Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn phim ảnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn phim ảnh. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 3 tháng 8, 2014

Khu vườn bí ẩn - Frances Hodgson Burnett


Khu vườn bí ẩn .




 Khu vườn bí mật
Tác giả : Frances Hodgson Burnett



Giới thiệu tác phẩm .

 " Khu vườn bí ẩn " (The Secret Garden) là một cuốn tiểu thuyết của Frances Hodgson Burnett . Ban đầu tác phẩm được xuất bản theo từng tập vào mùa thu năm 1910, ấn bản toàn tập vào năm 1911 .  " Khu vườn bí ẩn " là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất Burnett, được xem như là tuyệt tác văn học cổ điển Anh dành cho thiếu nhi . Một số vở kịch , nhạc kịch sân khấu và phim chuyển thể dựa trên tiểu thuyết này đã được sản xuất .

----------

Vài dòng cảm nghĩ .

Một cuốn sách không mới nhưng nó đủ hấp dẫn tôi đọc lại tới lần thứ 3. Tôi tìm thấy sự trong trẻo, một "phép màu" có thực qua "Khu vườn bí mật".

Ấy thế, có một câu chuyện dành cho trẻ con, nhắc rất nhiều đến phép màu mà vẫn làm bất cứ người lớn nào cũng phải say sưa đọc. Câu chuyện ấy được viết cách đây trên 100 năm, nhưng những giá trị cũng như sự sâu sắc của nó thì vẫn tồn tại dai dẳng trong lòng người đọc qua nhiều thập kỷ. Đó là câu chuyện về “Khu vườn bí mật” của Frances Hodgson Burnett.

Trong một lần dọn dẹp tủ sách, tôi tìm thấy “Khu vườn bí mật” đã ố vàng và bốc mùi ẩm mốc nằm lẫn trong đám sách cũ. Cầm trên tay cuốn sách, lại thấy hiện lên rõ ràng khung cảnh mùa xuân ngọt ngào đương thì con gái, cảnh một khu vườn chan hòa trong ánh nắng và rực rỡ những sắc màu, ngay cả gió cũng thơm hương hoa cỏ, và chim chóc ríu rít chuyền cành, cảnh trẻ thơ vui đùa trong tiếng cười giòn tan, trong trẻo.



Chuyện kể về Mary Lennox, một cô bé mồ côi được chuyển đến sống ở trang viên của người bác tại vùng đồng hoang Yorkshire, nước Anh. Từ đây, biết bao nhiêu bí mật thú vị đã được mở ra, làm biến đổi tâm hồn cằn khô và tính tính khó chịu của cô chủ nhỏ ngang ngược. Cô bé ấy phát hiện ra một khu vườn đã bị khóa kín 10 năm, một khu vườn tưởng như đã chết nhưng rồi lại hồi sinh nhờ tình yêu và sự chăm sóc của con người.

Cô cũng phát hiện ra người anh họ ốm yếu của mình – Collin, một người cũng ngang ngược và kém thân thiện chẳng khác gì cô ngày trước; phát hiện ra Dickon, cậu bé có khả năng hòa hợp với tất cả muông thú, cỏ cây lẫn con người...



Từ một cô bé cô đơn, Mary đã mở lòng ra với mọi người xung quanh, tất cả chính là nhờ nơi bí ấn diệu kỳ mang tên “khu vườn bí mật” ấy. Không chỉ có Mary mà cuộc sống của những người khác như Collin, ông bác Craven cũng thay đổi theo. Trang viên Misselthwaite từ một nơi ảm đạm, tăm tối, lại như bừng tỉnh sau giấc ngủ dài, căng tràn sức sống.

Bằng một lối viết đầy say mê, Hodgson đưa đến cho người đọc những nét đẹp của thời đại bà, cùng những giá trị đạo đức và tình cảm thanh khiết, thuần phác của con người ngày ấy. Cộng với bối cảnh thấm đẫm chất lãng mạn, người đọc tìm đến “Khu vườn bí mật” để tận hưởng sự thư thái khi đắm mình vào thiên nhiên tươi đẹp và cùng chiêm nghiệm những giá trị của tình bạn, tình yêu, lòng kiên nhẫn, sự tin tưởng...



Tìm đến với “Khu vườn bí mật” để cùng cười trước sự thánh thiện lẫn ngây ngô của con trẻ; để cùng khóc khi cậu bé ốm yếu lúc nào cũng ngỡ mình sẽ chết sớm Collin hét thật to trong khu vườn bí mật: “Tớ sẽ khỏe mạnh! Và tớ sẽ sống mãi mãi!”, cùng hồi hộp và say mê theo bước chân của cô bé Mary đi khám phá khu trang viên rộng lớn, cùng thích thú với Dickon chăm sóc, huấn luyện và chuyện trò với muông thú...

Trên đời này có tồn tại phép màu không? Tôi nghĩ rằng có, dù tôi không còn là trẻ con nữa. Phép màu vẫn xảy ra hàng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Ấy là khi ta buồn, có một bờ vai đưa ra để ta gục mặt vào và khóc; Là khi ta vui, có một đôi tai sẵn sàng lắng nghe ta huyên thuyên đủ thứ chuyện trên trời dưới biển; Là khi ta thành công, có một vòng tay ôm ta thật chặt chúc mừng; Là khi ta thất bại, có một cánh tay nâng ta dậy, động viên ta bước tiếp...

Vì có tất cả những điều ấy, ta mới có thể sống đến ngày hôm nay và trân trọng cuộc đời này. Ấy chính là thứ phép màu kỳ diệu nhất trên đời, phép màu mang tên: Tình yêu!


Theo  Thủy Trần

nguồn :  http://afamily.vn/phu-nu-gia-dinh/say-sua-doc-khu-vuon-bi-mat-20101130043827346.chn

------------------------------------------------------------------------------------------

Khu vườn bí mật (The secret garden) của Burnet là một tác phẩm kinh điển dành cho thiếu nhi của nền văn học Anh, xuất bản lần đầu vào mùa thu năm 1911. Nhân vật bắt đầu câu chuyện là Mary, một cô bé tiểu thư không những không xinh xắn mà lại còn vô cùng ngang ngược, khó chịu. Mary sống ở Ấn Độ cùng bố mẹ và được các gia nhân người bản xứ cung phụng hết mực, nhưng một đợt dịch tả đã cướp đi tất cả. Mary trở thành một đứa trẻ mồ côi được gửi đến sống trong một lâu đài ở vùng Yorkshire nước Anh lạnh lẽo, nơi ở của ông bác Craven. Chẳng bao lâu sau, Mary phát hiện sau tai nạn thương tâm của người vợ mười năm về trước, ngài Craven đau khổ đến mức khóa kín khu vườn mà bà yêu thích rồi vùi chìa khóa xuống đất sâu. Trí tò mò bị kích thích, Mary quyết định dành những chuỗi ngày cô đơn, buồn tẻ để đi tìm khu vườn bí mật, rồi một ngày em được chú chim ức đỏ giúp tìm ra chiếc chìa khóa…



Đây là một câu chuyện hết sức trongg trẻo với những miêu tả dễ thương dành cho các nhân vật lẫn phong cảnh. Có thể thấy Burnet đã có một tình yêu  sâu sắc đối với thiên nhiên khi bà tả cây cỏ, muông thú với những đường nét mềm mại, đáng yêu. Mary Lennox tuy là nhân vật chính song cô bé lại xấu tính, ngạo mạn thậm chí quá quắt. Nhưng cuộc sống ở vùng Yorkshire, những khu vườn xinh đẹp, cánh đồng hoang thọat chừng lạnh lẽo hóa ra lại vô cùng sống động,… tất cả đã dần dần khơi gợi trong cô bé xấu tính ấy những cảm xúc tốt lành. Mary hư không phải do bản chất mà là do thiếu thốn tình thương, dù chính em cũng không cảm thấy điều đó. Khi em được bao phủ trong sự quan tâm đúng đắn, như một lẽ tất nhiên, em thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn.



Trong Khu vườn bí mật, có ba nhân vật chính đều là những đứa trẻ ngang tuổi nhau, Mary, Dickon và Colin. Mary bị bố mẹ bỏ rơi không quan tâm còn Colin thì mẹ mất khi em sinh ra, cả hai quen sống trong nhung lụa và được đáp ứng mọi nhu cầu, điều kiện vật chất đủ đầy, song lại vô cùng thiếu tình yêu thương. Còn Dickon, cậu bé quê mùa nghèo khổ, lại có một gia đình hạnh phúc và một bà mẹ tuyệt vời. Một cách nhẹ nhàng, tác giả đã cho ta thấy cái mà trẻ con nói riêng và con người nói chung cần nhất chính là tình yêu, với nhau và với môi trường xung quanh.

Tuy là một câu chuyện dành cho thiếu nhi, Khu vườn bí mật không hề giấu đi những mặt tối của cuộc sống, vẫn còn đó người mẹ xinh đẹp mỹ miều nhưng sẵn sàng bỏ mặc con cái vì nghĩ nó ảnh hưởng đến các thú vui của mình, vẫn còn đó một người cha đau khổ vì mất mát cá nhân mà không yêu thương đứa con tội nghiệp, rồi người bác sĩ đồng thời là chú họ e ngại đứa cháu hết đau ốm thì ông mất cơ hội thừa kế gia tài… Nhưng có điều cần lưu ý rằng, bất chấp tất cả, không có ai là nhân vật phản diện cực đoan . Những nết xấu của họ rất thường tình và đa số họ không ai mong điều xấu xảy đến với kẻ khác.

Những nhân vật sống động, một cốt truyện nhẹ nhàng đầy ý nghĩa trên nền cảnh thiên nhiên nước Anh tươi đẹp thực sự đã đem đến cho câu chuyện một bầu không khí xanh mướt như cỏ cây và ấm áp lòng người. Đây thực sự là một tác phẩm rất nên đọc vào những ngày chớm hè oi ả như vầy.

Khu vườn bí mật đã được dựng thành kịch, phim truyền hình, phim điện ảnh và phim họat hình. Bản phim năm 1993 quả thực rất đẹp.

Theo  chiemphong

------------------------------------------------------------------------------------------

Đọc "Khu vườn bí mật" - bâng khuâng trong hơi thở tuổi thơ


Khi gấp lại cuốn sách, mình vẫn ám ảnh bởi bức tường được phong kín bởi dây thường xuân, dây thường xuân lan tỏa, rủ xuống tạo thành tấm thảm rập rờn trong gió, mảng thường xuân ken dày che phủ cánh cửa gỗ mà đằng sau cánh cửa gỗ ọt ẹp đầy rêu phong đó là một khu vườn bí mật… Khu vườn bí mật nằm trong khuôn viên ngôi nhà bí mật. Bối cảnh của câu chuyện vào thế kỉ XIX của nước Anh…



Một tòa nhà cổ kính nguy nga có đến ngót trăm căn phòng mà hầu như đều đóng kín mít, một ngồi nhà nằm bên rìa cánh đồng hoang…
Một người đàn ông đứng tuổi, bề ngoài khắc khổ, có phần hơi kì dị nhưng cực kì giàu có là chủ nhân của tòa nhà đó. Ông ta từng có một cô vợ trẻ trung, xinh đẹp, vô tư như con chim ức đỏ vẫn cất tiếng hót cao vút vào những buổi sớm mai. Người đàn ông ấy yêu vợ đến mức có thể đi khắp thế giới chỉ để kiếm cho bà một nhánh cỏ mà bà muốn. Nhưng cuối cùng hạnh phúc không ở cùng ông ta, bà ta đã ra đi sau khi vừa sinh cho ông đứa con trai đầu lòng…


Craven, người đàn ông ấy thấy thế giới đổ ụp dưới chân mình, ông trở nên căm ghét sinh linh bé bỏng, mà theo ông đó là nguyên nhân gây nên cái chết cho người vợ yêu quí của mình. Càng ngày Colin càng giống mẹ, điều đó làm cho ông không thể chịu được. Ông hoang tưởng nghĩ rằng Colin sẽ không sống được bao lâu, nó sẽ tật nguyền và sẽ chết. Craven đã dành thời gian du lịch khắp thế giới mong vơi đi nỗi buồn đau mất mát nặng nề mà ông đã mang…
Thế nhưng Colin vẫn sống, lớn lên èo uột cùng với sự hoang tưởng mà chính cha mình và những gia nhân đã gán cho cậu. Colin luôn bị kích động, cậu chưa bao giờ đứng dậy đi ra khỏi giường, cậu rất sợ nắng trời, sợ gặp người khác. Và cách duy nhất mọi người trong nhà làm để tránh cơn cuồng nộ của cậu ta là đáp ứng mọi yêu sách của cậu ấy…



Nhưng Mary lại là nhân vật chính trong truyện, một cô bé Ấn Độ mười tuổi. Từ nhỏ Mary cũng là một tiểu thư kì quặc. Sống thiếu thốn sự chăm sóc và quan tâm của mẹ, Mary là một cô bé có tính cách trịch thượng và hỗn xược nhưng cũng rất mạnh mẽ, cá tính… Một trận dịch tả đã khiến Mary mồ côi cả cha lẫn mẹ và Mary được gởi tới Anh, Craven là người bảo hộ cho cô bé…
Sống trong tòa nhà mênh mông nhưng kì bí và yên lặng, Mary đã tự mình khám phá dần mọi chuyện. Từ khu vườn bí ẩn của bà chủ quá cố bỏ hoang hơn mười năm nay, đến việc tìm ra tiếng khóc lạ lùng thường phát ra trong đếm tối mà mọi gia nhân trong gia đình luôn muốn giấu nhẹm nó…



Việc tìm ra khu vườn bí mật thật sự là sự hồi sinh cho tâm hồn và thể xác của Mary. Khu vườn đã bỏ hoang hơn mười năm nhưng dưới sự hào hứng, riêng tư, yêu quí, cảm thấu đến tận tâm can của Mary và cậu bạn Dickon - khu vườn đã sống trở lại… Đó quả là nơi ngọt ngào và huyền bí nhất chưa ai có thể tưởng tượng nên… Mấy bức tường cao ngăn cách với bên ngoài phủ đầy những cành hồng, bãi cỏ xanh mơn mởn, mùi hương thoang thoảng ngọt ngào ấm áp... Đó là nơi những gì có màu xanh đang không ngớt tìm đường vươn lên trên mặt đất khi mùa xuân về. Những mầm xanh bật thành chồi xanh, rồi màu nâu của những chiếc lá non, rồi muôn vàn màu sắc từ hoa diên vĩ và loa kèn ngoi lên khỏi cỏ dại thành từng búi hoa… Những bụi nghệ tây đua nhau khoe những sắc vàng, da cam va tím… Khắp nơi xen lẫn trong những trảng cỏ xanh mướt là những vạt ly ly với sắc trắng và đỏ sẫm xen lẫn vào nhau… Còn trong các khoảng bóng râm trong vườn thì phủ đầy phi yến và thạch thảo. Đặc biệt là khu vườn tràn ngập màu sắc dịu dàng của hoa hồng, chúng đang mọc lên khỏi thảm cỏ, ôm lấy những thân cây để rồi buông chùng xuống đất, từng khóm, từng khòm tràn ngập khắp không gian khu vườn…



Chính khu vườn là nơi hồi sinh cho tâm hồn xơ xác của Mary, là phép màu cho cậu bé Colin trở lại cuộc sống bình thường. Và phải chăng chính khu vườn ấy còn vất vưởng đâu đó linh hồn của người thiếu phụ trẻ kêu gọi Craven hãy vứt sự đau buồn vô ích của mình để về sưởi ấm cho đứa con trai duy nhất…
Cả câu chuyện tràn đầy mùi hương mật ong và ánh nắng trong lành của mùa xuân... Đọc câu chuyện chợt thấy thèm được nằm dưới một bãi cỏ xanh rờn, ngẩng mặt nhìn bầu trời với những đám mây trắng trôi giống như những chú cừu hiền lành chậm rãi về nông trang sau một ngày dài; thèm để cho gió mơn man, vỗ về...


Đọc câu chuyện để nhớ rằng ngày xưa mình cũng có một khu vườn tuổi thơ, nơi ấy mình đã thẩn thơ đi tìm con búp bê nhỏ bé bị đánh mất… Đọc câu chuyện nhớ lại mảnh vườn quê nội, nơi ngọt lành nhất trong đời mình đã từng được sống… Đọc câu chuyện thấy mình đi xa với những giấc mơ thanh khiết và vô thường…

Nguồn :  http://yume.vn/tvb4ever/article/doc-khu-vuon-bi-mat-bang-khuang-trong-hoi-tho-tuoi-tho-35CC8A40.htm


Frances Hodgson Burnett
1849 - 1924

Đọc trực tuyến








 ------------------------------------------------------------------------------------------- 

 Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống. 

 Albert Einstein .


Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

NHỮNG CUỘC PHIÊU LƯU CỦA TOM SAWYER - MARK TWAIN .

NHỮNG CUỘC PHIÊU LƯU CỦA TOM SAWYER - MARK  TWAIN



Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

1. TÁC PHẨM .

Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer là một quyển tiểu thuyết được nhà văn Mark Twain viết với bút pháp độc đáo, miêu tả tâm lý, cử chỉ, hành động của một chú bé sống tại một ngôi làng nghèo bên sông Mississippi. Tác giả đã miêu tả xuất sắc tính cách, tâm lý, hành động của chú bé thông minh, nghịch ngợm nhưng dũng cảm và có một tấm lòng nhân hậu giàu tình nghĩa.

a. Cốt truyện .

Vào những năm 1840, cậu bé tinh nghịch và giàu trí tưởng tượng Tom Sawyer sống với người cô Polly và anh họ trong phố Mississippi River của St. Petersburg, Missouri. Sau khi trốn học vào ngày thứ sáu và làm bẩn quần áo mình khi đánh nhau, Tom bị phạt phải sơn hàng rào vào thứ bảy. Đầu tiên, Tom thất vọng vì bị mất ngày nghỉ. Tuy nhiên, sau đó cậu đã rất thông minh khi khuyến khích các bạn phải trao đổi rất nhiều "kho báu" để đổi lấy quyền được làm công việc của mình. Sau đó, cậu nhận ra rằng để làm cho ai đó ao ước một điều gì, chỉ cần làm nó khó có thể đạt được. Cậu đổi những "kho báu" mà mình đạt được bằng cách lừa các bạn sơn bằng những tấm vé để nghe kinh thánh vào ngày chủ nhật. Cậu nhận được đủ vé để vào nghe kinh thánh. Tuy nhiên, cậu để vuột mất vinh quang khi trả lời sai câu hỏi về các môn đệ của David và Goliath.

Tom yêu Becky Thatcher - một cô gái mới trong phố. Cậu khuyến khích cô có thể "đính hôn" với cậu chỉ bằng cách hôn mình. Becky hôn Tom. Nhưng tình yêu của họ sụp đổ khi Becky biết Tom trước đó đã "đính hôn" với một cô gái khác - Amy Lawrence. Một thời gian ngắn sau khi bị Becky xa lánh, Tom đồng hành cùng Huckleberry Finn - con trai của một kẻ say rượu - đến nghĩa địa vào đêm để thử tìm ra "phương thuốc" cho căn bệnh mụn cóc từ một con mèo chết. Tại nghĩa địa, họ chứng kiến vụ giết bác sĩ Robinson được thực hiện bởi một kẻ bản xứ Injun Joe. Quá sợ hãi, Tom và Huck đã chạy thục mạng và thề một lời thề máu không nói cho bất kì ai về những gì họ đã thấy. Injun Joe đã đổ tội cho Muff Potter - một kẻ say rượu không may - về tội ác trên. Tom rất lo lắng và cảm thấy tội lỗi. Tom, Huck và Joe Harper - một người bạn của Tom - chạy đến một hòn đảo để trở thành những tên cướp biển. Khi đang bơi và tận hưởng tự do mới mẻ, các cậu nhận ra mọi người đang tìm kiếm xác họ. Tom lẻn về nhà một đêm để quan sát các thay đổi. Sau một lúc hối hận về nỗi khổ của những người thân yêu, Tom nảy ra ý tưởng xuất hiện vào đám tang của chính mình để làm mọi người kinh ngạc. Cậu cũng bảo Joe và Huck làm như vậy. Sự trở lại của họ sẽ ngập tràn trong sự vui mừng. Họ sẽ trở thành người hùng và là sự ghen tị của các bạn.

Trở lại trường, Tom nhận được sự yêu mến của Becky vì đã nhận trách nhiệm cho cuốn sách mà cô xé rách. Ngay sau đó, Muff Potter ra tòa. Tom đã vượt qua nỗi sợ hãi và ra làm chứng chống lại Injun Joe. Muff Potter trắng án nhưng Injun trốn qua cửa sổ của tòa án.

Mùa hè đến, Tom và Huck đi tìm kho báu trong một ngôi nhà bị ma ám. Sau khi lên tầng trên, họ nghe thấy một tiếng động phía dưới. Nhìn xuống cái hố tầng dưới, họ thấy Injun Joe đang giả dạng là một người Tây Ban Nha điếc và mù. Hắn và một kẻ đồng lõa bù xù đang lên kế hoạch để chôn kho báu mà chúng đánh cắp. Từ chỗ ẩn nấp của mình, Tom và Huck thích thú với cái ý nghĩ đào nó lên. Trong một sự trùng hợp hiếm có, Tom và Huck đã đào được một hột một đầy vàng. Khi chúng thấy dụng cụ của Tom và Huck, chúng bắt đầu nghi ngờ rằng có ai đó đã chốn vào căn nhà và định đánh cắp kho báu của chúng thay vì chôn nó như chúng dự định.

Huck bắt đầu theo dõi Injun Joe mọi đêm, cố tìm cơ hội để chiếm được số vàng. Trong khi đó, Tom có chuyến picnic đến McDougal’s Cave với Becky và các bạn cùng lớp. Trong cùng một đêm, Huck thấy Injun Joe và kẻ đồng lõa đang loay hoay với một chiếc hộp. Cậu đi theo và chợt nghe thấy chúng đang lên kế hoạch tấn công Widow Douglas - một cư dân ở St. Petersburg. Huck chạy đi tìm kiếm sự giúp đỡ nhằm ngăn chặn tội ác và cậu trở thành một anh hùng vô danh.

Tom và Becky lạc trong hang và sự vắng mặt của họ không được phát hiện cho tới sáng hôm sau. Người trong phố đổ xô đi tìm họ nhưng không có tác dụng. Tom và Becky hết thức ăn và nến và dần dần yếu đi. Tình hình càng trở nên tồi tệ trong khi Tom tìm lối ra, cậu phát hiện Injun Joe cũng đang ở trong hang để ẩn nấp. Cuối cùng, ngay lúc những người tìm kiếm bỏ cuộc, Tom tìm được lối ra. Cả phố ăn mừng và cha của Becky, Judge Thatcher, khóa cái hang lại, để mặc cho Injun Joe đến chết.

Một tuần sau, Tom dẫn Huck đến cái hang và tìm thấy hộp chứa vàng. Tiền trong đó sẽ được chia cho họ. Widow Douglas nhận Huck làm con nuôi khi Huck cố gắng trốn khỏi cuộc sống văn minh. Tom hứa với cậu, cậu có thể gia nhập "băng cướp" của mình nếu Tom trở lại. Huck đồng ý một cách miễn cưỡng.

b. Chuyện bên lề .

Trong cuốn tự truyện của mình, Mark Twain cho rằng Tom Sawyer là tác phẩm đầu tiên của ông mà bản thảo được đánh máy. Tuy nhiên theo nhà sử học nghiên cứu về đánh máy Darryl Rehr, tác phẩm đầu tiên được đánh máy của Twain là Cuộc sống trên dòng sông Mississippi. [1]

c. Phim chuyển thể .

Cuốn tiểu thuyết đã được chuyển thể thành trên dưới 20 bộ phim của nhiều quốc gia, trong đó có ba bản phim nổi bật của Mỹ vào các năm 1938, 1973, 1995 (tựa đề Tom and Huck).

Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Những cuộc phiêu lưu của_Tom_Sawyer



2. TÁC GIẢ  MARK  TWAIN .

Mark Twain
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain; 30 tháng 11, 1835 – 21 tháng 4, 1910)[2] là một nhà văn khôi hài, tiểu thuyết gia và là nhà diễn thuyết nổi tiếng của Mỹ. Ông sinh ra vào chính ngày sao chổi Halley xuất hiện năm 1835 và mất đúng vào lần sao chổi xuất hiện lần sau, năm 1910.

a. Cuộc đời của Mark Twain.

Mark Twain là nhà văn khôi hài bậc nhất của Hoa Kỳ, là tiểu thuyết gia rất sáng tạo và hấp dẫn , nơi sinh của ông thuộc về miền đất được coi là trái tim của Hoa Kỳ, gần vùng biên giới và ngay tại bờ sông Mississippi và con sông lớn này đã nối hai miền bắc và nam.

Mark Twain có tên thật là Sam Langhorne Clemens, chào đời vào ngày 30 tháng 11 năm 1835 tại Florida, thuộc tiểu bang Missouri, và là đứa con thứ sáu trong bảy người con.Cha của Sam là ông John Marshall Clemens là một luật sư, đã rời khỏi tiểu bang Virginia để sang định cư tại Missouri còn bà mẹ Jane Lampton Clemens là người từ tiểu bang Kentucky. Cha mẹ ông gặp nhau khi cha ông dời đến sống ở Missouri và họ cưới nhau vào năm 1823.Đây là một gia đình không giàu có nhưng cho các con được sống tự do, thoải mái. Vào thời kỳ đó, cả hai tiểu bang Missouri và Kentucky đều là tiểu bang duy trì chế độ nô lệ. Năm 1821, Missouri được nhận vào Liên Bang Hoa Kỳ.

Khi lên 4 tuổi tức là vào năm 1839, gia đình của Sam Clemens dọn về Hannibal, Missouri , một thị trấn cảng nằm về phía tây trên bờ sông Mississippi. Hannibal cách thành phố lớn Saint Louis 120 dặm về phía bắc. Dân số của thị xã này vào khoảng 1.000 người, một nửa là nô lệ , và những người da đen nào không có đủ giấy tờ đều bị bắt. Nhiều người nô lệ da đen bị bán cho các đồn điền thuộc phía Nam trong các tiểu bang như Louisiana, Georgia… Sam Clemens trải qua tuổi trẻ tại thị xã Hannibal, đã từng bơi lội trên sông, chơi đùa trong các cánh rừng hay trên các hòn đảo của dòng sông và đọc các cuốn truyện phiêu lưu mạo hiểm.

Mississippi là một dòng sông rất lớn, nối miền bắc với các thành phố phía nam như Memphis và New Orleans, và do con sông Ohio hội nhập lại, người dân có thể đi tới Cincinnati và các thành phố khác thuộc miền đông. Từ các phong cảnh, kinh nghiệm và kỷ niệm với dòng sông này, tác giả Mark Twain đã viết ra nhiều tác phẩm nổi tiếng.

Năm 1847, người cha qua đời khi ông 11 tuổi, Sam Clemens tới học nghề với người anh tên là Orion, người này có một nhà in và một tờ báo. Vào thời bấy giờ, thợ in không phải là một nghề kiếm nhiều tiền, Sam đã từng đi làm công tại nhiều thành phố như Keokuk hay New York, đã mơ tới xứ Nam Mỹ để đi tìm vàng, mơ tới các cách làm giàu nhanh chóng.

Sam Clemens học nghề lái tàu với ông Horace Bixby vào năm 1857 và ông đã ưa thích nghề mới này hơn tất cả các nghề khác đã từng làm trước kia. Vào thời kỳ đó, thuyền trưởng lái tàu trên sông là  người thường đứng sau bánh lái với nhiều phong cảnh đẹp của dòng sông đã hiện ra trước mắt, thời gian khác nhau trong ngày lại có các cảnh trí khác nhau, với các khúc sông quanh co chứa nhiều phong cảnh thay đổi từ mùa này sang mùa khác. Các kinh nghiệm và kỷ niệm của quãng đời học nghề lái tàu này đã được tác giả Mark Twain mô tả trong cuốn truyện "Đời sống trên dòng sông Mississippi" (Life on the Mississippi). Sam Clemens lấy được bằng lái tàu trên sông vào năm 1859 nhưng rồi Nội chiến Hoa Kỳ đã xảy ra, khiến cho việc lưu thông trên sông Mississippi bị chấm dứt.

b. Các cuộc du hành .

Trong thời Nội Chiến, Sam Clemens đã tham gia vào Lực Lượng Quân Sự Miền Nam nhưng sau ba tuần lễ, đã đào ngũ, trốn đi theo học nghề thợ mỏ bạc tại tiểu bang Nebraska, rồi lang thang từ thị xã này qua thành phố kia và cuối cùng tới tiểu bang Nebraska, định cư tại thị xã Virginia City. Sam Clemens bắt đầu viết bài cho tờ báo Territorial Enterprise của thị xã này.

Vào năm 1863, Sam Clemens dùng bút hiệu "Mark Twain", có nghĩa là "sâu 2 tầm", nguyên do từ các kỷ niệm lái tàu trên dòng sông Mississippi. Sau lần cãi nhau với chủ bút tờ báo, Mark Twain rời Nebraska và dọn qua tiểu bang California vào mùa xuân năm 1864.Từ năm 1865, danh tiếng đã tới với Mark Twain sau khi ông cho xuất bản cuốn truyện "Con ếch hay nhảy của quận hạt Calaveras" (the Jumping Frog of Calaveras County). Khi công ty Tàu Thủy Thái Bình Dương (the Pacific Steamboat Company) khánh thành tuyến đường thủy giữa thành phố San Francisco và các hải đảo Hawaii, thời bấy giờ còn được gọi là các đảo Sandwich (the Sandwich Islands), Mark Twain được tờ báo The Sacramento Union phái đi làm phóng sự. Cùng một loạt bài châm chọc các du khách. Mark Twain đã đưa lối văn đàm thoại (colloquial speech) vào cách hành văn Mỹ và nhờ các truyện ngắn, ông đã nổi danh là một nhà viết văn khôi hài (humorist), chuyên chế giễu các phong tục, tập quán và các định chế của xã hội đương thời . Ông được xếp hạng cùng với các nhà văn như Bret Harte, Artemus Ward và Petroleum V. Nasby. Đây là các nhà văn rất nổi tiếng về các câu chuyện dân gian, viết bằng giọng văn có chứa đựng các thổ ngữ và nhiều chi tiết hài hước.

Năm 1867, Mark Twain thực hiện một chuyến du lịch qua châu Âu và  Đất Thánh Palestine bằng con tàu thủy mang tên Quaker City. Các bức thư kể về chuyến du lịch này, gửi cho tờ báo Alta California tại San Francisco và tờ  New York Tribune tại thành phố New York, được gom lại và xuất bản vào năm 1869 thành cuốn truyện "Các kẻ ngây thơ ở nước ngoài" (The Innocents Abroad). Qua cuốn này, Mark Twain đã chế giễu sự điên khùng của nhiều du khách Mỹ vì đã phải băng qua đại dương để đi coi các ngôi mộ của những người đã chết trong khi còn rất nhiều thứ đang sống, đáng coi hơn tại Hoa Kỳ. Mark Twain cũng viết về các cảnh nhìn thấy một cách khôi hài , về các tập quán nghịch lý của các quốc gia mà ông đã đi qua và so sánh với Hoa Kỳ là một đất nước sống động, đang phát triển, trái ngược với châu Âu là một miền đất đang thoái hóa, suy tàn. Những tác phẩm này đã khiến ông nổi tiếng và được nhiều người tôn trọng, đồng thời các nhà văn Miền Tây Hoa Kỳ không còn bị coi thường như trước kia.

c. Kết hôn .

Mark Twain kết hôn vào năm 1870 với  Olivia Langdon, thuộc một gia đình giàu có và danh giá. Các kỷ niệm và cách tán tỉnh người đẹp của thời kỳ này được lưu dấu trong các bức thư mà Mark Twain viết cho Olivia và cho các bạn của cô nàng, rồi về sau thể hiện qua lối ve vãn của Tom đối với Becky trong tác phẩm "Tom Sawyer". Sau đám cưới 5 năm, Mark Twain rời gia đình về thành phố Elmira, thuộc tiểu bang New York, rồi dọn sang cư ngụ tại thành phố Hartford thuộc tiểu bang Connecticut vào năm 1871. Tại nơi sau này đã ra đời các người con của Mark Twain: con trai Langdon chết non vào năm 1872 do bệnh bạch hầu lúc 19 tháng tuổi, sau đó là ba cô con gái Susy, Clara và Jean, chào đời trong các năm từ 1872 tới 1880.Vào năm 1874, gia đình Mark Twain dọn về một căn nhà sang trọng 19 phòng tại Hartford.

Tại thành phố Hartford, Mark Twain đã làm quen được một số nhân vật trong giới văn học, trong số này có William Dean Howells là một tác giả danh tiếng và chủ nhiệm của tờ nguyệt san "The Atlantic Monthly". Howells đã sớm nhận ra tài năng hài hước của Mark Twain, ông đã khuyến khích nhà văn trẻ này phát triển biệt tài đó bằng cách mời Mark Twain cố vấn và trợ giúp cho tờ nguyệt san Atlantic.


d. Khó khăn về tài chính .

Vào thập niên 1880, Mark Twain đã thành lập và điều hành một công ty xuất bản cho riêng mình cũng như tìm cách đầu tư vào vài phạm vi thương mại khác, đặc biệt là việc chế tạo máy in do người phát minh tên là Paige. Trong các năm từ 1881 tới 1894, Mark Twain đã lỗ vốn gần 200,000 mỹ kim đầu tư vào thứ máy in kể trên, vì các thay đổi về kiểu mẫu, đặc tính đã đưa tới thất bại. Tháng 4 năm 1894, công ty ấn loát của Mark Twain phải tuyên bố phá sản rồi từ tháng 1 năm 1895, danh tiếng nhà văn bị ảnh hưởng vì không trả được nợ. Nhưng sau đó ông đã tìm cách phục hồi tài sản bằng cách đi diễn thuyết, có khi thu được 1,000 đô la Mỹ mỗi lần , đã từng thực hiện nhiều chuyến đi được quảng cáo rầm rộ, tới cả các thành phố xa xôi thuộc Ấn Độ, Nam Mỹ và châu Úc. Mark Twain kết bạn với các nhân vật danh tiếng, giàu có như Andrew Carnegie, William Rockfeller và được trao tặng các văn bằng danh dự tại Đại học Yale vào năm 1901, Đại học Missouri vào năm 1902 và Đại học Oxford vào năm 1907. Tác giả Mark Twain là một nhân vật quốc tế, thường mặc bộ âu phục màu trắng mang vẻ phô trương, hút thuốc xì gà, với các bài nói chuyện hàm chứa nhiều chỉ trích xã hội một cách cay đắng và các bài văn này về sau được phổ biến qua các tác phẩm "Người ngồi trong bóng tối" (The Person sitting in the Darkness, 1901) và "Độc Thoại của Vua Leopold" (King Leopold 's Soliloquy, 1905).

Sau khi đã phục hồi được các vấn đề tài chính vào năm 1898, Mark Twain lại gặp các thảm cảnh trong đời sống gia đình. Người con gái lớn nhất Susy qua đời vào năm 1896 vì bệnh viêm màng não trong khi cha mẹ và em Clara đang ở nước ngoài. Năm 1903, Mark Twain bán đi ngôi nhà thân thương tại Hartford đầy những kỷ niệm về Susy. Tới ngày 5 tháng 6 năm 1904, bà vợ  Olivia cũng lìa đời vì bệnh tim rồi người con gái út tên là Jean, trước kia mắc bệnh kinh phong, cũng chết vào ngày 24 tháng 12 năm 1909.

Mặc dù các khó khăn tài chính và thảm cảnh gia đình trong các năm cuối đời, Mark Twain vẫn thu xếp để viết văn. Các tác phẩm cuối đời của ông gồm "Người Mỹ đòi quyền lợi" (The American Claimant, 1892) viết về một nhân vật không thực tế là đại tá Mulberry Sellers. Cuốn tiểu thuyết này được căn cứ vào vở kịch không thành công mà tác giả đã soạn ra cùng với nhà phê bình William Dean Howells vào năm 1883. Một tiểu thuyết trinh thám khác có tên là "Bi Kịch của Pudd'nhead Wilson" (The Tragedy of Pudd'nhead Wilson, 1894) bàn tới thành kiến chủng tộc (racial prejudice), một vấn đề quan trọng của xã hội Mỹ. "Nhớ về Joan of Arc" (Personal Recollections of Joan of Arc, 1896) là một cuốn tiểu sử (biography) dựa vào các tài liệu lịch sử. Mark Twain cũng kể lại những kinh nghiệm trong các chuyến đi diễn thuyết tại nước ngoài vào năm 1895, 1896 qua cuốn tiểu thuyết "Theo Đường Xích Đạo" (Following the Equator, 1897) trong khi cuốn truyện ngắn "Kẻ tham nhũng tại Hadleburg" (The Man that Corrupted Hadleburg, 1899) đã chế giễu các nhà lãnh đạo tự phụ của một thành phố. Các tác phẩm của Mark Twain càng về sau, càng mất dần tính khôi hài của thời tuổi trẻ và bộc lộ cách nhìn bi quan hơn do tác giả nghi ngờ các loại tôn giáo, do tác giả nhận ra các động lực chính của con người là lòng ích kỷ.

e. Qua đời .

Đại Văn Hào Mark Twain qua đời vì bệnh tim vào ngày 21 tháng 4 năm 1910, để lại nhiều bản thảo kể cả một cuốn tự thuật lớn và dở dang. Bản thảo của một tác phẩm bi quan xuất bản vào năm 1916 có tên là "Người xa lạ bí mật" (The Mysterious Stranger) đã mô tả cuộc viếng thăm của quỷ Sa Tăng tới một ngôi làng thuộc nước Áo vào thời Trung Cổ.

Dù cho thất vọng trước cuộc đời, Đại Văn Hào Mark Twain vẫn nổi danh là một nhà văn khôi hài bởi vì ông đã nhìn thấy trong các hình ảnh rực rỡ và lãng mạn của xã hội, các tập quán và định chế giả hiệu, có gian ý, và ông đã dùng cách diễn tả quá đáng một cách hữu hiệu để công kích các thói đạo đức giả, các thái độ tự mãn của người đời, các bất công của xã hội. Ngoài các tác phẩm đặc sắc, một trong các đóng góp lớn lao của Đại Văn Hào Mark Twain là cách hành văn đặc biệt Mỹ, khác hẳn lối viết văn của các tác giả người Anh. Mark Twain là một trong các nhà văn Mỹ hạng nhất, một bậc thầy về ngôn ngữ theo hình thức tiêu chuẩn, chứa đựng thứ tiếng địa phương của Miền Tây Hoa Kỳ. Thể văn buông lỏng (loose rhythm of the language) trong các tác phẩm của Mark Twain đã cho người đọc cảm giác về lời nói thực sự (real speech) và lối hành văn hiện thực này đã ảnh hưởng tới nhiều nhà văn Mỹ khác, khiến cho Đại Văn Hào Ernest Hemingway đã có lần xác nhận rằng: "Tất cả nền văn chương hiện đại của Hoa Kỳ bắt nguồn từ … Huckleberry Finn".

f. Sự nghiệp sáng tác  .

Mark Twain là một nhà văn trào phúng nổi tiếng của Mỹ. Những tác phẩm của ông, với tính chất châm biếm sâu sắc, với những nét miêu tả tâm lý xã hội cực kỳ khéo léo, đã trở thành những vũ khí sắc bén đấu tranh chống sự áp bức thống trị , nhất là chống cái chính sách dã man phân biệt chủng tộc đối với người da đen ở Mỹ.

Con đường đến với văn học của Twain đến nay vẫn không khỏi khiến người ta ngạc nhiên, khởi đầu bằng một tác phẩm hài hước có tựa đề "The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County" (Con ếch nhảy trứ danh ở Calaveras). Dù ngày nay đọc lại, tác phẩm đó không thể kiếm nổi của độc giả một nụ cười nhưng lúc bây giờ, "Con ếch nhảy..." đã giúp ông trở nên nổi tiếng chỉ sau một đêm. Tiếp đó là những chuyến ngao du khắp đất nước với những buổi nói chuyện trước những cử tọa chật kín, ông đã khiến khán giả cười vỡ bụng bằng khiếu nói chuyện hài hước và thông minh của mình.

Mark Twain đã đưa lối văn đàm thoại vào cách hành văn Mỹ và nhờ các truyện ngắn, ông đã nổi danh là một nhà viết văn khôi hài, chuyên chế giễu các phong tục, tập quán và các định chế của xã hội đương thời.

Trong 20 năm trường sống tại thành phố Hartford hay tại Quarry Farm gần thành phố Elmira, New York, Mark Twain đã viết rất nhiều và các bài viết được phổ biến qua các tạp chí văn học xuất bản tại hai thành phố Boston và New York.

Sau cuốn "Sống thiếu thốn" (Roughing It) kể về cuộc đời của một người thợ mỏ và một nhà báo, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Mark Twain là "Thời Kỳ Vàng Son" (The Gilded Age, 1873). Tác giả đã viết cuốn này chung với Charles Dudley Warner, một người bạn và một nhà văn sống tại Hartford. Cuốn "Thời Kỳ Vàng Son" nói về các thập niên sau Cuộc Nội Chiến qua đó tác giả châm chọc tính ích kỷ và các cách kiếm tiền phổ thông của thời bấy giờ.

"Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer" (The Adventures of Tom Sawyer, 1876) được coi là hồi ký của Mark Twain và tác giả mô tả Tom Sawyer, anh bạn Huck Finn và tên gian ác Injun Joe cũng như làng St. Petersburg nhờ các kỷ niệm sống tại Hannibal khi trước.

"Đi nước ngoài" (A Tramp Abroad, 1880) được viết ra từ chuyến du lịch châu Âu của tác giả vào năm 1878. Cuốn truyện này kể lại các chuyến đi qua các nước Đức, Thụy Sỹ và Ý và qua đó, tác giả đã pha trộn các truyền thuyết, chuyện kể, chuyện khôi hài và các nhân vật địa phương để chế giễu nhẹ nhàng các sách du lịch và nền văn hóa tại châu Âu.

"Hoàng Tử và kẻ nghèo" (The Prince and the Pauper, 1882) dùng khung cảnh nước Anh vào năm 1550, mô tả sự trao đổi nhân dạng giữa Hoàng Tử Edward-6 của nước Anh và đứa trẻ nghèo hèn tên là Tom Canty. Cuốn truyện này đã làm vừa lòng một số độc giả thuộc vùng Tân Anh Cát Lợi nhưng một số người khác lại bất mãn vì họ ưa thích loại truyện đã xuất bản trước kia.

"Đời sống trên dòng sông Mississippi" (Life on the Mississippi, 1883) mô tả về lịch sử, truyền thuyết, khung cảnh, con người của các con tàu thủy, của các thành phố dọc theo con sông Mississippi. Tác giả Mark Twain đã kể rõ về những ngày lái tàu của mình khi trước từ chương 4 tới chương 17. Các chương này trước kia đã được phổ biến trên tờ nguyệt san Atlantic vào năm 1875 qua loạt bài "Thời xưa trên dòng sông Mississippi" (Old Times on the Mississippi).

"Các cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn" (The Adventures of Huckleberry Finn) được coi là tác phẩm danh tiếng nhất của Mark Twain, được xuất bản tại nước Anh vào năm 1884 và Hoa Kỳ vào năm 1885, và là phần tiếp của cuốn "Tom Sawyer". Cuốn truyện này mô tả các cuộc phiêu lưu của hai đứa trẻ trốn nhà, là Huck Finn và một em nô lệ da đen tên là Jim. Tom Sawyer cũng xuất hiện lại trong một số chương với trò khôi hài cố hữu. Trong truyện, Mark Twain đã dùng thứ ngôn ngữ hiện thực (realistic language) thêm vào là nhiều loại thổ ngữ (dialects) làm cho sống động các nhân vật. Các lối hành xử thiếu đạo đức, lời nói vô hạnh nhất thời của nhân vật Huck Finn và cách dùng văn phạm thiếu thận trọng của tác giả trong tác phẩm, đã làm cho một số độc giả bất mãn. Thư viện công lập Free Public Library đã cấm cuốn truyện này vào năm 1885. Ngoài ra, một số độc giả còn phản đối Mark Twain vì cho rằng ông đã chấp nhận chế độ nô lệ, lời văn mang tính kỳ thị và đã dùng chữ "nigger" (kẻ nô lệ dơ bẩn). Thực ra đối với thời bấy giờ, Mark Twain là một người tiến bộ về vấn đề chủng tộc và các chủ đề sâu xa viết về Huckleberry Finn đã bàn tới sự bình đẳng căn bản và khát vọng toàn cầu của mọi người thuộc mọi chủng tộc.

Cuối cùng, tác phẩm "Người Mỹ trong Triều Đình của Vua Arthur" (A Connecticut Yankee in King Arthur's Court, 1889) đã trình bày một nhân vật khác nhiều màu sắc. Đây là người đốc công trong xưởng kim loại từ Hartford, Connecticut, tên là Hank Morgan. Nhờ quỷ thuật, Morgan thấy mình được sống tại nước Anh vào khoảng năm 500 sau Công nguyên, nên đã quyết định cải tổ xã hội Anh bằng cách đưa vào đó các lợi ích về kinh tế, tri thức và đạo đức của các năm 1800. Nhưng trước các cải cách và hoạt động từ thiện, đám đông quần chúng ngu dốt, cố vấn do giới Hiệp Sĩ và Tu Sĩ mê tín, đã nổi lên lật đổ Nhà Vua nước Anh. Qua các sự kiện xảy ra trong truyện, tác giả đã gián tiếp chế nhạo các thái độ tôn kính của một số tác giả đối với các Hiệp Sĩ Bàn Tròn, đồng thời Mark Twain cũng đưa ra một số câu hỏi về giá trị của nền văn hóa đương thời tại Hoa Kỳ.

g. Đánh giá về Mark Twain .

Với những tiểu thuyết đặc sắc và những nhân vật sống động cống hiến cho nền văn học Mỹ, Mark Twain xứng đáng là vì tinh tú đầu tiên của nền văn học hiện đại nước này. Mark Twain tên thật là Samuel Langhorne Clemens. Như một ngôi sao với thứ ánh sáng rực rỡ  ngang qua bầu trời, Mark Twain đến nay vẫn được coi là ngôi sao sáng nhất trong giới những người cầm bút trên văn đàn Mỹ. Trong cuốn tiểu sử mới nhất có tựa đề Mark Twain: a Life (Mark Twain - một cuộc đời), tác giả Ron Powers viết: "Mark Twain đã làm thay đổi cách nghe nhìn của người Mỹ, ông chính là một Lincoln trong văn học". Ông đã trả lại cho nước Mỹ ngôn ngữ và giọng điệu của con người bản xứ nước này, không phải bằng lối giễu nhại hay châm biếm mà bằng thứ văn học tinh tế và đầy chất hài hước. Bố mẹ Clemens là cư dân bang Virginia nhưng ông được sinh ra tại Florida, trong một gia cảnh khá chật vật, túng thiếu. Năm 1839, gia đình ông chuyển đến sống tại Hannibal, thành phố nhỏ nằm cạnh dòng sông Mississippi. Cha mất sớm, nhà văn tương lai phải bỏ học và theo nghề lái tàu kiếm sống. Khi cuộc nội chiến bùng nổ, nhà văn bỏ tàu, bỏ sông nước trôi dạt theo cuộc sống phiêu lưu ở những dãy núi miền Tây nước Mỹ. Nhưng những ngày tháng lênh đênh trên tàu đã để lại cho ông những ấn tượng sâu sắc, trở thành nguồn cảm hứng để nhà văn viết nên những kiệt tác như "Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer" (The Adventures of Tom Sawyer -1876), "Cuộc sống trên sông Mississippi" (Life on the Mississippi - 1883) và "Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn" (The Adventures of Huckleberry Finn - 1884). Những mỏ vàng, mỏ bạc ở miền viễn Tây đã quyến rũ giấc mơ làm giàu của Clemens nhưng vận may không mỉm cười với ông. Nhà văn tương lai rách rưới và bụi bặm đến nỗi khi đến nộp đơn xin làm phóng viên ở một tòa soạn báo, Clemens trông giống một tên ma cà bông hơn là một người có khả năng cầm bút. Sau khi đã định hình được một phong cách báo chí cho riêng mình, cái tên cúng cơm Samuel Clemens được đổi thành Mark Twain. Bút danh này xưa nay vẫn gây tranh cãi trong giới học giả nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn. Có hai giả thuyết chính. Giả thuyết thứ nhất cho rằng, Mark Twain có nghĩa là "mark two" - chỉ mực nước khoảng 2 sải (tương đương với 3,7m) - một thuật ngữ mà những người dò sông biển thường dùng để báo tin cho nhau, chỉ đường đi an toàn. Giả thuyết thứ hai giải thích, bút danh này bắt nguồn từ những ngày lang bạt kỳ hồ ở miền Tây của nhà văn. Lúc đó, ông thường vào quán, gọi liền hai cút rượu và bảo người phục vụ đánh dấu "Mark twain" vào hóa đơn của mình. Nhưng trong một tài liệu, nhà văn viết: "Người thuyền trưởng già, dù chẳng giỏi giang và hay chữ gì nhiều nhưng ông thường sử dụng ký tự MARK TWAIN để thông tin về tình hình sông nước. Những thông tin này cực kỳ chính xác và có giá trị, nó có nghĩa là an toàn, không nguy hiểm...". Con đường đến với văn học của Twain đến nay vẫn không khỏi khiến người ta ngạc nhiên, khởi đầu bằng một tác phẩm hài hước có tựa đề "The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County" (Con ếch nhảy trứ danh ở Calaveras). Dù ngày nay đọc lại, tác phẩm đó không thể kiếm nổi của độc giả một nụ cười nhưng lúc bây giờ, "Con ếch nhảy... " đã giúp ông trở nên nổi tiếng chỉ sau một đêm. Tiếp đó là những chuyến ngao du khắp đất nước với những buổi nói chuyện trước những cử tọa chật kín, ông đã khiến khán giả cười vỡ bụng bằng khiếu nói chuyện hài hước và thông minh của mình.

h.  Tác phẩm .

Sống thiếu thốn (Roughing It)
The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County and Other Sketches (1867)
Các kẻ ngây thơ ở nước ngoài (Innocents Abroad, 1869)
Thời kỳ vàng son (The Gilded Age, 1873).
Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer (The Adventures of Tom Sawyer, 1876)
Đi nước ngoài (A Tramp Abroad, 1880)
Hoàng tử và kẻ nghèo (The Prince and the Pauper, 1882)
Đời sống trên dòng sông Mississippi (Life on the Mississippi, 1883)
Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn (The Adventures of Huckleberry Finn, 1884)
Tên Yankee từ Connecticut trong triều đình vua Arthur (A Connecticut Yankee in King Arthur's Court, 1889)
Người ngồi trong bóng tối (The Person sitting in the Darkness, 1901)
Độc thoại của vua Leopold (King Leopold 's Soliloquy, 1905)
Người Mỹ đòi quyền lợi (The American Claimant, 1892)
Bi kịch của Pudd'nhead Wilson (The Tragedy of Pudd'nhead Wilson, 1894) b
Theo đường xích đạo (Following the Equator, 1897)
Kẻ tham nhũng tại Hadleburg (The Man that Corrupted Hadleburg, 1899)
Người xa lạ bí mật (The Mysterious Stranger, 1916)

Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Mark_Twain



















-------------------------------------------------------------------------------------------

 Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống.

 Albert Einstein .

Thứ Tư, 5 tháng 2, 2014

Xem phim ngày Tết - Mr BEAN .


Xem phim ngày Tết - Mr BEAN .










 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống.

 Albert Einstein .

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

Xem phim ngày Tết - Hài VIỆT .

Xem phim ngày Tết - Hài VIỆT .




























 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống. 

 Albert Einstein .

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Xem phim ngày Tết - TINTIN PHIÊU LƯU KÝ .


Xem phim ngày Tết -  
TINTIN  PHIÊU LƯU KÝ . 





Nguồn :  http://tv.zing.vn/nhung-cuoc-phieu-luu-cua-tintin-phan-1








---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------








---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------










---------------------------------------------------------------------------------------------








-------------------------------------------------------------------------------------------

Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống.  

Albert Einstein . 

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2014

Cuộc đời các danh nhân .

Cuộc đời các danh nhân .














































------------------------------------------------------------------------------------------- 

 Khoa học là một điều tuyệt vời khi không phải dùng nó để kiếm sống. 

 Albert Einstein .

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH - 2013

CÂU  CHUYỆN GIÁNG SINH 2013 *\* .


                    



* Xem phim . 



** Lịch sử các Thánh ca Giáng Sinh .

Nguồn gốc của ca khúc Giáng Sinh nổi tiếng Silent Night là một bài thơ viết năm 1816 bởi linh mục người Áo tên là Joseph Mohr. Vào đêm Giáng sinh năm 1818 tại ngôi làng nhỏ tên là Oberndorf thuộc một vùng núi xa xôi và hẻo lánh ,  Joseph Mohr đã gửi bài thơ của Silent Night (Stille Nacht) cho bạn ông là Franz Xavier Gruber để phổ nhạc theo lời bài thơ này . Người ta cho rằng khi đó cây đàn organ tại nhà thờ Thánh Nicholas bị vỡ , vì vậy phần nhạc của Silent Night được hoàn thành được dành cho đàn guitar trong thời gian cho Thánh lễ nửa đêm . Silent Night là ca khúc Giáng Sinh nổi tiếng nhất mọi thời đại!




 Silent night, holy night
All is calm, all is bright
Round yon Virgin Mother and Child
Holy Infant so tender and mild
Sleep in heavenly peace
Sleep in heavenly peace

Silent night, holy night!
Shepherds quake at the sight
Glories stream from heaven afar
Heavenly hosts sing Alleluia!
Christ, the Saviour is born
Christ, the Saviour is born

Silent night, holy night
Son of God, love's pure light
Radiant beams from Thy holy face
With the dawn of redeeming grace
Jesus, Lord, at Thy birth
Jesus, Lord, at Thy birth "



---------------------------------------------------------------------------------------------
Tác phẩm The First Noel không rõ nguồn gốc nhưng thường được cho là xuất xứ từ Anh quốc vào thế kỷ thứ mười sáu. Có một quan niệm sai lầm rằng The First Noel là bản tiếng Pháp và người ta tin rằng điều này là do phát âm Noel bằng tiếng Pháp trái ngược với tiếng Anh cổ Anglo-Saxon của từ Nowell. Sau khi nước Anh đã bị sáp nhập bởi người Norman rất nhiều từ tiếng Anh đã có liên hệ với tiếng Pháp-Norman và Noel đã được phát âm lại thành Nowell, phiên bản in đầu tiên của Thánh ca này sử dụng từ Nowell. The First Noel được xuất bản lần đầu vào năm 1833 khi nó xuất hiện trong cuốn "Thánh ca Giáng sinh cổ và hiện đại", là một tuyển tập các bài hát mừng được William B. Sandys thu thập và chọn lọc .





The first Noël
The angel did say
Was to certain poor shepherds
In fields as they lay

In fields where they
Lay keeping their sheep
On a cold winter's night
That was so deep

Noël, Noël, Noël, Noël
Born is the King of Israel

They looked, they looked up
And they saw a star
Shining in the east
Beyond them far

And to the earth it gave great light
So it continued both day and night

Noël, Noël, Noël, Noël
Born is the King of Israel
Noël, Noël, Noël, Noël
Born is the King, born is the King, born is the King of Israel


---------------------------------------------------------------------------------------------


Những từ ngữ và lời nhạc của Thánh ca cổ 'O Holy Night'  được Placide Cappeau de Roquemaure viết vào năm 1847. Cappeau bản thân là một người thương gia chuyên buôn bán rượu nhưng được linh mục giáo xứ yêu cầu viết một bài thơ cho Giáng sinh. Ông có nhiệm vụ viết ra những ca từ đẹp cho các bài hát phục vụ Thánh lễ  . Sau đó Cappeau nhận ra sự cần thiết phải có âm nhạc để phổ những ca từ này , ông đã gặp người bạn của mình là Adolphe Charles Adams (1803-1856). Ông đồng ý phổ nhạc cho các bài thơ vịnh vì thế 'O Holy Night'  được sáng tác bởi Adolphe Charles Adams . Adolphe cũng đã từng tham gia nhạc viện Paris và có một sự nghiệp rực rỡ như một nhà soạn nhạc.

Thánh ca 'O Holy Night'  đã được dịch sang tiếng Anh bởi John Sullivan Dwight (1812-1893).




O holy night! The stars are brightly shining,
It is the night of the dear Saviour's birth.
Long lay the world in sin and error pining.
Till He appeared and the Spirit felt its worth.
A thrill of hope the weary world rejoices,
For yonder breaks a new and glorious morn.
Fall on your knees! Oh, hear the angel voices!
O night divine, the night when Christ was born;
O night, O holy night, O night divine!
O night, O holy night, O night divine!

Led by the light of faith serenely beaming,
With glowing hearts by His cradle we stand.
O'er the world a star is sweetly gleaming,
Now come the wisemen from out of the Orient land.
The King of kings lay thus lowly manger;
In all our trials born to be our friends.
He knows our need, our weakness is no stranger,
Behold your King! Before him lowly bend!
Behold your King! Before him lowly bend!

Truly He taught us to love one another,
His law is love and His gospel is peace.
Chains he shall break, for the slave is our brother.
And in his name all oppression shall cease.
Sweet hymns of joy in grateful chorus raise we,
With all our hearts we praise His holy name.
Christ is the Lord! Then ever, ever praise we,
His power and glory ever more proclaim!
His power and glory ever more proclaim!


---------------------------------------------------------------------------------------------

Giám mục Phillips Brooks (1835-1903) giáo phận Philadelphia, viết  lời của Thánh ca O Little Town of Bethlehem vào năm 1868, sau một cuộc hành hương đến Đất Thánh Jerusalem . Phillips Brooks lấy cảm hứng từ cảnh quan xứ Bethlehem từ những ngọn đồi của Palestine , đặc biệt là vào ban đêm từ đó viết ra lời bài hát O Little Town of Bethlehem. Nhạc sĩ organ tại nhà thờ của ông là Lewis Redner (1831-1908) đã sáng tác giai điệu của bài hát O Little Town of Bethlehem cho dàn hợp xướng các em học sinh Trường chủ nhật .




O little town of Bethlehem
How still we see thee lie
Above thy deep and dreamless sleep
The silent stars go by
Yet in thy dark streets shineth
The everlasting Light
The hopes and fears of all the years
Are met in thee tonight

For Christ is born of Mary
And gathered all above
While mortals sleep, the angels keep
Their watch of wondering love
O morning stars together
Proclaim the holy birth
And praises sing to God the King
And Peace to men on earth

How silently, how silently
The wondrous gift is given!
So God imparts to human hearts
The blessings of His heaven.
No ear may hear His coming,
But in this world of sin,
Where meek souls will receive him still,
The dear Christ enters in.

O holy Child of Bethlehem
Descend to us, we pray
Cast out our sin and enter in
Be born to us today
We hear the Christmas angels
The great glad tidings tell
O come to us, abide with us
Our Lord Emmanuel



---------------------------------------------------------------------------------------------

Văn bản chính thức của Thánh ca 'Carol O Come All Ye Faithful ' ban đầu được viết bằng tiếng Latinh (có tựa là Adeste Fideles) và được dự định là một bài Thánh ca, được cho là của John Wade, một người Anh sáng tác . Giai điệu của O Come All Ye Faithful được sáng tác bởi người đồng hương Anh quốc John Reading vào đầu những năm 1700. Bản nhạc đã được xuất bản lần đầu trong một bộ sưu tập được gọi là "Cantus Diversi" năm 1751.

Năm 1841 Frederick Oakley được cho là đã thực hiện trên các bản dịch quen thuộc của O Come All Ye Faithful thay thế cho lời bài hát Latin cũ "Adeste Fideles".




O Come All Ye Faithful
Joyful and triumphant,
O come ye, O come ye to Bethlehem.
Come and behold Him,
Born the King of Angels;
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
Christ the Lord.

O Sing, choirs of angels,
Sing in exultation,
Sing all that hear in heaven God's holy word.
Give to our Father glory in the Highest;
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
Christ the Lord.

All Hail! Lord, we greet Thee,
Born this happy morning,
O Jesus! for evermore be Thy name adored.
Word of the Father, now in flesh appearing;
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
O come, let us adore Him,
Christ the Lord.
















*** Tìm hiểu thêm về Lịch sử các Thánh ca Giáng Sinh .

Silent Night - Christmas Carol VideoThe 12 Twelve Days of Christmas - Song VideoJingle Bells - Christmas Song Video
We Wish You A Merry Christmas - Song VideoAway in a Manger - Christmas Carol Video
Deck the Halls - Christmas Carol VideoOnce in Royal David's CityO Come all Ye Faithful - Christmas Carol
Auld Lang SyneO Christmas TreeO Holy Night
The First Noel - Christmas CarolO Come, O Come, EmmanuelGod Rest Ye Merry Gentlemen
Ding Dong Merrily on High - Christmas CarolO Little Town of BethlehemGood Christian Men Rejoice
It came upon the Midnight ClearGoood King Wenceslas - Christmas CarolThe Holly and the Ivy
I Saw Three ShipsChristians awake Salute the Happy MornJoy to the World
Herewe come a-wassailingGo Tell it on the Mountain
Hark the Herald Angels Sing - Christmas CarolWhile Shepherds WatchedWe Three Kings of Orient are
Angels from the Realms of GloryHymn for Christmas DayOnce in Royal David's City
Rudolph the Reindeer storyAve MariaChristmas Facts
See Amid the Winters SnowA Boy is Born in BethlehemLove came down at Christmas
Christmas is ComingChristmas Jokes VideoXmas Bible Quiz
Its Christmas Day - Christmas Carol VideoAll Through the NightHere Is Joy For Every Age
Santa Claus PoemAdvent Game




**** Xem phim hoạt hình .


Truy cập các đường dẫn dưới đây .

 A C B Christmas - tập 1

 A C B Christmas - tập 2



Truy cập các đường dẫn dưới đây .

MCC - tập 1

MCC - tập 2








 ------------------------------------------------------------------------------------------- 

Hướng Chân Thiện Mỹ 
Độc lập tư duy 
Hoài nghi hợp lý 
Tự do sáng tạo .

*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran