble được phi thuyền con thoi Discovery đặt trong không gian, với nhiều thiết bị để tìm hiểu về vũ trụ.

Viễn vọng kính này đã chụp được những hình ảnh tuyệt vời về không gian, làm cho khoa thiên văn thay đổi vĩnh viễn.

Cuộc khảo sát của Hubble bao trùm gần như mọi biên cương của khoa thiên văn không gian sâu, kể cả sự nới rộng và tăng tốc của vũ trụ, sự hình thành của thiên hà ngay sau cú nổ lớn Big Bang, cùng với thành phần hoá học và tính chất có thể cư trú của những hành tinh bay trong quỹ đạo của những tinh tú.

Viễn vọng kính này vốn được dự trù chấm dứt hoạt động vào năm 2005, nhưng giờ đây vẫn tiếp tục hoạt động sau 5 phi vụ bảo trì và sửa chữa của phi thuyền con thoi, tổng cộng 32 cuộc đi bộ trong không gian và nhiều phi hành gia đã làm việc cho viễn vọng kính.

Website của Hubble cho biết năng lực khoa học của đài quan sát này giờ đây mạnh hơn lúc mới được đưa lên không gian, với những thiết bị được nâng cấp, các máy tính và những hệ thống kiểm soát hoạt động tốt cho tới ít nhất là cuối thập niên này.

Tại Hoa Kỳ, tài liệu giáo dục của Hubble được sử dụng bởi nửa triệu giáo viên và 6 triệu học sinh mỗi năm.

Nguồn VOA.


3. Kính viễn vọng Giant Magellan cho phép tìm hiểu nguồn gốc vũ trụ



Rosanne Skirble
13.02.2014

Kính viễn vọng lớn nhất và mạnh nhất trong lịch sử đang trong giai đoạn xây dựng tại Trường đại học Arizona. Khi kính viễn vọng Giant Magellan hoàn tất vào năm 2020, nó sẽ cho phép các nhà thiên văn tìm hiểu về nguồn gốc của vũ trụ.

Ông Patrick McCarthy tới dự hội nghị thường niên của Hội Thiên văn Hoa Kỳ ở Washington để quảng bá dự án Kính viễn vọng Giant Magellan mà ông dẫn đầu.

“Kính viễn vọng của chúng tôi có đường kính 25 mét và bao gồm bảy tấm gương phối hợp hoạt động để tạo thành một kính viễn vọng duy nhất. Mỗi tấm gương đó có đường kính 8,4 mét.”

Mặc dù vậy, Magellan có căn cứ trên mặt đất và thu thập ánh sáng được lọc qua khí quyển, nó sẽ cung cấp những hình ảnh có độ phân giải cao nhất chưa bao giờ được thấy để khám phá không gian sâu thẳm. Ông McCarthy nói rằng kính viễn vọng này được thiết kế để thăm dò bầu trời nhằm tìm lời giải đáp cho những câu hỏi căn bản.

“Chúng ta muốn biết tầm vóc và cấu trúc toàn thể của vũ trụ. Vũ trụ bao gồm những gì? Đâu là nơi ở của chúng ta trong vũ trụ? Có những hành tinh khác trong vũ trụ tôn tại sự sống hay không? Và toàn bộ số phận và tiến hóa của vũ trụ là gì? Như vậy chúng ta muốn biết ta ở đâu ? Và có ai khác ở với chúng ta trong vũ trụ hay không?”





Khả năng thu thập ánh sáng cực lớn của Magellan sẽ cho phép kính viễn vọng này dõi theo tuyến đường vũ trụ tiến hóa của chúng ta, từ khí và những hạt nguyên tố tới thế giới phong phú các thiên hà, các sao và các hành tinh chúng ta thấy ngày hôm nay.

“Và một khi ta nhìn thấy chúng, ta có thể bắt đầu xem xét tới các tầng khí quyển của chúng để xem có dấu hiệu nào về đời sống hay ít nhất những chỉ dấu sinh học như nước, oxy, hoặc có lẽ chlorophyll… Và rồi trên một tầm cỡ rất lớn, chúng ta có thể đo lường lịch sử mở rộng của vũ trụ và tìm cách hiểu sự tiến hóa kỳ diệu này và hỏi số phận của vũ trụ sẽ như thế nào sau một tỉ năm nữa?”

Mỗi tấm gương là sản phẩm của kỹ thuật cắt và sản xuất độc đáo. Trước hết, một khuôn đúc được chế tạo để có thể thích nghi và chứa đựng khoảng 20 tấn kính được nghiền nát.

“Ta đổ kính vào đó, ta nung kính trong một lò đầy sợi đèn. Ta nung nóng kính tới khoảng 2.000 độ. Khi kính bắt đầu chảy, ta quay lò nung. Ta quay lò cho tới lúc kính chảy thành dạng lỏng, số kính này giữ được dạng tự nhiên của một tấm gương hình parabol.”

Sau hai ngày quay, tấm gương được để cho nguội lại, mỗi ngày một độ trong bốn tháng, để tránh những ứng suất có thể gây ra các vết nứt.”

“Rồi sau bốn tháng đó, chúng tôi mở nắp phía trên để xem kết quả ra sao. Và chúng tôi đã làm như vậy trên tấm gương thứ ba, và nó rất đẹp!”




Nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm, để đánh bóng tấm gương thật kỹ, đúng mức với những dụng cụ mỗi ngày một tinh vi hơn.

Dự án trị giá một tỉ đô la này là sáng kiến kính viễn vọng do tư nhân dẫn dắt lớn nhất trong lịch sử, một sự hợp tác toàn cầu giữa các học viện hàn lâm và khoa học.

“Đây là 10 năm giải quyết những vấn đề khó khăn, suy nghĩ thận trọng, để chế tạo một thứ chưa bao giờ được thực hiện trước đó. Đó là lý do tại sao cần phải có một đội ngũ lớn, những người rất có tài, nhiều suy nghĩ và nhiều kế hoạch.”

Kính viễn vọng Giant Magellan sẽ bắt đầu hoạt động trên một đỉnh núi tại Chile vào năm 2020, với bốn trong số bảy tấm gương căn bản. Khi giai đoạn chót hoàn tất, kính viễn vọng này sẽ có độ phân giải gấp 10 lần kính viễn vọng Hubble trên không gian. Ông McCarthy thừa nhận rằng có lẽ ông sẽ không còn sống để được hưởng những lợi ích của nó.

“Những dự án này là những kiểu dự án sẽ chiếm trọn cả đời người hay gần như vậy. Vì vậy mà những người làm công việc đó như tôi hiểu rằng thế hệ kế tiếp sẽ là người sử dụng. Họ sẽ là những người thực hiện việc khám phá.”

Ông nói thêm rằng “những khám phá, mà chúng ta thậm chí còn chưa thể hình dung ra.”

Nguồn VOA

4. Nhà toán học lỗi lạc John Nash qua đời trong tai nạn xe hơi

Thiên tài toán học từng đoạt giải Nobel John Nash, người mà cuộc đấu tranh chống chọi bệnh tâm thần phân liệt được dựng thành phim A Beautiful Mind năm 2001, cùng vợ của ông, đã qua đời trong một tai nạn giao thông ở Mỹ.





Nguồn VOA

Tưởng nhớ John Nash



John Nash là một tượng đài trong ngành toán và kinh tế. Ông đoạt giải Nobel kinh tế năm 1994.

Trần Vinh Dự
25.05.2015

Hôm nay, giáo sư toán kinh tế John Nash đã qua đời cùng với người vợ của mình, bà Alicia Nash, trong một tai nạn giao thông kinh hoàng ở bang New Jersey. Giáo sư Nash hưởng thọ 86 tuổi, còn vợ ông, bà Alicia Nash hưởng thọ 82 tuổi.

John Nash là một tượng đài trong ngành toán và kinh tế. Ông nhận giải Nobel kinh tế năm 1994 vì là người đầu tiên mở ra ngành Game Theories (lý thuyết trò chơi, hay đúng hơn là lý thuyết tương tác chiến lược). Game Theory ngày nay đã trở thành xương sống của kinh tế học hiện đại, của chính trị học, xã hội học, và nhiều ngành khoa học xã hội khác. Sở dĩ như vậy là vì Game Theories mô hình hóa tất cả các tương tác xã hội giữa con người với con người dưới dạng toán học để tìm ra các giải pháp cân bằng (equilbrium) cho mỗi tình huống. Tên của giáo sư John Nash được đặt cho một loại cân bằng này, gọi là Nash Equilibrium.



Những người không thuộc giới nghiên cứu kinh tế hoặc toán học ít biết đến ông. Người ta chỉ biết đến hình ảnh một thiên tài đầy bệnh tật và cuộc sống kì dị trong phim A Beautiful Mind (phim được 4 giải Oscar năm 2002). Trong film, nghiên cứu sinh tiến sĩ Nash nghĩ ra cân bằng Nash và bắt đầu đặt viên gạch đầu tiên cho Game Theory khi đi tới một bữa tiệc, và nhận thấy tương tác giữa các bạn nam và bạn nữ, khi mỗi bên đều tìm cách gây ấn tượng và chinh phục người của phe kia.

Nhân vật trong A Beautiful Mind tốt nghiệp tiến sĩ, lập gia đình với một cô bạn gái cùng trường, và được Bộ Quốc phòng Mỹ mời làm việc. Sau đó ông bị phát hiện có triệu chứng hoang tưởng và rối loạn thần kinh (paranoid schizophrenia), luôn cảm thấy mình là trung tâm của một vụ việc hệ trọng liên quan đến an ninh quốc gia, luôn bị theo dõi, đe dọa. Căn bệnh này đe dọa chính gia đình ông, cho đến khi ông phát hiện ra là người vợ mình luôn trẻ như ngày đầu mà không già đi chút nào, và hiểu rằng mình luôn bị ảo giác. Từ đó, ông tập sống và chấp nhận với ảo giác, với những nhân vật không có thật đeo bám mình, và trở lại cuộc sống bình thường của một giáo sư vào lúc tuổi đã già.



Ngoài đời thật của John Nash khác rất nhiều so với trong phim. Ông chưa bao giờ làm cho Bộ Quốc phòng Mỹ mà chỉ làm cho một think tank tên là RAND (think tank này làm nhiều hợp đồng nghiên cứu cho Bộ Quốc phòng). Cuộc sống ngoài đời thật của ông cũng phức tạp hơn rất nhiều lần so với trong  phim. Theo nhiều nguồn tin chính thống, John Nash từng có thời gian có khuynh hướng tình dục đồng giới (trước khi có tình yêu thật sự với Alicia và cưới).

Ông cũng có một người con trai từ lúc 25 tuổi (năm 1953) với Eleanor Stier, một y tá ở Boston, và đặt tên là John David Stier. John Nash không chịu cưới và chia tay Eleanor. Ông không mấy quan tâm đến John Stier và chỉ thi thoảng gặp. Từ khi cậu bé lên 6 tuổi, ông chủ yếu liên hệ với con trai qua thư. Sau này John Stier trở thành một y tá giống như mẹ. Sau nhiều năm vật lộn với bệnh tật và trở lại bình thường, Nash gặp lại John Stier và trách John tại sao không trở thành bác sĩ để cậu và em trai cùng bố (con của Nash và Alicia) có thể gặp nhau và giúp nhau (người con thứ hai này cũng bị bệnh rối loạn thần kinh giống John Nash).

Cuộc hôn nhân của John Nash và Alicia cũng không suôn sẻ. Ông bà lấy nhau tháng 2 năm 1957 và có con trai tên John C.M. Nash vào tháng 5 năm 1959 (cậu bé này không có tên trong gần cả một năm). Tới mùa Giáng Sinh năm 1962, Alicia đệ đơn li dị. Rõ ràng bệnh tật của Nash trong giai đoạn này đã làm Alicia không chịu đựng nổi. Hồ sơ của Alicia viết rằng Nash đổ tội cho bà đã cố tình hai lần đưa ông vào nhà thương điên. Ông chuyển sang sống ở một phòng khác trong nhà, và trong hơn 2 năm từ chối quan hệ vợ chồng với Alicia.

Sau khi li dị, Alicia lại cho phép John Nash quay lại sống cùng với mình vào năm 1970. Sự chăm sóc và sự kiên nhẫn của bà đóng vai trò vô cùng hệ trọng trong việc giúp ông dần dần khỏi bệnh loạn trí. Tuy nhiên, quan hệ của hai người giống như hai người bạn. Quan hệ tình cảm của họ chỉ sống lại vào năm 1994, sau khi John Nash được giải Nobel kinh tế. Hai người làm đám cưới trở lại vào năm 2001, 44 năm sau đám cưới đầu tiên của họ. John Nash và Alicia cùng qua đời vào ngày 25 tháng 5 năm 2015 trong một tai nạn giao thông ở New Jersey như báo chí đã đưa.

John và Alicia Nash, trong khuôn viên trường Đại học Princeton,
tái hôn năm 2001. Họ có một con trai tên là John Charles Martin Nash (sinh năm 1959)
 

Ngoài đời thật, John Nash là một thiên tài, nhưng cũng là một người lập dị, trước khi trở thành một nạn  nhân của bệnh loạn trí. Phần lớn cuộc đời ông sống trong bệnh tật. Những người thân của ông cũng vì thế mà chịu nhiều khổ đau. Con trai đầu của ông bị ông ghẻ lạnh. Con trai thứ hai bị bệnh giống như ông. Vợ ông, bà Alicia cũng gần như dành cả đời mình chăm sóc cho John Nash – như một người chồng thì ít mà như một bệnh nhân thì nhiều.
Thế nhưng, đối với những người làm nghiên cứu kinh tế (và nhiều bộ môn khoa học khác sau này), đặc biệt với người nghiên cứu Game Theory, thì tài sản mà ông để lại cho họ (và cho nhân loại) quả thật vô giá.

Tôi chưa bao giờ gặp ông, nhưng đã có thời là người nghiên cứu Game Theory, luôn ngưỡng mộ thiên tài của ông, và trân trọng những gì ông để lại cho khoa học. Hôm nay biết tin ông mất, và lần đọc lại những biến cố trong cuộc đời ông, nhớ lại bộ film A Beautiful Mind đã từng xem từ mười mấy năm trước, không khỏi thấy sự ra đi của ông là một mất mát quá lớn. Những dòng viết đơn giản này xin dành để tưởng nhớ ông, người cha của ngành khoa học Game Theory hiện đại.

Nguồn VOA
http://www.voatiengviet.com/content/tuong-nho-john-nash/2789639.html



5. 14/03/15: Ngày số Pi trăm năm mới có một lần

Ngày số Pi năm nay sẽ ghi nhận khoảnh khắc đặc biệt trăm năm mới có một lần: 9 giờ 26 phút 53 giây.

Ai cũng biết hôm nay là Valentine trắng, dịp mà các chàng trai tặng quà đáp lễ cho nửa kia của mình sau khi được nhận sô cô la vào ngày 14/02. Nhưng ngoài ra, 14/03 còn mang một ý nghĩa vô cùng đặc biệt khác: đó là ngày số Pi – ngày vinh danh một trong những con số vĩ đại nhất trong lịch sử toán học.


Năm nay, ngày số Pi sẽ trở nên đặc biệt hơn bao giờ hết khi đồng hồ điểm 9 giờ 26 phút 53 giây. Khi đó nếu ghép các số liệu thời gian theo thứ tự tháng, ngày, 2 số cuối cùng của năm, giờ, phút, giây ta sẽ được: 3,141592653. Đây chẳng phải là giá trị gần đúng của số Pi hay sao?

Ngược dòng lịch sử, ta sẽ thấy trong mọi nền văn hóa, số Pi luôn chiếm một vị trí vô cùng đặc biệt. Từ Hy Lạp cổ đại cho tới Ai Cập, Babylon, Trung Quốc, ở đâu các nhà toán học đại tài cũng đều mong muốn tìm ra giá trị thật của Pi (hằng số biểu thị tỉ số giữa chu vi của đường tròn và đường kính). 

Người đầu tiên tính ra gần đúng giá trị của π là Ác-si-mét người Hy Lạp (287 – 222 TCN) sau khi sử dụng hình vẽ đa giác có tới 96 cạnh. Kết quả của ông là 3,1419. 
Ở Trung Quốc, vào thời Ngụy Tấn (khoảng năm 263), nhà toán học Lưu Huy đã chỉ ra được giá trị của π là 3,1416 - một giá trị gần đúng với ngày nay. Đến thời Nam - Bắc Triều (khoảng năm 480), nhà khoa học Tổ Xung Chi đã tìm ra số π = 355/113 hay giá trị của π nằm trong khoảng từ 3,1415926 đến 3,1415927. Đây là số π chính xác nhất trong vòng 900 năm sau đó. 

Tổ Xung Chi, nhà khoa học tính ra gần đúng nhất với giá trị của số Pi ngày nay
Tục lệ kỷ niệm ngày số Pi bắt đầu ra đời tại San Francisco Exploratorium vào năm 1988 theo ý tưởng của Larry Shaw. Nhân viên của Exploratorium và công chúng sẽ cùng nhau tập trung trong sự kiện này, diễu hành rồi sau đó cùng nhau ăn những chiếc bánh trái cây. Kể từ đó, nhiều người bắt đầu coi “Ngày số Pi” như một ngày lễ kỉ niệm đáng nhớ thường niên. Đặc biệt, ngày số Pi cũng chính là sinh nhật của thiên tài khoa học Albert Einstein người Đức.


Nguồn: CNN Tech, The Next Web, Wikipedia

    Trong số những ngày lễ kỉ niệm cấp quốc gia của nước Mỹ, Pi day 14/3 là một dịp đặc biệt để dân mê Toán và dân nghiền bánh nướng cùng tụ họp.

    Sinh ra từ một lối chơi chữ
    Năm 1988, tại Bảo tàng khoa học San Francisco Explotarium, nhà vật lý học Larry Shaw đã cùng với các nhân viên của mình tự tổ chức một ngày lễ vinh danh hằng số Pi. Do “Pi” và “Pie” (bánh nướng) có phát âm giống nhau, trong ngày này, Shaw cùng các cộng sự của mình đã thưởng thức những chiếc Pie trái cây thơm ngon. Ý tưởng về một “Pi day” – vừa vinh danh toán học vừa “măm măm” bánh ngọt – đã được Hạ viện Mỹ quan tâm và hỗ trợ để phát triển thành Ngày số Pi toàn quốc – 14/3 hàng năm.

    Một điều thú vị khác là, sở dĩ 14 tháng 3 được chọn vì trong lịch Mỹ nó sẽ được viết thành 314, khá giống với  con số Pi xấp xỉ 3,14 nổi tiếng. Bên cạnh đó còn có một lí giải thú vị không kém về mối liên hệ giữa số 3,1,4 với bánh pie: Nếu bạn viết 314 và soi qua gương, hình ảnh phản chiếu của nó sẽ gần giống với từ “pie”!

    Dù mang ý nghĩa chính là tôn vinh số Pi, nhưng mục đích này chỉ phổ biến trong giới Toán học. Với đa số dân Mỹ nói chung, 14/3 hàng năm được biết đến như một ngày bánh Pie toàn quốc thứ hai bên cạnh ngày chính thức là 23/1. Thậm chí Hội đồng Bánh nướng uy tín nhất của nước Mỹ - American Pie Council – cũng nhiệt tình tham gia vào công cuộc kỉ niệm Pi day.

    Hàng năm, cứ tới 14/3, người Mỹ đều rộn ràng chuẩn bị những chiếc bánh pie thơm ngon và xinh đẹp, theo sau là hàng loạt các hoạt động thú vị khác xoay quanh số Pi và bánh pie: Lễ hội ném bánh pie, cuộc thi bánh nướng cấp khu vực và toàn quốc, những cuộc họp mặt của câu lạc bộ Toán ở trường trung học và đại học – khi các thành viên cùng quây quần bên một đĩa bánh nướng thơm lừng. Dù ra đời chưa lâu nhưngPi day đã tổ chức thành công suốt chục năm ở Mỹ , và trở thành một trong những dịp lễ lạc được người dân cực kì mong đợi.

    Ăn gì vào Pi day 14/3 ?

    Dĩ nhiên là bánh Pie…

    Tất cả các loại Pie truyền thống của Mỹ sẽ được bán nhanh chóng vào ngày này, và mọi người có thể ăn Pie từ sáng đến tối thay cho ba bữa chính. Tuy nhiên vì đây là loại bánh truyền thống gắn với cuộc sống thường nhật, nên người Mỹ có xu hướng tự nướng Pie ở nhà hơn. Một số loại Pie trái cây đơn giản sẽ là lựa chọn lý tưởng cho ngày 14/3: Apple Pie với lớp táo mọng nước bên trong, Rashberry hoặcBlueberry Pie với vị chua hoa quả hòa quyện cùng phần bánh giòn tan, ngọt ngào,…

    “Hoành tráng” hơn, nhiều gia đình còn khéo léo làm các loại Pie đẹp mắt và phức tạp như Ley Lime Pie – bánh nướng chanh với lớp meringue  từ lòng trắng trứng tuyệt đẹp bên trên, hoặc pie hồ đào, pie bí đỏ, thậm chí pie mang phong vị châu Á với thành phần chính là…khoai lang! Pi day đích thực là một dịp để các đầu bếp Mỹ tại gia được thỏa sức sáng tạo trên công thức bánh nướng truyền thống.

    …và nhiều món ngon khác nữa!

    Một điều thú vị mà dân Mỹ phát hiện ra trong vài năm đầu tổ chức Pi day là, không chỉ đồng âm với bánh pie, “Pi” còn xuất hiện rất nhiều trong các danh từ chỉ món ăn ở Tiếng Anh. Và thế là để hòa quyện toán học với ẩm thực một cách thú vị hơn nữa trong ngày 14/3, người Mỹ sẽ ăn cả những món có cụm “pi” trong đó, ví dụ như pizza, pinnapple, pine nuts,… Danh sách này ngày càng được tăng lên và được thêm vào nhiều cái tên “không ngờ”, nhờ vào óc nhạy cảm ngôn ngữ của người Mỹ.

    Tuy nhiên, ngày 14/3 sẽ không trọn vẹn nếu mọi người chỉ chú trọng vào công thức và hương vị. Để truyền tải tinh thần tôn vinh số Pi vào trong những món ăn thơm ngon, nhiều cách tạo hình độc đáo cho thực phẩm đã được ra đời. Phổ biến nhất là dùng icing sugar  hoặc sốt chocolate để vẽ kí hiệu Pi lên mặt bánh, hoặc tạo hình vỏ bánh theo kí hiệu này.

    Kí hiệu Pi sẽ xuất hiện khắp nơi: Từ hình dáng những chiếc bánh cupcake, chi tiết trang trí trên bánh cupcate, tới cách sắp xếp quả olive và cà chua bi trong đĩa salad cho bữa tối,…Tất cả đều thể hiện tinh thần sáng tạo không ngừng nghỉ và đầy bất ngờ của các đầu bếp tại gia Mỹ.


    Chỉ từ một hiện tượng đồng âm khác nghĩa trong tiếng Anh, người Mỹ đã nghĩ ra cách kết hợp hai hoạt động tưởng chừng không chút liên quan là Toán học và ẩm thực lại với nhau – tạo nên một Pi day độc đáo chỉ có riêng ở đất Mỹ.  Đừng quên rằng vào ngày 14/3 hàng năm, ngoài việc kỉ niệm lễ Valentine Trắng, vẫn có hoạt động không kém để tôn vinh một phát minh quan trọng của Toán học lẫn một công thức ẩm thực lâu đời nhé!
    Theo
     Tsubaki / Trí Thức Trẻ


    6. Tin tức toán học thế giới

    a.Mathematical Reviews kỷ niệm 75 năm ra số đầu tiên.
    Năm 1940 Hội Toán học Mỹ đã thành lập Mathematical Reviews với tổng biên tập đầu tiên là Otto Neugebauer. Kể từ đó, Mathematical Reviews đã trở thành một phần quan trọng của Hội Toán học Mỹ cũng như cộng đồng toán học quốc tế. Số đầu tiên được xuất bản chỉ có 32 trang và 176 bài viết. Ngày nay,
    MathSciNet (phiên bản điện tử) có một cơ sở dữ liệu gồm 3 triệu tài liệu với gần 9 triệu trích dẫn và một cộng đồng gần 17.000 nhà toán học tham gia viết.

    b."Breakout Graduate Fellowships" là tên một quỹ học bổng mới được thành lập bởi các nhà toán học Simon Donaldson, Maxim Kontsevich, Jacob Lurie, Terence Tao và Richard Taylor. Là chủ nhân của các giải thưởng "Mathematics Breakthrough Prize" (Giải thưởng Đột phá Toán học) năm 2014, mỗi nhà toán học đã tặng cho Liên đoàn Toán học Thế giới 100.000 đô la để thành lập quỹ học bổng cho những sinh viên cao học toán ở tại các nước đang phát triển.
    Thông tin thêm xem tại www.mathunion.org/cdc/aboutcdc/news-and-events/

    c.Các nhà toán học Mỹ John F. Nash Jr. và Louis Nirenberg cùng chia giải thưởng Abel năm nay.
    Cả hai ông được trao giải cho những đóng góp nổi bật và có ảnh hưởng sâu xa trong lý thuyết phương trình đạo hàm riêng phi tuyến và những ứng dụng trong giải tích hình học.
    John F. Nash Jr. năm nay 86 tuổi và từng dành cả sự nghiệp tại Đại học Princeton và Viện Công nghệ Massachusetts (MIT).
     Louis Nirenberg nămnay 90 tuổi và từng làm việc tại Viện các khoa học về Toán Courant, Đại học New York. Mặc dù cả hai nhà toán học không chính thức hợp tác trong bài báo nào, trong những năm 1950 họ đã có ảnh hưởng lớn lẫn nhau. Hiện nay, những kết quả của hai ông đang được áp dụng mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

    d.Giải thưởng Wolf cho Toán học là một giải thưởng quan trọng khác trong cộng đồng toán học cũng vừa công bố chủ nhân của giải thưởng năm 2015 là giáo sư James G. Arthur của Đại học Toronto, Canada.
     Arthur được trao giải cho những công trình đồ sộ về công thức vết vànhững đóng góp cơ bản cho lý thuyết biểu diễn automophic của nhóm reductive.

    e.Một số giải thưởng năm 2015 của Hội Toán học Mỹ bao gồm:

    1. Giải thưởng Steele mục Thành tựu trọn đời: Victor Kac (Viện Công nghệ Massachusetts - MIT) cho những đóng góp đột phá của ông cho lý thuyết Lie và ứng dụng trong toán học và vật lý.
    2. Giải thưởng Steele mục Trình bày toán học: Robert Lazarsfeld (Đại học Stony Brook) cho quyển sách "Positivity in Algebraic Geometry I and II", xuất bản năm 2004.
    3. Giải thưởng Steele mục Cống hiến cho nghiên cứu: Rostislav Grigorchuk (Đạihọc Texas A&M) cho bài báo "Degrees of growth of finitely generated groups and the theory of invariant means". Bài báo này đầu tiên được đăng bằng tiếng Nga năm 1984 ở tờ Izvestiya Akademii Nauk SSSR. Seriya Matematicheskaya,một năm sau được dịch sang tiếng Anh. Bài báo là một bước ngoặt đặc biệt trong sự phát triển của lý thuyết nhóm hình học, một lĩnh vực đang phát triển nhanh.
    4. Giải thưởng Satter: Hee Oh (Đại học Yale, Mỹ) cho những nghiên cứu về động lực của không gian thuần nhất, nhóm con rời rạc của nhóm Lie và ứng dụng vào lý thuyết số.
    5. Giải thưởng Cole cho Đại số: Peter Scholze (Đại học Bonn, CHLB Đức) cho các kết quả về các không gian perfectoid, dẫn đến lời giải cho một trường hợp đặc biệt quan trọng của giả thuyết đơn đạo có trọng (Weight-monodromy conjecture) của P. Deligne.
    6. Giải thưởng Birkhoff: Emmanuel Candès (Đại học Stanford, Mỹ) trong lĩnh vực toán ứng dụng. Các công trình của ông về compressed sensing (lấy mẫu nén) đã cách mạng hóa xử lý tín hiệu và nhận dạng hình ảnh y tế. Giải thưởng cũng được trao do những đóng góp của Candès trong giải tích điều hòa tính toán, thống
    kê và tính toán khoa học.
    7. Giải thưởng Whiteman: Umberto Bottazzini (Đại học Milan, Ý), đã được trao giải thưởng cho những công trình về lịch sử toán học, trong đó nổi bật là về sự xuất hiện của toán học hiện đại ở Ý và về giải tích thế kỷ 19 và 20.


    7. Máy gia tốc hạt lớn LHC tái khởi động

    Thứ Tư, 27/05/2015

    Tin tức / Khoa học công nghệ



    Các nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu (CERN) hôm qua tái khởi động Máy Gia tốc hạt lớn LHC "Big Bang", bắt đầu nỗ lực thăm dò vào ‘vũ trụ tối’ mà họ tin là nằm ngoài bầu vũ trụ có thể nhìn thấy.

    CERN cho hay các tia phân tử đã bắn xuyên qua được đường hầm dài 27km của máy gia tốc bên dưới đường biên giới giữa Thụy Sĩ và Pháp, gần Geneva.

    Máy LHC là dụng cụ trong quá trình khám phá các hạt boson Higgs, một hạt hạ nguyên tử đã được giả định từ lâu nhưng mãi tới năm 2013 mới được xác định.

    Cỗ máy này bị đóng hai năm trước cho quá trình nâng cấp khổng lồ được mô tả như nhiệm vụ của Hercule tăng đôi sức mạnh và khả năng vươn tới những gì chưa được biết đến.

    Các khoa học gia hy vọng sẽ nhìn thấy được tất cả các thể loại vật lý mới, kể cả việc lần đầu tiên được trông thấy vật chất tối trong quá trình vận hành 3 năm lần thứ nhì của máy LHC.

    Nguồn VOA


    -------------------------------------------------------------------------------------------

     Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

     Geothe

    *******

    Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
    Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


    Chia xẻ

    Bài viết được xem nhiều trong tuần

    CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

    Danh sách Blog

    Gặp Cơ tại Researchgate.net

    Co Tran