Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn cổ điển. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cổ điển. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2016

CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2016


CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2016

 































-------------------------------------------------------------------------------------------

-Bậc thềm tiến vào thánh đường của trí tuệ là biết sự ngu dốt của chính mình.

The doorstep to the temple of wisdom is a knowledge of our own ignorance.

Benjamin Franklin

Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH 2015 .


CÂU  CHUYỆN GIÁNG SINH 2015  */* .



     

                    




Lịch sử ngày lễ Giáng sinh .

Có một lịch sử lâu đời về các nghi lễ và kỳ nghỉ Giáng sinh mà những Cơ Đốc nhân ngày nay thường tiến hành theo tập quán nhưng thật ra đã trải qua một quá trình tiến hóa . Phong tục tặng quà, hát thánh ca , và ông già Noel Santa Claus từng là những biểu tượng rất xa xưa và là truyền thống lễ Giáng sinh , nhưng những điều đó đã không phải từng luôn luôn là một phần trong việc kỷ niệm ngày lễ. Trong thực tế, đã có một khoảng thời gian lễ Giáng sinh đã bị các nhà thờ cấm đoán . Vì vậy, làm thế nào mà chúng ta biết được rằng lễ Giáng sinh đã đến được với nhân loại như ngày nay ?

Ngảy đông chí .

Các tu sĩ của tôn giáo cổ Celt tổ chức lễ kỷ niệm mùa đông của họ vào ngày ngắn nhất trong năm (21 tháng 12 - ngảy đông chí ) khi họ đã trải qua những tháng mùa đông tồi tệ nhất và bắt đầu chờ đợi những giờ phút ban ngày dài hơn . Các linh mục Celtic sẽ cắt cây tầm gửi và chúc lành cho họ. Quả của cây tầm gửi là biểu tượng của cuộc sống trong những tháng mùa đông tối tăm.

Vào ngày đông chí La Mã, còn gọi là Saturnalia, những người đàn ông tham gia ăn mặc như phụ nữ còn giới chủ nhân ăn mặc như người hầu. Các cuộc diễu hành , trang hoàng nhà cửa với cây xanh , thắp nến , và tặng quà cho nhau là những nghi thức phổ biến . Họ tổ chức lễ mừng sao Thổ, được xem là vị thần của nông nghiệp trong hơn một tháng. Trong cùng khoảng thời gian họ sẽ ăn mừng lễ Juvenalia ,với mục đích tôn vinh thiếu nhi .

Ngày 25 tháng 12, người La Mã sẽ tôn vinh Mithra, thần mặt trời  bất khả chinh phục , được cho là sinh ra từ một tảng đá.

Thuật ngữ Yule đến từ chữ "houl", có nghĩa là bánh xe thay đổi theo thời tiết mùa vụ , theo truyền thống người Na uy ở Bắc Âu. Trong lễ kỷ niệm này, những người đàn ông sẽ mang về nhà những khúc gỗ lớn để đốt lửa trại . Họ sẽ dự tiệc và ăn mừng cho đến lúc lửa tàn - đôi khi kéo dài đến 12 ngày.

Mỗi tia lửa bắn ra có biểu tượng cho một con lợn hoặc con bê có thể được sinh ra trong năm mới.

Sự can thiệp của Đức Giáo Hoàng .

Vào thế kỷ thứ 4, Giáo hoàng Julius đệ I ra chỉ dụ rằng ngày 25 tháng 12 sẽ là ngày Giáng sinh, còn được gọi là Lễ Thánh đản . Trước khi có tuyên bố này, lễ Phục Sinh được xem là ngày lễ đầu tiên của Kitô giáo . Tuyên bố của Julius đệ I  là một nỗ lực của Giáo Hội nhằm mục đích Kitô hóa các thánh lễ ngoại giáo khác như Saturnalia - lễ thần mặt trời.

Thời trung cổ (400AD-1400AD)

Bắt đầu từ thời kỳ này mà ngày nay chúng ta có được 12 ngày lễ Giáng sinh, được tổ chức từ 25 Tháng mười hai  đến 6 Tháng một (lễ Hiển Linh).

Người ta giữ lại các truyền thống ngoại giáo như trang trí nhà cửa với cây xanh , tổ chức các lễ hội và biến thành một phần của truyền thống Giáng sinh bằng cách gán cho chúng ý nghĩa Kitô giáo.

Trước 529 AD, ngày 25 tháng 12 đã được công bố là một kỳ nghỉ dân sự, và 12 ngày của lễ Giáng sinh cũng đã được công bố bắt đầu từ năm 567 AD. Sự kiện này sau đó dẫn đến thuật ngữ "Twelfth Night" mà bất kỳ trẻ em Kitô giáo nào cũng biết rõ từ các bài  học về văn hào W. Shakespeare. Đêm thứ mười hai được tổ chức vào ngày 06 tháng 1, và là một ngày lễ lớn như Giáng sinh cho đến cuối những năm 1800.

Thế kỷ 17 - 18

Lễ Giáng sinh đã im lặng suốt trong thời gian này, khi các tấm gương khắt khe về đạo đức , sự tuân thủ nghiêm ngặt trong việc cầu nguyện và Kinh Thánh Tân Ước đã rất được coi trọng . Trước năm 1644, hoạt động Giáng sinh đã bị cấm ở Anh do có niềm tin cho rằng lễ Giáng sinh đã được liên kết quá chặt chẽ với những người ngoại giáo thờ thần mặt trời Saturnalia.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau cuộc Cách mạng Hoa Kỳ , những người Mỹ bắt đầu không chấp nhận các phong tục Anh quốc. Ngay cả lễ Giáng sinh cũng đã không được cử hành long trọng khi Quốc hội đang họp vào ngày 25 tháng 12 năm 1789.


Triều đại Victoria (1837-1901)

Chúng ta có thể cảm ơn những người ở thời đại này đã mang lại cho chúng ta lễ Giáng Sinh ngày nay. Tầng lớp trung lưu ở Anh và Mỹ  bắt đầu ăn mừng và lý tưởng hóa lễ Giáng sinh như chúng ta đã thấy trong các tiểu thuyết của triều đại này từ Irving đến Dickens. Các kỳ nghỉ không còn đại diện cho một lễ hội hóa trang hoang dã như trước kia nữa , mà đã hướng về sự bình an , gia đình, và những hoài niệm .

Ở thời kỳ này mọi người thường sử dụng các tấm thiệp ngày Valentines để trao tặng cho nhau và trang trí những cây Giáng sinh. Hầu hết các phong tục mới mẻ đã du nhập từ Mỹ. Trước năm 1870 lễ Giáng sinh đã được công bố là một ngày lễ liên bang tại Hoa Kỳ.

Lễ Giáng sinh thời hiện đại

Ngày nay lễ Giáng sinh được tổ chức trên toàn thế giới. Trong khi trước đây các quan điểm của Giáo Hội lo lắng rằng việc cử hành Giáng sinh đã quá gắn liền với nghi lễ ngoại giáo , thì bây giờ sự lo lắng lại hướng về tính chất quá thương mại hóa và thế tục hóa. Tuy nhiên, với sự trung dung, thật dễ nhớ rằng đây là một ngày để ăn mừng ngày sinh của Chúa cứu thế đồng thời cũng để kỷ niệm những gì Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện - tình yêu dành cho nhau .


Trần hồng Cơ
Nguồn  http://christianteens.about.com/od/christianholidays/a/ChristmasHistor.htm






** Đọc Kinh Thánh 

https://www.bible.com/vi/bible/151/luk.2



https://www.bible.com/vi/videos





* Nhạc Giáng sinh .




























** Xem phim hay mùa Giáng sinh .















Đức Tin Trầm Lặng

Chàng thợ mộc trẻ mang tên Giô-sép, đối với tôi, cũng là một ngôi sao sáng điểm tô cho khung trời đêm giáng sinh thêm lấp lánh, dù Thánh Kinh chẳng ghi lại một lời nói nào của chàng. Tôi không dám có sự phân biệt hồ đồ trong lãnh vực đức tin, nhưng nếu so với nhiều đức tin nổi bật, thì đây lại là một đức tin trầm lặng, không nói ra thì chẳng ai biết. Một con người rất bình thường, với một đức tin rất bình thường, lại có một chỗ trong chương trình lớn của Đức Chúa Trời tiến hành cho cả nhân loại.

Đó là một người được giáo dục trong môi trường đức tin để có một đời sống với cách hành xử hòa bình đáng khâm phục. Câu 19 của Phúc Âm đoạn 1 này viết: “Giô-sép chồng người, là người có nghĩa, chẳng muốn cho người mang xấu, bèn toan đem để nhẹm”. Chàng không những là “con cháu Đa-vít” nhưng là một hậu bối biết kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời để yêu người lân cận như yêu chính mình. Đứng trước một biến cố kín giấu, đến thời điểm đó chỉ có Ma-ri và chàng trao đổi với nhau, trên nền tảng đức tin trầm lặng, Giô-sép đã có một quyết định không phải ai cũng có thể chấp nhận. Đó là cách tốt nhất chàng có thể làm cho người mà chàng thương yêu, với tâm trạng chưa biết nhiều về kế hoạch huyền nhiệm của Chúa Giê-hô-va; cho đến khi gặp thiên sứ của Chúa trong giấc chiêm bao, lắng nghe lời giải trình trực tiếp ơn cứu rỗi mà bấy lâu nay chàng chỉ được truyền dạy qua các lời tiên tri.

Lời tiên tri được ban truyền từ xa xưa trong quá khứ được thiên sứ của Chúa nhắc lại cho Giô-sép với những giải thích rõ ràng, với mệnh lệnh chuẩn xác, với trọng trách được chỉ định trong bảo đảm tuyệt đối. Tất cả xua tan đi mối nghi ngờ rối rắm trong lòng Giô-sép, chàng nhìn biết nhiệm vụ mà Chúa Giê-hô-va đặt trên vai mình; và tình yêu dành cho Ma-ri đã thoát ra khỏi đám mây mù phiền muộn, lại tiếp tục rạng rỡ trong con tim trầm lặng. Không còn thắc mắc, chẳng cần phải hỏi han thêm, đức tin trầm lặng đó đã được Lời của Chúa khai phóng, Giô-sép ghi nhận không sót một lời những gì Chúa phán với chàng qua giấc chiêm bao đêm đó. Đức tin của Giô-sép đã được nâng lên, chàng chấp nhận dấn thân vì Danh Chúa Em-ma-nu-ên.

“Khi Giô-sép thức dậy rồi, thì làm y như lời thiên sứ của Chúa đã dặn, mà đem vợ về với mình; song không hề ăn ở với cho đến khi người sanh một trai, thì đặt tên là Jêsus” (câu 24, 25). Không giải thích, không một chút khoe khoang, chẳng cần thêm ý kiến hay kêu gọi một sự ủng hộ nào khác, chàng trai trẻ với một đức tin trầm lặng đã thuận phục theo ý Chúa để làm trọn mọi điều Chúa giao phó. Đức tin trầm lặng đi những bước trưởng thành, không còn làm theo ý mình cho là phải, nhưng hết lòng hết sức hết ý làm theo ý muốn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời Chí Nhân Chí Ái. Không còn là thể hiện tình yêu theo cảm tính, nhưng mặc lấy tình yêu thương từ thiên thượng để sống và nuôi dưỡng Tình Yêu.

Đức tin trầm lặng cũng có chỗ trong công việc nhà Chúa.

M. Jeudi

Nguồn  http://www.about.com/religion/topic/ChristmasOrgins
https://www.wordproject.org/bibles/vt/23/9.htm
http://www.vietchristian.com/vanpham/reader.asp?vcid=5,2004



------------------------------------------------------------------------------------------- 

-Bậc thềm tiến vào thánh đường của trí tuệ là biết sự ngu dốt của chính mình. 

The doorstep to the temple of wisdom is a knowledge of our own ignorance. 

Benjamin Franklin

Thứ Bảy, 12 tháng 12, 2015

Pablo Picasso và trường phái hội họa lập thể - Cubism .


Pablo Picasso và trường phái hội họa lập thể - Cubism .

 


Pablo Ruiz Picasso (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881, mất ngày 8 tháng 4 năm 1973), thường được biết tới với tên Pablo Picasso hay Picasso là một họa sĩ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha. Tên đầy đủ của ông là Pablo Diego José Francisco de Paula Juan Nepomuceno María de los Remedios Cipriano de la Santísima Trinidad Clito Ruiz y Picasso . Picasso được coi là một trong những nghệ sĩ nổi bật nhất của thế kỷ 20, ông cùng với Georges Braque là hai người sáng lập trường phái lập thể trong hội họa và điêu khắc.Ông là một trong 10 họa sĩ vĩ đại nhất trong top 200 nghệ sĩ tạo hình lớn nhất thế giới thế kỷ 20 do tạp chí The Times, Anh, công bố.

Tiểu sử

Pablo Picasso sinh năm 1881 tại Málaga, miền nam Tây Ban Nha. Picasso là con đầu lòng của ông José Ruiz y Blasco và bà María Picasso y López. Ông được đặt tên thánh là Pablo, Diego, José, Francisco de Paula, Juan Nepomuceno, Maria de los Remedios và Cipriano de la Santísima Trinidad.

Ngay từ khi còn nhỏ, Picasso đã bộc lộ sự say mê và năng khiếu trong lĩnh vực hội họa, theo mẹ ông kể lại thì từ đầu tiên mà cậu bé Pablo nói được chính là "piz", cách nói tắt của từ "lápiz", trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là bút chì. Cha của Picasso là một họa sĩ chuyên vẽ chim theo trường phái hiện thực, ông José còn là một giảng viên nghệ thuật và phụ trách bảo tàng địa phương, trường Mỹ thuật công nghệ tạo hình của Barcelona. Vì vậy, Picasso có được những bài học đầu tiên về nghệ thuật chính từ cha mình.

Vào Học viện mỹ thuật (Academia de San Fernando) tại Madrid được chưa đầy một năm, năm 1900 Picasso đã bỏ học để sang Paris, trung tâm nghệ thuật của Châu Âu thời kỳ đó. Tại thủ đô nước Pháp, ông sống cùng Max Jacob, một nhà báo và nhà thơ, người đã giúp Pablo học tiếng Pháp. Đây là giai đoạn khó khăn của người họa sĩ trẻ khi ông phải sống trong cảnh nghèo túng, lạnh lẽo và đôi khi tuyệt vọng, phần lớn tác phẩm của Pablo đã phải đốt để sưởi ấm cho căn phòng nhỏ của hai người. Năm 1901, cùng với người bạn Soler, Picasso đã thành lập tờ tạp chí Arte Joven ở Madrid. Số đầu tiên của tạp chí hoàn toàn do Pablo minh họa.

Trong những năm đầu của thế kỉ 20, Picasso thường xuyên qua lại giữa hai thành phố Barcelona và Paris. Tại Paris, Picasso kết bạn với rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng ở khu Montmartre và Montparnasse, trong đó có người sáng lập trường phái siêu thực André Breton, nhà thơ Guillaume Apollinaire và nhà văn Gertrude Stein. Năm 1911, Picasso và Apollinaire thậm chí đã từng bị bắt giữ vì bị nghi ăn trộm bức tranh Mona Lisa khỏi Bảo tàng Louvre nhưng cuối cùng hai người cũng được tha vì vô tội.

Đời tư

Năm 1904, ông bắt đầu mối quan hệ lâu dài với Fernande Olivier, người phụ nữ xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm Thời kỳ Hồng của họa sĩ. Thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Hồng vì đây là thời kỳ ông toàn dùng màu hồng nhạt mềm mại để làm nền tranh cho mình, thời kỳ Hồng của ông được tồn tại trong 3 năm. Sau khi bắt đầu nổi tiếng và trở nên giàu có, Picasso đã bỏ Olivier để quan hệ với Marcelle Humbert mà ông gọi đơn giản là Eva, chủ đề của rất nhiều bức tranh theo trường phái lập thể của ông. Sau đó ông còn đi lại với nhiều người phụ nữ khác mặc dù đã có vợ và con. Picasso đã hai lần làm đám cưới và ông có bốn đứa con với ba người phụ nữ. Năm 1918, họa sĩ cưới cô Olga Khokhlova, một nữ diễn viên ba lê của đoàn ba lê Sergei Diaghilev mà Picasso đã từng nhận trang trí cho họ vở Parade ở Roma. Khokhlova đã giới thiệu Picasso với tầng lớp trên của nước Pháp trong những buổi tiệc tùng và gặp gỡ của những người giàu có ở Paris trong thập niên 1920. Hai người cũng có với nhau một đứa con, Paulo,sau này trở thành một tay đua xe phóng đãng và là tài xế cho chính họa sĩ. Cuộc hôn nhân giữa Picasso và Khokhlova nhanh chóng chấm dứt, tuy vậy trên danh nghĩa hai người chỉ ly thân cho đến tận khi Khokhlova qua đời năm 1955 vì theo luật pháp Pháp, Picasso sẽ phải chia đôi tài sản cho vợ nếu chính thức ly dị. Năm 1927 Picasso gặp cô gái 17 tuổi Marie-Thérèse Walter và bắt đầu đi lại bí mật với cô. Với Marie-Thérèse, Picasso cũng có một người con gái, Maia. Marie-Thérèse luôn sống với hy vọng hão huyền rằng người họa sĩ nổi tiếng sẽ lấy cô làm vợ và cô đã treo cổ tự vẫn bốn năm sau cái chết của Picasso. Nhà nhiếp ảnh và họa sĩ Dora Maar cũng là một người tình lâu năm của Picasso, hai người đặc biệt gắn bó trong giai đoạn cuối thập niên 1930 và đầu thập niên 1940.

Sau khi Paris được giải phóng năm 1944, lúc đó ở tuổi 63, Picasso bắt đầu quan hệ với một sinh viên nghệ thuật trẻ là Françoise Gilot. Françoise và Picasso có chung với nhau hai đứa con, Claude và Paloma. Khác với những người tình khác của họa sĩ, chính Françoise là người rời bỏ Pablo năm 1953. Đây là một cú sốc với Picasso, ông nghĩ rằng mình đã già và trở nên kỳ cục trong mắt phụ nữ, Một vài tác phẩm của ông thời kỳ cuối đã khai thác đề tài này khi miêu tả một người lùn già nua gớm ghiếc đối lập với một cô gái trẻ đẹp. Tuy vậy không lâu sau người họa sĩ cũng tìm được một người tình khác, đó là Jacqueline Roque. Roque làm việc tại xưởng gốm Madoura, nơi Picasso thực hiện các tác phẩm bằng gốm của ông. Hai người duy trì mối quan hệ suốt phần đời còn lại của Picasso, họ cưới nhau năm 1961. Đám cưới này cũng là một sự trả thù của họa sĩ đối với người tình cũ Gilot. Gilot khi đó đang tìm cách hợp pháp hóa quan hệ cha con của Picasso với Claude và Paloma. Được Picasso thúc đẩy, cô đã sắp đặt việc ly dị với chồng là Luc Simon để cưới Picasso, qua đó bảo vệ quyền lợi cho con chung của hai người. Tuy nhiên Picasso đã bí mật làm đám cưới với Roque ngay sau khi Gilot hoàn thành thủ tục ly hôn, họa sĩ coi đây là sự trả thù của ông với việc Gilot đã rời bỏ mình năm 1953.

Pablo Picasso từ trần ngày 8 tháng 4 năm 1973 tại Mougins, Pháp, trong khi ông cùng bà Jacqueline đang chủ trì một buổi tiệc với bạn bè. Tác phẩm ông để lại gồm có 1800 bức tranh sơn dầu, 3 vạn bản tranh, 7000 bức ký họa phác thảo và có khá nhiều tác phẩm khó hiểu. Picasso được an táng tại công viên Vauvenargues ở Vauvenargues, Bouches-du-Rhône. Jacqueline Roque đã ngăn cản hai đứa con của ông là Claude và Paloma tham gia tang lễ cha mình.


Xu hướng chính trị

Picasso tỏ ra trung lập trong suốt Thế chiến thứ nhất, Nội chiến Tây Ban Nha và Thế chiến thứ hai, họa sĩ từ chối ủng hộ bất cứ bên tham chiến nào. Trong Nội chiến Tây Ban Nha, tuy thể hiện sự phẫn nộ và phản đối chế độ của tướng Francisco Franco và chủ nghĩa phát xít qua các tác phẩm của mình, Picasso không hề cầm vũ khí chống lại chế độ này.

Năm 1944, Picasso gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tham gia một hội nghị hòa bình quốc tế tổ chức ở Ba Lan. Năm 1950, họa sĩ được nhận Giải thưởng hòa bình Stalin của chính phủ Liên Xô[10]. Năm 1962, ông được nhận một giải thưởng lớn khác của nhà nước Xô viết, đó là Giải thưởng hòa bình Lenin.

Tác phẩm

Các tác phẩm của Picasso thường được phân loại theo các thời kỳ khác nhau. Tuy rằng tên gọi các thời kỳ sáng tác sau này của họa sĩ còn gây nhiều tranh cãi, người ta phần lớn đều chấp nhận cách phân chia thời kỳ đầu sáng tác của Picasso thành Thời kỳ Xanh (1901–1904), Thời kỳ Hồng (1904–1906), Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu - điêu khắc (1908–1909), Thời kỳ Lập thể phân tích (1909–1912) và Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919).

Trước 1901





Picasso bắt đầu tập vẽ dưới sự hướng dẫn của cha ông từ năm 1890. Sự tiến bộ trong kỹ thuật của họa sĩ có thể thấy trong bộ sưu tập các tác phẩm thời kì đầu ở Bảo tàng Museu Picasso tại Barcelona. Có thể thấy chủ nghĩa hiện thực hàn lâm trong các tác phẩm thời kì đầu này, tiêu biểu là bức The First Communion (1896). Cũng năm 1896, khi mới 14 tuổi, Picasso đã hoàn thành tác phẩm Portrait of Aunt Pepa (Chân dung dì Pepa), một bức chân dung gây ấn tượng sâu sắc đến mức Juan-Eduardo Cirlot đã đánh giá rằng "không nghi ngờ gì nữa, đây là một trong những tác phẩm lớn nhất trong lịch sử hội họa Tây Ban Nha".

Năm 1897, chủ nghĩa hiện thực của Picasso bắt đầu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, thể hiện qua một loạt các bức tranh phong cảnh sử dụng tông màu xanh lá cây và tím không tự nhiên.







Thời kỳ Xanh (1901–1904)

Trong thời kỳ này, tác phẩm của Picasso có tông màu tối hơn với màu chủ đạo là xanh thẫm, đôi khi được làm ấm hơn bởi các màu khác. Mốc bắt đầu của Thời kỳ Xanh không rõ ràng, nó có thể bắt đầu từ mùa xuân năm 1901 ở Tây Ban Nha, hoặc ở Paris nửa cuối năm đó. Có lẽ cách dùng màu của họa sĩ chịu ảnh hưởng từ chuyến đi xuyên Tây Ban Nha và sự tự sát của người bạn Carlos Casagemas.

Thời kỳ Hồng (1905–1907)

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/a/a8/Autoportrait_%C3%A0_la_palette.jpg/240px-Autoportrait_%C3%A0_la_palette.jpg

Các tác phẩm của Picasso trong giai đoạn này mang vẻ tươi tắn hơn với việc sử dụng nhiều màu cam và hồng. Năm 1904 tại Paris, Picasso gặp Fernande Olivier, một người mẫu cho các họa sĩ và nhà điêu khắc, rất nhiều tác phẩm của ông trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ nồng ấm giữa hai người.

Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu (1908–1909)

Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu bắt đầu với tác phẩm nổi tiếng Những cô nàng ở Avignon (Les Demoiselles d'Avignon) lấy cảm hứng từ những đồ tạo tác Phi châu. Ông cho rằng mọi loại nghệ thuật phải tự học được cái hay của nhau. Ông chọn châu Phi làm cản hứng của mình bởi tính Lập thể rõ ràng của nó.



Thời kỳ Lập thể phân tích (1909–1912)
Chủ nghĩa Lập thể phân tích là phong cách vẽ mà Picasso đã phát triển cùng Georges Braque theo đó sử dụng những màu đơn sắc ngả nâu cho các tác phẩm. Các vật thể sẽ được hai họa sĩ tách thành những bộ phận riêng biệt và "phân tích" chúng theo hình dạng bộ phận này.



Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919)

Đây là sự phát triển chủ nghĩa lập thể của Picasso với việc sử dụng nghệ thuật cắt dán bằng các chất liệu vải, giấy báo, giấy dán tường để mô tả đề tài tĩnh vật và nhân vật.

Chủ nghĩa cổ điển và siêu thực

Sau Thế chiến thứ nhất, Picasso bắt đầu thực hiện các tác phẩm theo trường phái tân cổ điển (neoclassicism). Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Picasso, bức Guernica đã được sáng tác trong thời kì này. Bức tranh mô tả cuộc ném bom vào Guernica của phát xít Đức trong Nội chiến Tây Ban Nha.




Giai đoạn sau

Tác phẩm điêu khắc của Picasso tại Chicago
Picasso là một trong 250 nhà điêu khắc tham gia Triển lãm điêu khắc quốc tế lần thứ 3 tổ chức tại Bảo tàng mỹ thuật Philadelphia vào mùa hè năm 1949.

Trong thập niên 1950, họa sĩ một lần nữa thay đổi phong cách sáng tác, ông thực hiện các bức tranh dựa trên phong cách của các bậc thầy cổ điển như Diego Velázquez, Goya, Poussin, Édouard Manet, Courbet và Delacroix.

Di sản

Khi Picasso qua đời, rất nhiều tác phẩm do họa sĩ sáng tác vẫn thuộc quyền sở hữu của ông vì Picasso cảm thấy không cần thiết phải bán chúng. Thêm vào đó, ông còn có một bộ sưu tập rất giá trị các tác phẩm của những họa sĩ yêu thích như Henri Matisse. Vì Picasso không để lại di chúc, một phần bộ sưu tập này được dùng để trả thuế cho chính phủ Pháp và nó được trưng bày tại Bảo tàng Musée Picasso tại Paris. Năm 2003, những người thân của họa sĩ đã cho khánh thành một bảo tàng tại thành phố quê hương ông, Málaga, đó là Bảo tàng Museo Picasso Málaga.

Picasso có vài bức tranh nằm trong danh sách những tác phẩm nghệ thuật đắt giá nhất thế giới:

    Bức "Nude on a black armchair" - được bán với giá 45,1 triệu USD năm 1999.
    Bức Les Noces de Pierrette - được bán với giá hơn 51 triệu USD năm 1999.
    Bức Garçon à la pipe - được bán với giá 104 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's ngày 4 tháng 5 năm 2004 đã lập kỉ lục thế giới về giá cho một tác phẩm nghệ thuật.
    Bức Dora Maar au Chat - được bán với giá 95,2 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's ngày 3 tháng 5 năm 2006.


 Nguồn
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pablo_Picasso













------------------------------------------------------------------------------------------- 

-Bậc thềm tiến vào thánh đường của trí tuệ là biết sự ngu dốt của chính mình. 

The doorstep to the temple of wisdom is a knowledge of our own ignorance. 

Benjamin Franklin

Thứ Tư, 8 tháng 7, 2015

DẠ KHÚC - SERENADE - FRANZ SCHUBERT

DẠ KHÚC - SERENADE - 
FRANZ SCHUBERT






DẠ KHÚC 

   
 Ta đợi chờ em ,
trong màn đêm hiu quạnh
Tiếng cung đàn ,
dìu dặt họa lời thơ 
Làn gió thoảng ,
đưa hương bên lầu vắng
Réo rắt khúc ca , từ những nẻo xa mờ

Chim muông giao hòa -
điệu tình ca muôn thuở
Ríu rít lao xao - như hơi thở thầm thì
Vang từ xa xăm ,
bao lời ta đắm đuối
Của một người
ôm tha thiết mối tình si

Trên cành lá 

gió xạc xào lời hát
Như tim ta 

rộn rã biết yêu người
Gió hãy mang
những tâm sự  khúc nôi
Em có hay chăng 

mối tình ta câm nín

Đừng e ấp than van
khi nụ yêu đang chín .
Trái tim này luôn 

nồng cháy nỗi hân hoan ,
Xin yêu người muôn kiếp với thời gian
Thì xin mãi không rời xa nhau nhé .

Khi trái tim biết yêu ,
Nỗi han hoan trần thế .
Tôi vẫn mong chờ
chờ em mãi người ơi .



Đêm khuya tôi lắng nghe dạ khúc
Trần hồng Cơ
28/07/2015



** Lời gốc tiếng Đức -  Ständchen

    Leise flehen meine Lieder

    Durch die Nacht zu dir;

    In den stillen Hain hernieder,

    Liebchen, komm zu mir!

    Flüsternd schlanke Wipfel rauschen

    In des Mondes Licht;

    Des Verräters feindlich Lauschen

    Fürchte, Holde, nicht.

    Hörst die Nachtigallen schlagen?

    Ach! sie flehen dich,

    Mit der Töne süßen Klagen

    Flehen sie für mich.

    Sie verstehn des Busens Sehnen,

    Kennen Liebesschmerz,

    Rühren mit den Silbertönen

    Jedes weiche Herz.

    Laß auch dir die Brust bewegen,

    Liebchen, höre mich!

    Bebend harr' ich dir entgegen!

    Komm, beglücke mich!


https://www.youtube.com/watch?v=ZpA0l2WB86E








Bản Dạ khúc của Franz Schubert (tiếng Đức: Ständchen) được viết lời bởi Ludwig Rellstab. Bản này có số thứ tự 4, nằm trong quyển 1 của tập Schwanengesang (Bài ca thiên nga). Đây là tuyển tập bài hát được sưu tầm sau khi tác giả Schubert qua đời, trong danh sách tác phẩm của nhà soạn nhạc nó có số thứ tự D 957. Franz Liszt là người sau này đã chuyển thể các tác phẩm trong tập Schwanengesang cho độc tấu piano.

Dạ khúc (Serenade) là một thể loại ca khúc để hát vào buổi tối, đặc biệt cho giọng nữ. Ở phương Tây thể loại ca khúc này gọi là "Serenade" và nó rất được nhiều nhạc sĩ ưa chuộng, sáng tác... cho nên Dạ khúc không chỉ riêng một tác phẩm riêng biệt của một nhạc sĩ nào cả. Nhiều nhạc sĩ đã sáng tác trên chủ đề này, nhưng có lẽ được biết đến và ưa chuộng nhiều nhất (cho mãi đến ngày hôm nay)[cần dẫn nguồn] vẫn là Serenade của nhạc sĩ thiên tài người Áo Franz Schubert.

Franz Schubert chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi 31 năm nhưng đã kịp để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ ở nhiều thể loại. Schubert còn được mệnh danh là "Vua Lied" vì ông sáng tác rất nhiều lied (số nhiều: Lieder), theo tiếng Đức nghĩa là đoản ca, có giá trị. Có lẽ lied của Schubert được nhiều người yêu thích nhất[cần dẫn nguồn] là lied có tên "Ständchen" này. "Ständchen" đã được dịch sang rất nhiều ngôn ngữ và được chuyển soạn cho nhiều nhạc cụ khác chơi dưới cái tên "Serenade" và cái tên phổ biến nhất là "Serenade của Schubert"

http://garry.holding.pagesperso-orange.fr/schubert/img/titres/maintitle.jpg
http://garry.holding.pagesperso-orange.fr/schubert/img/titres/maintitle.jpg


Bài Dạ Khúc bất hủ mà Franz Schubert sáng tác là để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu trộm nhớ. Ở châu Âu ngay từ thời trung cổ các chàng trai thường có lối tỏ tình bằng cách mượn âm nhạc, ban đêm đến đứng dưới cửa lầu "người đẹp" tự thể hiện bằng tiếng đàn và giọng hát của chính mình. Những bài nhạc lãng mạn này gọi là "serenade". Serenade thời Trung cổ và Phục hưng được biểu diễn không theo một hình thức đặc biệt nào, ngoại trừ nó được một người hát tự đệm bằng nhạc cụ có thể mang theo được (guitar, mandolin...).

Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ một bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng, Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái tim cho Schubert.

http://www.naxos.com/SharedFiles/Images/Composers/Pictures/21172-2.jpg
http://www.naxos.com/SharedFiles/Images/Composers/Pictures/21172-2.jpg


Những lời nỉ non, thổn thức của ca từ quyện với một giai điệu lãng mạn, quyến rũ, bản Dạ Khúc Schubert là một thông điệp tình yêu chuyển tải bẳng âm nhạc tuyệt vời, một bài lied hoàn hảo cho kẻ tỏ tình trong đêm.

Nhưng hơn thế, nhạc phẩm "Dạ Khúc" của Schubert là một bức tranh toàn bích, sâu lắng... mang dáng dấp hơi thở không chỉ của thời đại ông mà của muôn mọi thời đại. Nhạc sỹ thiên tài đã nói lên tiếng lòng mình trong thời khắc đêm về, ngoài niềm khắc khoải thường tình về tình yêu đôi lứa, còn như thân phận con người nhỏ nhoi đầy bất trắc trước mênh mông vũ trụ. Bài nhạc có giai điệu rất đẹp, trữ tình, lai láng nhưng không trầm mặc, buồn nhưng vẫn phảng phất đâu đó niềm hy vọng và hoài bão hướng thiện (tác dụng bởi việc chuyển cung từ thứ sang trưởng ở đoạn kết). Schubert như nói lên tiếng lòng của muôn người, muôn thế hệ...

Trong lời dịch của ông, nhạc sỹ Phạm Duy đã cố gắng phác thảo tất cả những cung bậc trải nghiệm hết sức tinh tế về cảm xúc mà giai điệu bản Serenade khơi gợi nơi người thính giả. Lời dịch của ông tuy hy sinh sự chính xác của ngôn từ nhưng giàu tính thẩm mỹ của cảm nhận âm nhạc, một cảm nhận ông muốn hướng dẫn người thưởng ngoạn cũng cảm nhận như ông.







Franz Schubert
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Franz Peter Schubert (31 tháng 1 năm 1797 - 19 tháng 11 năm 1828) là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông đã sáng tác 600 Lieder, 9 bản giao hưởng trong đó có bản giao hưởng nổi tiếng "Unfinished Symphony" cùng các thể loại nhạc nghi lễ, nhạc thính phòng và solo piano. Ông được biết đến với các tác phẩm có giai điệu nhẹ nhàng và du dương.

Dù Schubert có khá nhiều người bạn ngưỡng mộ các nhạc phẩm của ông (như thầy giáo của ông Antonio Salieri, và ca sĩ nổi tiếng Johann Michael Vogl), tuy nhiên âm nhạc của Schubert thời đó không được thừa nhận rộng rãi nếu không muốn nói là rất hạn chế. Schubert chưa bao giờ đảm bảo được một công việc ổn định và thường xuyên phải nhờ đến sự ủng hộ của bạn bè và gia đình trong phần lớn sự nghiệp.

Schubert mất sớm, năm 31 tuổi, do hậu quả của bệnh thương hàn là thứ bệnh không chữa được thời đó. Vài thập kỷ sau khi Schubert qua đời, các tác phẩm của ông mới khẳng định được tên tuổi của mình, một phần nhờ công lao phổ biến của các nhạc sĩ cùng thời như Franz Liszt, Robert Schumann, Felix Mendelssohn.

Franz Schubert


Tiểu sử

Franz Peter Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Viên, nước Áo. Bố ông, Franz Theodor Schubert, là thầy giáo nổi tiếng trong giáo khu, mẹ ông là người hầu của một gia đình giàu có trước khi lấy bố ông. Ông là một trong số 14 người con trong gia đình mà phần lớn đều chết yểu. Bố Schubert cũng là một nhạc sĩ, tuy không nổi danh nhưng là người thầy đầu tiên truyền dạy cho Schubert những hiểu biết về âm nhạc.

Schubert bắt đầu được cha dạy nhạc khi lên 5, một năm sau ông theo học trường Himmelpfortgrund và bắt đầu chính thức theo học âm nhạc. Năm 7 tuổi ông học với Michael Holzer, nhạc công organ và trường dàn đồng ca của nhà thờ địa phương.

Năm 1808 ông vào trường Stadtkonvikt với suất học bổng trong dàn đồng ca. Tại đây ông bắt đầu làm quen với các bản overture và giao hưởng của Mozart. Cùng thời gian đó ông còn thỉnh thoảng đến xem các vở opera, làm quen với các tác phẩm của các nhạc sĩ khác kém quan trọng hơn. Tất cả cá điều này tạo nên nền tảng âm nhạc vững chắc trong ông. Tại trường Stadtkonvikt ông cũng tạo dựng các mối quan hệ mà sau này sẽ cùng ông đi hết cuộc đời.

Thỉnh thoảng Schubert được giao chỉ huy dàn nhạc, Antonio Salieri, nhạc sĩ đối thủ của Mozart, cũng là nhạc sĩ hàng đầu đương thời bắt đầu chú ý đến tài năng trẻ, bỏ công đào tạo Schubert về lí thuyết âm nhạc và kĩ năng sáng tác. Thể loại nhạc thính phòng ghi dấu đặc biệt trong giai đoạn này, bản thân gia đình Schubert đã là một dàn nhạc thính phòng 5 người thường xuyên trình tấu với nhau trong các dịp lễ và các ngày chủ nhật. Trong thời gian ở Stadtkonvikt ông cũng kịp sáng tác nhiều tác phẩm thính phòng, một số ca khúc nghệ thuật, và bản giao hưởng số 1.

Cuối năm 1813, ông rời Stadtkonvikt trở về quê học làm thầy giáo. Năm 1814 ông trở thành giáo viên tại trường của bố ông. Ông cũng tiếp tục học với Salieri cho đến năm 1817.

Năm 1814, ông làm quen với Therese Grob, con của một nhà sản xuất lụa trong vùng đồng thời là một ca sĩ soprano đã trình tấu một số tác phẩm của ông như Salve Regina, Tantum Ergo, Mass in F. Mối quan hệ tình cảm cũng phát triển phức tạp và có nhiều khả năng Schubert muốn kết hôn với Grob nhưng vì nhiều lí do sự việc đã không thành. Năm 1816 ông gửi Grob một tập tác phẩm mà gia đình bà còn giữ đến đầu thế kỉ 20.

Năm 1815 là năm Schubert tập trung vào sáng tác, ông viết đến 9 tác phẩm cho nhà thờ, 140 ca khúc nghệ thuật (lieder), một bản giao hưởng.

Phong cách sáng tác

Giai đoạn Âm nhạc Cổ điển - Trường phái cổ điển Vienna (1730 -1820) khép lại với những tên tuổi lừng lẫy như Haydn, Mozart, Beethoven để mở ra một giai đoạn mới - giai đoạn Âm nhạc Lãng mạn (1800 - 1910) Những nhà soạn nhạc thời kì Lãng mạn thường lấy cảm hứng từ văn học, hội họa hay từ những nguồn ngoài thế giới âm nhạc. Vì vậy, âm nhạc chương trình được phát triển rất mạnh mẽ và dẫn đến sự ra đời của thể loại thơ giao hưởng.Các bài thơ trong thế kỉ 18 và 19 là cơ sở đề hình thành nên các bài hát nghệ thuật mà trong đó các nhà soạn nhạc dùng âm nhạc để khắc họa hình ảnh và tâm trạng của lời ca. Sự huy hoàng của âm nhạc lãng mạn lan toả suốt thế kỷ XIX với rất nhiều nhà soạn nhạc ưu tú như Mendelssohn, Schumann, Chopin, Liszt hay Tchaikovsky nhưng trong đó người khai phá và là "nhân vật vĩ đại" đầu tiên chính là Franz Schubert. Schubert sáng tác đủ các thể loại âm nhạc: giao hưởng, Sonat, nhạc thính phòng, bài hát. Schubert là người đầu tiên đưa bài hát đến tầm khái quát cao, đồng thời giữ được vẻ tự nhiên ban đầu của nó. Schubert trở nên bất tử qua 600 bài hát mà ông sáng tác (nên giao hưởng và opera của ông bị khuất lấp, bị rơi vào lãng quên lúc sinh thời). Sau khi Schubert qua đời, các tác phẩm của ông mới khẳng định được tên tuổi của mình, một phần nhờ công lao phổ biến của các nhạc sĩ cùng thời như Franz Liszt, Robert Schumann, Felix Mendelssohn. Schubert được coi là ánh bình minh của chủ nghĩa lãng mạn trong âm nhạc Ông được xếp vào hàng các nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của nhân loại.

Tham khảo
Liên kết ngoài

    The Best of Schubert
    The Best of Schubert
    Franz Schubert: Ave Maria
    F. Schubert - Serenade
    F. Schubert - Moment Musical Op.94 (D.780) No.3 in F Minor - Alfred Brendel
    Schubert: Unfinished Symphony No.8
    Franz Schubert - Trout Quintet: Tema Con Variazioni

Xem thêm

    Nhạc phẩm "Dạ khúc"




Schubert, Franz
Franz Schubert (1797-1828)

Ngày 09:09 18/10/2011


 “Khi tôi muốn ca hát về tình yêu thì tình yêu lại biến thành đau khổ, nhưng khi tôi chỉ muốn hát về đau khổ thì đau khổ lại hoá thành tình yêu.” - Franz Schubert
 Sự phát triển của con người và xã hội luôn liên tục và âm nhạc cũng không đứng ngoài qui luật đó. Bối cảnh lịch sử những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX tại châu Âu có những biến động đáng kể tạo nên những thay đổi lớn về chính trị, kinh tế và nghệ thuật. Hoà mình vào dòng chảy đó, âm nhạc cổ điển cũng có những chuyển mình cho phù hợp với qui luật tự nhiên. Giai đoạn Cổ điển Vienna khép lại với những tên tuổi lừng lẫy như Haydn, Mozart, Beethoven để mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn Lãng mạn mà sự huy hoàng của nó lan toả suốt thế kỷ XIX với rất nhiều nhà soạn nhạc ưu tú như Mendelssohn, Schumann, Chopin, Liszt hay Tchaikovsky nhưng trong đó người khai phá và là “nhân vật vĩ đại” đầu tiên chính là Franz Schubert.
 Franz Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Himmelpfortgrund, một làng nhỏ ở ngoại ô Vienna trong một gia đình có nguồn gốc Bohemia. Cha của Schubert là một thầy giáo làng chơi được violin và cello, mẹ ông vốn là đầu bếp. Cha mẹ Schubert có cả thảy 15 người con nhưng 10 người trong số họ đã chết ngay từ khi còn nhỏ, chỉ còn lại 5 người. Schubert có 3 người anh trai Ignaz (1785), Ferdinand (1794), Karl (1796) và một cô em gái Theresia (1801). Chính người cha và anh trai Ignaz đã dạy cho Schubert những bài học âm nhạc đầu tiên.
 Lớn lên trong một gia đình mà mọi thành viên đều có niềm đam mê âm nhạc lớn lao nhưng lại có nền kinh tế tỷ lệ nghịch với niềm đam mê đó, thời thơ ấu của Schubert là những chuỗi ngày ông không thể nào quên cho đến cuối cuộc đời. Luôn sống trong cảnh nghèo đói, những kí ức tuổi thơ buồn bã thường xuyên xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm của Schubert sau này. Năm 1804, khi mới 7 tuổi, Schubert được gửi tới nhà thờ Lichtenthal ở Vienna để học chơi đàn organ. Năm 1808, để gia đình giảm bớt một miệng ăn, Schubert tới học ở trường nội trú Convict nơi có nhà soạn nhạc nổi tiếng Antonio Saliari - người cùng thời với Mozart làm hiệu trưởng. Tuy được miễn hoàn toàn học phí cũng như tiền ăn, tiền trọ nhưng cuộc sống hà khắc nơi đây thật quá sức chịu đựng của một cậu bé mới 10 tuổi. Trong thời gian 5 năm sống tại đây, Schubert còn phải chịu đựng sự ghẻ lạnh của những người bạn học vốn là con của những gia đình giàu có. Cũng trong thời gian này, Schubert ban đầu chơi ở bè violin 2 sau đó chuyển lên bè violin 1 trong dàn nhạc của trường. Những sáng tác đầu tiên của cậu bé cũng bắt đầu xuất hiện trong đó nổi tiếng nhất là bản Fantasia cho 2 Piano (1810).
 Rời truờng nội trú năm 16 tuổi, để san sẻ gánh nặng cho gia đình, Schubert định đi đăng lính nhưng vì cận thị quá nặng, bị quân đội từ chối, ông đành nghe theo lời cha đi làm thầy giáo tại Annegasse. Tuy công việc khá nhàm chán không làm thoả mãn nhà soạn nhạc trẻ vốn đầy hoài bão, ước mơ nhưng vì thực tế cuộc sống Schubert đành phải tạm bằng lòng với bản thân. Trong thời gian 3 năm dạy học, Schubert đã sáng tác được 2 tứ tấu đàn dây, những bản giao hưởng đầu tiên, một vài Piano sonata, Mass số 1 giọng Fa trưởng. Tác phẩm Mass số 1 giọng Pha trưởng lần đầu tiên được vang lên vào tháng 10 năm 1814 tại nhà thờ Lichtenthan với giọng hát chính do ca sĩ trẻ Therese Grob đảm nhiệm, người mà Schubert đem lòng yêu mến. Sau này Schubert đã ngỏ lời cầu hôn nhưng bị gia đình cô gái từ chối và từ đó Schubert luôn mang trong mình vết thương lòng sâu sắc cũng như không bao giờ nghĩ đến chuyện lấy vợ nữa.
 Thời gian này các tác phẩm của Schubert xuất hiện với số lượng thật đáng kinh ngạc. Năm 1814, Schubert hoàn thành vở opera đầu tiên Des Teufels Lustschloss D.84 cũng như 17 lied trong đó có những bài nổi tiếng như “Der Taucher” D.77/111 hay “Gretchen am Spinnrade” D.118 (dựa theo thơ của Goethe). Một năm sau, 145 lied và 4 vở opera khác ra đời, những con số thật ấn tượng. Có cảm giác không phải Schubert sáng tác mà những bài hát tuôn trào dưới tay ông như một dòng thác.
 Schubert chuyển đến dạy học tại trường Laibach ở Slovenia vào năm 1816. Hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng được ông sáng tác vào thời gian này. Tiêu biểu có các lied “Erlkonig” (Chúa rừng), “Gesange des Harfners”, giao hưởng số 4 “Tragic” giọng Đô thứ D.417, giao hưởng số 5 giọng Si giáng trưởng D.485. Tháng 6 năm 1816, Schubert bắt tay vào viết bản cantata “Prometheus”.
 Một năm trước đó, trong một lần đến thăm Linz, Schubert gặp Franz von Schober - một chàng trai trẻ rất đáng mến và họ trở thành những người bạn thân nhất của nhau. Là con một gia đình khá giả, chính Schober là người giúp đỡ Schubert nhiệt tình nhất trong cuộc sống sau này. Nghe theo lời khuyên của Schober, Schubert đã rời bỏ nghề dạy học để thành một nhà soạn nhạc tự do, điều mà Schubert luôn khao khát. Năm 1817, trở lại Vienna thời gian đầu, Schubert sống tại nhà của Schober. Tại đây Schubert gặp Johann Michael Vogl, giọng nam trung nổi tiếng nhất Vienna thời bấy giờ. Sự cộng tác giữa họ đã tạo nên những buổi hoà nhạc rất ấn tượng thu hút được nhiều sự chú ý mà công chúng Vienna hồi đó gọi là Schubertiaden. Tuy nhiên điều này cũng không che giấu được thực tế là chàng trai 20 tuổi Franz Schubert vẫn rất khó khăn trong việc khẳng định vị trí của mình. Các nhà xuất bản chỉ trả cho Schubert những khoản nhuận bút rất thấp khi in ấn các tác phẩm của ông và Schubert vẫn phải ở nhờ nhà bạn.
 Với bản tính vui vẻ, thích giao thiệp Schubert kết giao được rất nhiều bạn bè và một người trong số đó Anselm Huttenbrenner đã giới thiệu ông đến làm việc tại lâu đài của công tước Esterhazy - nơi mà Haydn vĩ đại đã từng sống. Thời gian đầu tại đây Schubert còn cảm thấy hạnh phúc nhưng dần dần nỗi buồn xâm chiếm ông và trong vòng chưa đầy một năm ông đã trở về Vienna.
 Mùa hè năm 1819, một niềm vui nhỏ đến với Schubert. Trong chuyến lưu diễn cùng với Vogl tại Upper, Áo, các lied của ông được đón giới yêu âm nhạc nơi đây rất yêu thích trong đó nổi bật có lied “Die Forelle” (Cá hồi) và Ngũ tấu Piano giọng La trưởng D.667 còn có tên khác là Ngũ tấu “Cá hồi”. Năm 1820, Schubert hoàn thành Piano Sonata giọng La trưởng, D.664, tác phẩm thính phòng xuất sắc Tứ tấu đàn dây giọng Đô thứ Quartettsatz D.703, âm nhạc cho vở kịch Die Zauberharfe D.64 và vở opera Die Zwillingsbrüder D.647.
 Lúc này Schubert đã trở nên nổi tiếng nhưng sự nghèo khó vẫn không chịu buông tha ông. Các nhà xuất bản chỉ chịu trả cho Schubert những khoản tiền ít ỏi để in những tác phẩm của ông. Thường xuyên phải nhịn đói, đã có lần để đổi lấy một bữa ăn Schubert phải sáng tác một bài hát tặng ông chủ quán.
 Năm 1822 sự nghiệp âm nhạc của Schubert có một bước ngoặt vĩ đại. Ông sáng tác bản giao hưởng số 8 giọng Si thứ “Bỏ dở” D.759 nổi tiếng. Không hiểu vì lý do gì bản giao hưởng chỉ có 2 chương thay vì 4 chương như thông thường. Nếu như những tác phẩm được sáng tác trong thời gian đầu của Schubert còn mang hơi hướng của trường phái cổ điển Vienna thì đến bản giao hưởng này đã cho thấy một ngôn ngữ thể hiện hoàn toàn khác vượt qua những qui tắc khắt khe, chặt chẽ để đến với những sáng tạo, tìm tòi mới tạo lập nên một trường phái mới: Trường phái lãng mạn mà sau này đã lan rộng ra khắp châu Âu trong suốt thế kỷ XIX trong đó Franz Schubert chính là “người vĩ đại đầu tiên”. Tổng phổ tác phẩm này bị thất lạc trong hơn 60 năm kể từ ngày được Schubert viết chỉ được tìm thấy một cách tình cờ trong ngăn kéo tại nhà Anselm Huttenbrenner. Cùng trong năm 1822 này, Schubert hoàn thành bản Mass giọng La giáng trưởng D.678 và tác phẩm nổi tiếng Wanderer fantasy cho Piano D760 (sau này Liszt đã phối khí lại cho Piano và dàn nhạc). Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì bản nhạc này dựa trên lied “Der Wanderer” của Schubert.
 Toàn bộ các sáng tác của Schubert đều mang đậm màu sắc trữ tình, trữ tình đến mức nhiều nhà phê bình sau này không lý giải được và họ phải thốt lên: “chất trữ tình đầy đậm đà như mặt nước của con sông Rhein trôi êm đềm”. Phải chăng cuộc sống nghèo khổ lại là nguồn cảm hứng bất tận và âm nhạc là người bạn sẻ chia mọi nỗi buồn đau?
 Năm 1823, vở opera Rosamude, furstin von Cypern (Rosamude, hoàng tử đảo Cyprus) và tập bài hát đầu tiên Die Schöne Müllerin D. 795 (Con gái ông chủ cối xay xinh đẹp) dựa theo thơ của Wilhelm Müller ra đời. Các tác phẩm của Schubert luôn xuất hiện với số lượng đáng kinh ngạc cho thấy ông quả là một con người thật phi thường. Một năm sau, Schubert sáng tác 2 bản Tứ tấu đàn dây giọng La thứ và Rê thứ “Death and the maiden” (Thần chết và trinh nữ) cũng như Octet giọng Fa trưởng D.803. Trong lần trở lại nhà công tuớc Esterhazy để dạy học cho 2 con gái của công tước, ông viết “Divertissement a l'Hongroise” D.818 sau khi bị những giai điệu dân ca Hungary chinh phục. Thời gian này, đời sống của Schubert có khá hơn nhưng ông lại có những nỗi bực bội khác. Trong một bức thư cho bạn, Schubert viết: “Tôi cảm thấy rất mệt mỏi. Sự tự do của tôi đang bị đánh cắp. Tôi sẽ trở về và không bao giờ quay trở lại đây nữa”. Schubert là như vây, luôn coi trọng tự do và không để những việc đời thường làm ảnh hưởng đến công việc sáng tác của mình.
 Trong thời kỳ mà sự ổn định tạm thời về kinh tế xen lẫn với sự suy sụp về sức khoẻ, Schubert vẫn không ngừng sáng tác, âm nhạc đối với ông như một niềm an ủi. Từ năm 1825 đến 1826, hàng loạt các tác phẩm quan trọng ra đời như Piano Sonata giọng La thứ, Op. 42; giọng Rê trưởng, Op. 53 và bản giao hưởng cuối cùng của ông bản giao hưởng số 9 giọng Đô trưởng (the Great) D.944. Bản nhạc này cũng bị thất lạc như bản số 8 nhưng được Robert Schumann tìm thấy vào năm 1839 trong đống giấy tờ còn sót lại của Schubert. Mendelssohn đã lần đầu tiên chỉ huy bản giao hưởng này nhân dịp kỷ niệm mười năm ngày mất của Schubert.
 Năm 1827, Beethoven - người mà Schubert luôn kính phục trong suốt cuộc đời mất. Như dự báo được số phận của mình, Schubert lao vào sáng tác như để chạy đua với thời gian. Tập bài hát thứ 2 Winterreise D. 911 (Hành trình mùa đông) cũng dựa theo thơ của Müller ra đời và cùng với tập thứ nhất là những viên ngọc vô giá trong kho tàng thanh nhạc của nhân loại. Bốn Impromtu cho piano, D.899, Trio giọng Si giáng trưởng và Fantasia cho violin và piano, D934 ra đời trong thời gian này cũng là những tác phẩm ưu tú.
 Mười bốn lied trong tập liên khúc thứ 3 và cũng là tập cuối cùng Schwanengesang D.957 (Bài ca thiên nga) được Schubert viết vào năm 1828. Sáu bài trong số đó là dựa vào thơ của Heinrich Heine. Các tác phẩm cuối cùng của Schubert là 3 Piano Sonata cuối cùng cũng như Ngũ tấu cho dàn dây giọng Đô trưởng D.956 cho 2 violin, viola và 2 cello.
 Giữa lúc sức sáng tạo đang dồi dào nhất, sức khoẻ của Schubert ngày càng trở nên xấu hơn. Ông luôn phải vật lôn với căn bệnh thương hàn và do chữa bệnh bằng thuỷ ngân (cách chữa bệnh phổ thông thời đó) nên bệnh tình ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Schubert bị suy sụp hoàn toàn vào tháng 10 năm 1828 sau khi trở về Vienna từ Eisentadt, nơi ông đi thăm mộ của Haydn. Trong bức thư cuối cùng Schubert viết cho Schober ngày 12 tháng 11, ông đã thể hiện sự tuyệt vọng của mình: “Tôi đang ốm. Mười một ngày nay tôi hầu như không ăn uống được gì. Tôi đi không vững nữa”. Schubert qua đời ngày 19 tháng 11 năm 1828. Và thể theo nguyện vọng lúc cuối đời của ông, mộ của Schubert được đặt cạnh mộ của Beethoven tại nghĩa trang Walhring. Vào năm 1888, hai ngôi mộ này được chuyển đến nghĩa trang Zentralfriedhof bên cạnh Johann Strauss cha và Johannes Brahms.

http://assets1.classicfm.com/2013/26/schubert-memorial-vienna-1372944812-view-1.jpg
http://assets1.classicfm.com/2013/26/schubert-memorial-vienna-1372944812-view-1.jpg
 Chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng Schubert đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm thật đồ sộ. Chín bản giao hưởng (bản giao hưởng số 7 bị thất lạc), khoảng 10 vở opera, 15 tứ tấu đàn dây, 8 Mass, gần 20 piano sonata, 500 tiểu phẩm cho nhiều nhạc cụ và hơn 600 lied, những con số khổng lồ khiến chúng ta ngày nay vẫn chưa hết kinh ngạc. Thật tiếc nuối cho Schubert và cho tất cả những người yêu âm nhạc, ở độ tuổi 31, Bach và Haydn chưa có tác phẩm nổi tiếng còn Beethoven thì chỉ vừa mới hoàn thành bản giao hưởng số 1. Sự ngọt ngào trong đau khổ của Schubert đã thổi vào nền âm nhạc thế kỷ XIX những ngọn gió nhẹ trong lành, tươi mát mãi cho đến tận bây giờ...
Cobeo (nhaccodien.info) tổng hợp

View: 10994  -  Nguồn: nhaccodien.info  -  Cập nhật lần cuối: 09:09 18/10/2011  


 Nguồn   http://www.nhaccodien.vn



The Best of Franz Peter Schubert (31 January 1797 -- 19 November 1828)

In a short lifespan of less than 32 years, Schubert was a prolific composer, writing some 600 Lieder, ten complete or nearly complete symphonies, liturgical music, operas, incidental music and a large body of chamber and solo piano music. Appreciation of his music while he was alive was limited to a relatively small circle of admirers in Vienna, but interest in his work increased significantly in the decades immediately after his death. Felix Mendelssohn, Robert Schumann, Franz Liszt, Johannes Brahms and other 19th-century composers discovered and championed his works. Today, Schubert is ranked among the greatest composers of the early Romantic era and, as such, is one of the most frequently performed composers of the early nineteenth century.

1.Symphony No. 5 (Excerpt) 0:00
2.Ellens Gesang 3, Op. 52/6, D 839, "Ave Maria" 5:22
3.Impromptu In G Flat, D 899 10:12
4.German Dance No. 1 In C, D 90 15:38
5.String Quintet In C Major D. 956 - II. Adagio (Excerpt) 19:29
6.Symphony No. 9 In C Major Great D. 944 - III. Scherzo, Allegro vivace (Excerpt) 24:13
7.Standchen 28:09
8.Piano Quintet In A, Op. 114, D 667, "Trout" (Excerpt) 31:30
9.Moment Musical No. 3 In F Minor, Op. 94, D 780 34:36
10.Impromptus, Op. 90, D 899 - #4 In A Flat 36:21
11.Symphony No. 3 In D, D 200 - Allegretto 43:08
12.Menuet (From "3 Small Pieces") 47:43
13.Piano Sonata In A, D 664 (Excerpt) 50:22
14.Tantum Ergo In E Flat, D 962 54:45
15.Mass No. 6 In E-Flat Major D. 950 - III. Credo: Et in carnatus est 1:00:23
16.Symphony No. 8 In B Minor, D 759, "Unfinished" - 2. Andante Con Moto 1:06:16




























-------------------------------------------------------------------------------------------

Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

Geothe

Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015

NGUỒN GỐC VĂN MINH NHÂN LOẠI - PHẦN 2 .


NGUỒN GỐC VĂN MINH NHÂN LOẠI .





PHẦN 2 . 
Từ những manh mối nhỏ về di chỉ 26, do nhà khảo cổ học Winkle để lại trong những ghi chép của mình, nhóm chuyên gia khảo cổ do David M.Rohl dẫn đầu, đã lần theo dấu vết và phát hiện những điều thú vị. Dựa trên những khám phá này, David M.Rohl đã dựng nên bức tranh về sự hình thành và phát triển của nền văn minh thế giới cổ đại từ dấu tích vườn EDEN – vùng đất các vị thần được ghi chép trong Kinh Thánh – cho đến những dấu tích rực rỡ của văn minh Ai Cập cổ đại. Với ngôn ngữ mô tả đặc sắc, “Nguồn gốc văn minh nhân loại” như một bộ phim lịch sử sống động được trình chiếu có lớp lang cho người đọc theo dõi từ mốc điểm khởi nguyên của một quá khứ kỳ bí, hấp dẫn đến những chuỗi dài biến động như để giải thích rõ ràng và đầy đủ hơn về nguồn gốc sự phát triển của thế giới nhân loại ngày nay.

Mục lục:
 Lời nói đầu Dẫn nhập 
Phần 1: Từ sương mù của thời gian 

Chương 1: Cuộc tìm kiếm vườn địa đàng
Chương 2: Đất ARATTA 

Phần 2: Những anh hùng vĩ đại 
Chương 3: Cuộc di cư vĩ đại 
Chương 4: Đại hồng thuỷ 
Chương 5: Định niên đại hồng thuỷ 
Chương 6: Những người tiền hồng thuỷ 
Chương 7: Bên kia thời đại hoàng kim 
Chương 8: Thiên đường tìm lại 

Phần 3: Những tín đồ của HORUS 

Chương 9: Những con thuyền của sa mạc 
Chương 10: Chủng tộc triều đại 
Chương 11: Những nhà sáng lập 
Chương 12: Cầu thang lên trời 
Chương 13: Đảo ngọn lửa 
Chương 14: Sáng thế 

Phần 4: Tham khảo 
Phụ lục A: Tân niên đại học dành cho Ai Cập thuộc thời kỳ sớm 
Phụ lục B: Chiến dịch năm 8 của Sargon 
Phụ lục C: Tân niên đại của MESOPOTAMIA.




Nguồn :  http://truyen.enterplus.org/doc-truyen-audio/Nguon-Goc-Van-Minh-Nhan-Loai-79.html#.Uaa3QNJHJMg#ixzz2Ujrl07Gm



Bài  6 .


Bài  8 .


Bài  9 .



Bài  10 .









 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Người có học biết mình ngu dốt. The learned man knows that he is ignorant. 

 Victor Hugo.

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

Túp Lều Của Chú Tom - Harriet Beecher Stowe



Túp Lều Của Chú Tom


Túp lều của chú Tom (tên tiếng Anh: Uncle Tom's Cabin), còn được gọi với tên là Cuộc sống giữa những lầm than (tiếng Anh: Life Among the Lowly) là một tiểu thuyết chống chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ của nhà văn Harriet Beecher Stowe người Mỹ. Được xuất bản vào năm 1852, cuốn tiểu thuyết đã có ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm đối với những người Mỹ gốc Phi và tình cảnh nô lệ ở Hoa Kỳ, làm tăng thêm sự xung đột giữa các tầng lớp dẫn đến Nội chiến Hoa Kỳ, theo Will Kaufman.
Nhà văn Stowe là một người hoạt động chống lại sự nô lệ, đã làm nổi bật trong tiểu thuyết của mình nhân vật chú Tom, một nô lệ da đen phải lìa bỏ vợ con, bị bán từ nơi này sang nơi khác, bị đánh đập tàn nhẫn. Tiểu thuyết mô tả sự độc ác, tàn bạo có thật của sự nô lệ, đồng thời cũng khẳng định tình yêu thương có thể vượt qua mọi thứ để chiến thắng, lật đổ sự nô dịch hoá trong xã hội loài người.
Túp lều của chú Tom là cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất trong thế kỷ 19, trong tuần đầu tiên 5.000 bản đã được bán sạch (và cũng là quyển sách bán chạy thứ hai trong thế kỷ đó, sau Kinh Thánh) , được xem là động lực cho cuộc đấu tranh bãi nô. Trong năm đầu tiên sau khi xuất bản, 300.000 bản được bán hết chỉ tính riêng ở Hoa Kỳ mặc dù cuốn tiểu thuyết bị cấm tại các bang miền Nam nước này. Cuốn sách quan trọng đến mức, khi Tổng thống Abraham Lincoln gặp Stowe vào năm 1862 đã chào mừng bà bằng câu nói nổi tiếng: "Hóa ra bà chính là người phụ nữ nhỏ bé đã viết cuốn sách làm bùng lên cuộc chiến tranh vĩ đại".

Nội dung

"Túp lều của chú Tom" kể về cuộc đời thống khổ của một người nô lệ da đen là chú Tom với chuỗi ngày đen tối, đầy tủi nhục , phải lìa bỏ vợ con, bị bán từ nơi này sang nơi khác, bị đánh đập tàn nhẫn. Cuối cùng do bảo vệ nhân phẩm của mình, chú bị đánh chết trong đồn điền trồng bông khủng khiếp ở miền Nam nước Mỹ, đây cũng là nơi chôn vùi bao cuộc đời lầm than như cuộc đời chú. Tác phẩm cũng kể về số phận của Elida cùng đứa con bỏ trốn. Đó là một người mẹ đã hy sinh tất cả để cứu đứa con khỏi rơi vào tay một tên buôn nô lệ tàn ác; đó là một người vợ tha thiết yêu chồng cũng bị đầy đoạ.

Ý nghĩa 

"Túp lều của chú Tom" ca ngợi những người nô lệ da đen là những người trung thực, biết tôn trọng phẩm giá con người như chú Tom, những người mẹ dũng cảm như Elida, những thanh niên cương nghị, tha thiết với tự do như George. Đồng thời tác phẩm cũng lên án đanh thép chế độ nô lệ với những chủ nô lệ, các tay sai, các con buôn vô cùng tàn bạo. Lên án Pháp luật nước Mỹ khi đó đã bênh vực chế độ nô lệ, cho phép đánh đập xiềng xích, giết chết những người da đen vô tội và trừng trị những ai che chở người nô lệ. Với tác phẩm của mình, nhà văn đã đóng góp một phần vào công cuộc giải phóng nô lệ ở nước Mỹ, tố cáo thống thiết chế độ vô nhân đạo, khích lệ những người Mỹ có lương tâm đấu tranh để tiêu diệt nó.

Theo wikipedia



Harriet Beecher Stowe
Dịch giả: Minh Quân & Mỹ Lan
Vài hàng về tác phẩm và tác giả
   
TÚP LỀU CỦA CHÚ TOM là một tác phẩm nổi tiếng khắp thế giới. Đó là cuốn sách làm say mê hàng triệu độc giả. không riêng tại Châu Mỹ, mà ở khắp nơi, người ta vừa đọc vừa khóc vì câu chuyện thương tâm trong tác phẩm.
Chính danh tác này đã làm chấn động dư luận thế giới, lung lay tận gốc rễ chế độ nô lệ, khiến chế độ này phải đi đến chỗ bị bãi bỏ. Tổng thống Abraham Lincoln của nước Mỹ, người đã ký tuyên ngôn giài phóng nô lệ cũng tỏ lòng ngưỡng mộ, khâm phục tác giả.
Tác phẩm này được hoàn thành do sự phẫn nộ và xúc động của tác giả trước những phũ phàng tàn nhẫn do chế độ nô tệ gây ra mà tác già từng chứng kiến và nghe kể lại; phần lớn những nhân vật cũng như chi tiết trong tác phẩm đều là sự thật.
● ... Và tác giả:

                                                                   

Harriet Elizabeth Beecher Stowe (1811 - 1896) sinh tại Litchfield (Connecticut) con gái của giáo sĩ Lyman Beecher, 16 tuổi, Harriet sống tự lập bằng nghề dạy học, 26 tuổi Harriet thành hôn với giáo sĩ Calvin Stowe, bà sinh hạ được bảy người con (chết mất một đứa).
Bà là một phụ nữ nhỏ nhắn, dáng dấp mảnh mai. Sự thành công ngoài sức tưởng tượng về tác phẩm vẫn không làm bà thay đổi, bà luôn luôn là một người mẹ hiền, vợ tốt luôn luôn khiêm nhường và dung dị. Được hỏi về kỹ thuật sáng tác, bà nhã nhặn trả lời là bà không có tài cán gì, chỉ viết dưới sự hướng dẫn cùa Thượng đế và lương tri.
Trong hai chuyến du hành ở Âu châu, bà được quần chúng tiếp đón nồng hậu, có người nài nỉ bà nhận những món quà quý giá, có người gởi đến bà cả rương tặng phẩm, dân chúng vây quanh bà. Người da đen hôn lên cà mặt đất, nơi mà bà đặt chân qua, tại New York.
Henri Dunant, một vĩ nhân thế giới, người đã có sáng kiến thành lập tổ chức Chữ thập đỏ có công lớn trong việc tìm mọi cách giảm thiểu đau khổ cho nhạn loại cũng nói rằng: ngoài thân mẫu ông, còn có ba phụ nữ khả kính đã ảnh hưởng đến đời ông, mà bà Harriet Stowe là một trong ba phụ nữ ấy.




http://www.gutenberg.org/files/203/203-h/203-h.htm













 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

 Geothe

Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2015

CÂU CHUYỆN TOÁN HỌC - PHẦN 4 .

CÂU CHUYỆN TOÁN HỌC -

  PHẦN 4 .








1. Hình động mô phỏng các khái niệm toán học

ĐỊNH LÝ PYTHARORAS



CONICS

ELLIPSE
HYPERBOLA

PARABOLA



TAM GIÁC PASCAL

GÓC NGOÀI CỦA LỤC GIÁC ĐỀU

 SỐ PHI

SỐ PI



QUAN HỆ GIỮA HÀM SIN VÀ COS




Nguồn http://kenh14.vn/

2. Viễn vọng kính Không gian Hubble

Viễn vọng kính Không gian Hubble đã thay đổi cách nhìn của chúng ta về vũ trụ. Trong gấn một phần tư thế kỷ, kính viễn vọng này đã gửi về trái đất một số lượng khổng lồ dữ liệu và hình ảnh từ không gian.





25.04.2015

Cách nay đúng 25 năm Viễn vọng kính Hubble được phi thuyền con thoi Discovery đặt trong không gian, với nhiều thiết bị để tìm hiểu về vũ trụ.

Viễn vọng kính này đã chụp được những hình ảnh tuyệt vời về không gian, làm cho khoa thiên văn thay đổi vĩnh viễn.

Cuộc khảo sát của Hubble bao trùm gần như mọi biên cương của khoa thiên văn không gian sâu, kể cả sự nới rộng và tăng tốc của vũ trụ, sự hình thành của thiên hà ngay sau cú nổ lớn Big Bang, cùng với thành phần hoá học và tính chất có thể cư trú của những hành tinh bay trong quỹ đạo của những tinh tú.

Viễn vọng kính này vốn được dự trù chấm dứt hoạt động vào năm 2005, nhưng giờ đây vẫn tiếp tục hoạt động sau 5 phi vụ bảo trì và sửa chữa của phi thuyền con thoi, tổng cộng 32 cuộc đi bộ trong không gian và nhiều phi hành gia đã làm việc cho viễn vọng kính.

Website của Hubble cho biết năng lực khoa học của đài quan sát này giờ đây mạnh hơn lúc mới được đưa lên không gian, với những thiết bị được nâng cấp, các máy tính và những hệ thống kiểm soát hoạt động tốt cho tới ít nhất là cuối thập niên này.

Tại Hoa Kỳ, tài liệu giáo dục của Hubble được sử dụng bởi nửa triệu giáo viên và 6 triệu học sinh mỗi năm.

Nguồn VOA.


3. Kính viễn vọng Giant Magellan cho phép tìm hiểu nguồn gốc vũ trụ



Rosanne Skirble
13.02.2014

Kính viễn vọng lớn nhất và mạnh nhất trong lịch sử đang trong giai đoạn xây dựng tại Trường đại học Arizona. Khi kính viễn vọng Giant Magellan hoàn tất vào năm 2020, nó sẽ cho phép các nhà thiên văn tìm hiểu về nguồn gốc của vũ trụ.

Ông Patrick McCarthy tới dự hội nghị thường niên của Hội Thiên văn Hoa Kỳ ở Washington để quảng bá dự án Kính viễn vọng Giant Magellan mà ông dẫn đầu.

“Kính viễn vọng của chúng tôi có đường kính 25 mét và bao gồm bảy tấm gương phối hợp hoạt động để tạo thành một kính viễn vọng duy nhất. Mỗi tấm gương đó có đường kính 8,4 mét.”

Mặc dù vậy, Magellan có căn cứ trên mặt đất và thu thập ánh sáng được lọc qua khí quyển, nó sẽ cung cấp những hình ảnh có độ phân giải cao nhất chưa bao giờ được thấy để khám phá không gian sâu thẳm. Ông McCarthy nói rằng kính viễn vọng này được thiết kế để thăm dò bầu trời nhằm tìm lời giải đáp cho những câu hỏi căn bản.

“Chúng ta muốn biết tầm vóc và cấu trúc toàn thể của vũ trụ. Vũ trụ bao gồm những gì? Đâu là nơi ở của chúng ta trong vũ trụ? Có những hành tinh khác trong vũ trụ tôn tại sự sống hay không? Và toàn bộ số phận và tiến hóa của vũ trụ là gì? Như vậy chúng ta muốn biết ta ở đâu ? Và có ai khác ở với chúng ta trong vũ trụ hay không?”





Khả năng thu thập ánh sáng cực lớn của Magellan sẽ cho phép kính viễn vọng này dõi theo tuyến đường vũ trụ tiến hóa của chúng ta, từ khí và những hạt nguyên tố tới thế giới phong phú các thiên hà, các sao và các hành tinh chúng ta thấy ngày hôm nay.

“Và một khi ta nhìn thấy chúng, ta có thể bắt đầu xem xét tới các tầng khí quyển của chúng để xem có dấu hiệu nào về đời sống hay ít nhất những chỉ dấu sinh học như nước, oxy, hoặc có lẽ chlorophyll… Và rồi trên một tầm cỡ rất lớn, chúng ta có thể đo lường lịch sử mở rộng của vũ trụ và tìm cách hiểu sự tiến hóa kỳ diệu này và hỏi số phận của vũ trụ sẽ như thế nào sau một tỉ năm nữa?”

Mỗi tấm gương là sản phẩm của kỹ thuật cắt và sản xuất độc đáo. Trước hết, một khuôn đúc được chế tạo để có thể thích nghi và chứa đựng khoảng 20 tấn kính được nghiền nát.

“Ta đổ kính vào đó, ta nung kính trong một lò đầy sợi đèn. Ta nung nóng kính tới khoảng 2.000 độ. Khi kính bắt đầu chảy, ta quay lò nung. Ta quay lò cho tới lúc kính chảy thành dạng lỏng, số kính này giữ được dạng tự nhiên của một tấm gương hình parabol.”

Sau hai ngày quay, tấm gương được để cho nguội lại, mỗi ngày một độ trong bốn tháng, để tránh những ứng suất có thể gây ra các vết nứt.”

“Rồi sau bốn tháng đó, chúng tôi mở nắp phía trên để xem kết quả ra sao. Và chúng tôi đã làm như vậy trên tấm gương thứ ba, và nó rất đẹp!”




Nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm, để đánh bóng tấm gương thật kỹ, đúng mức với những dụng cụ mỗi ngày một tinh vi hơn.

Dự án trị giá một tỉ đô la này là sáng kiến kính viễn vọng do tư nhân dẫn dắt lớn nhất trong lịch sử, một sự hợp tác toàn cầu giữa các học viện hàn lâm và khoa học.

“Đây là 10 năm giải quyết những vấn đề khó khăn, suy nghĩ thận trọng, để chế tạo một thứ chưa bao giờ được thực hiện trước đó. Đó là lý do tại sao cần phải có một đội ngũ lớn, những người rất có tài, nhiều suy nghĩ và nhiều kế hoạch.”

Kính viễn vọng Giant Magellan sẽ bắt đầu hoạt động trên một đỉnh núi tại Chile vào năm 2020, với bốn trong số bảy tấm gương căn bản. Khi giai đoạn chót hoàn tất, kính viễn vọng này sẽ có độ phân giải gấp 10 lần kính viễn vọng Hubble trên không gian. Ông McCarthy thừa nhận rằng có lẽ ông sẽ không còn sống để được hưởng những lợi ích của nó.

“Những dự án này là những kiểu dự án sẽ chiếm trọn cả đời người hay gần như vậy. Vì vậy mà những người làm công việc đó như tôi hiểu rằng thế hệ kế tiếp sẽ là người sử dụng. Họ sẽ là những người thực hiện việc khám phá.”

Ông nói thêm rằng “những khám phá, mà chúng ta thậm chí còn chưa thể hình dung ra.”

Nguồn VOA

4. Nhà toán học lỗi lạc John Nash qua đời trong tai nạn xe hơi

Thiên tài toán học từng đoạt giải Nobel John Nash, người mà cuộc đấu tranh chống chọi bệnh tâm thần phân liệt được dựng thành phim A Beautiful Mind năm 2001, cùng vợ của ông, đã qua đời trong một tai nạn giao thông ở Mỹ.





Nguồn VOA

Tưởng nhớ John Nash



John Nash là một tượng đài trong ngành toán và kinh tế. Ông đoạt giải Nobel kinh tế năm 1994.

Trần Vinh Dự
25.05.2015

Hôm nay, giáo sư toán kinh tế John Nash đã qua đời cùng với người vợ của mình, bà Alicia Nash, trong một tai nạn giao thông kinh hoàng ở bang New Jersey. Giáo sư Nash hưởng thọ 86 tuổi, còn vợ ông, bà Alicia Nash hưởng thọ 82 tuổi.

John Nash là một tượng đài trong ngành toán và kinh tế. Ông nhận giải Nobel kinh tế năm 1994 vì là người đầu tiên mở ra ngành Game Theories (lý thuyết trò chơi, hay đúng hơn là lý thuyết tương tác chiến lược). Game Theory ngày nay đã trở thành xương sống của kinh tế học hiện đại, của chính trị học, xã hội học, và nhiều ngành khoa học xã hội khác. Sở dĩ như vậy là vì Game Theories mô hình hóa tất cả các tương tác xã hội giữa con người với con người dưới dạng toán học để tìm ra các giải pháp cân bằng (equilbrium) cho mỗi tình huống. Tên của giáo sư John Nash được đặt cho một loại cân bằng này, gọi là Nash Equilibrium.



Những người không thuộc giới nghiên cứu kinh tế hoặc toán học ít biết đến ông. Người ta chỉ biết đến hình ảnh một thiên tài đầy bệnh tật và cuộc sống kì dị trong phim A Beautiful Mind (phim được 4 giải Oscar năm 2002). Trong film, nghiên cứu sinh tiến sĩ Nash nghĩ ra cân bằng Nash và bắt đầu đặt viên gạch đầu tiên cho Game Theory khi đi tới một bữa tiệc, và nhận thấy tương tác giữa các bạn nam và bạn nữ, khi mỗi bên đều tìm cách gây ấn tượng và chinh phục người của phe kia.

Nhân vật trong A Beautiful Mind tốt nghiệp tiến sĩ, lập gia đình với một cô bạn gái cùng trường, và được Bộ Quốc phòng Mỹ mời làm việc. Sau đó ông bị phát hiện có triệu chứng hoang tưởng và rối loạn thần kinh (paranoid schizophrenia), luôn cảm thấy mình là trung tâm của một vụ việc hệ trọng liên quan đến an ninh quốc gia, luôn bị theo dõi, đe dọa. Căn bệnh này đe dọa chính gia đình ông, cho đến khi ông phát hiện ra là người vợ mình luôn trẻ như ngày đầu mà không già đi chút nào, và hiểu rằng mình luôn bị ảo giác. Từ đó, ông tập sống và chấp nhận với ảo giác, với những nhân vật không có thật đeo bám mình, và trở lại cuộc sống bình thường của một giáo sư vào lúc tuổi đã già.



Ngoài đời thật của John Nash khác rất nhiều so với trong phim. Ông chưa bao giờ làm cho Bộ Quốc phòng Mỹ mà chỉ làm cho một think tank tên là RAND (think tank này làm nhiều hợp đồng nghiên cứu cho Bộ Quốc phòng). Cuộc sống ngoài đời thật của ông cũng phức tạp hơn rất nhiều lần so với trong  phim. Theo nhiều nguồn tin chính thống, John Nash từng có thời gian có khuynh hướng tình dục đồng giới (trước khi có tình yêu thật sự với Alicia và cưới).

Ông cũng có một người con trai từ lúc 25 tuổi (năm 1953) với Eleanor Stier, một y tá ở Boston, và đặt tên là John David Stier. John Nash không chịu cưới và chia tay Eleanor. Ông không mấy quan tâm đến John Stier và chỉ thi thoảng gặp. Từ khi cậu bé lên 6 tuổi, ông chủ yếu liên hệ với con trai qua thư. Sau này John Stier trở thành một y tá giống như mẹ. Sau nhiều năm vật lộn với bệnh tật và trở lại bình thường, Nash gặp lại John Stier và trách John tại sao không trở thành bác sĩ để cậu và em trai cùng bố (con của Nash và Alicia) có thể gặp nhau và giúp nhau (người con thứ hai này cũng bị bệnh rối loạn thần kinh giống John Nash).

Cuộc hôn nhân của John Nash và Alicia cũng không suôn sẻ. Ông bà lấy nhau tháng 2 năm 1957 và có con trai tên John C.M. Nash vào tháng 5 năm 1959 (cậu bé này không có tên trong gần cả một năm). Tới mùa Giáng Sinh năm 1962, Alicia đệ đơn li dị. Rõ ràng bệnh tật của Nash trong giai đoạn này đã làm Alicia không chịu đựng nổi. Hồ sơ của Alicia viết rằng Nash đổ tội cho bà đã cố tình hai lần đưa ông vào nhà thương điên. Ông chuyển sang sống ở một phòng khác trong nhà, và trong hơn 2 năm từ chối quan hệ vợ chồng với Alicia.

Sau khi li dị, Alicia lại cho phép John Nash quay lại sống cùng với mình vào năm 1970. Sự chăm sóc và sự kiên nhẫn của bà đóng vai trò vô cùng hệ trọng trong việc giúp ông dần dần khỏi bệnh loạn trí. Tuy nhiên, quan hệ của hai người giống như hai người bạn. Quan hệ tình cảm của họ chỉ sống lại vào năm 1994, sau khi John Nash được giải Nobel kinh tế. Hai người làm đám cưới trở lại vào năm 2001, 44 năm sau đám cưới đầu tiên của họ. John Nash và Alicia cùng qua đời vào ngày 25 tháng 5 năm 2015 trong một tai nạn giao thông ở New Jersey như báo chí đã đưa.

John và Alicia Nash, trong khuôn viên trường Đại học Princeton,
tái hôn năm 2001. Họ có một con trai tên là John Charles Martin Nash (sinh năm 1959)
 

Ngoài đời thật, John Nash là một thiên tài, nhưng cũng là một người lập dị, trước khi trở thành một nạn  nhân của bệnh loạn trí. Phần lớn cuộc đời ông sống trong bệnh tật. Những người thân của ông cũng vì thế mà chịu nhiều khổ đau. Con trai đầu của ông bị ông ghẻ lạnh. Con trai thứ hai bị bệnh giống như ông. Vợ ông, bà Alicia cũng gần như dành cả đời mình chăm sóc cho John Nash – như một người chồng thì ít mà như một bệnh nhân thì nhiều.
Thế nhưng, đối với những người làm nghiên cứu kinh tế (và nhiều bộ môn khoa học khác sau này), đặc biệt với người nghiên cứu Game Theory, thì tài sản mà ông để lại cho họ (và cho nhân loại) quả thật vô giá.

Tôi chưa bao giờ gặp ông, nhưng đã có thời là người nghiên cứu Game Theory, luôn ngưỡng mộ thiên tài của ông, và trân trọng những gì ông để lại cho khoa học. Hôm nay biết tin ông mất, và lần đọc lại những biến cố trong cuộc đời ông, nhớ lại bộ film A Beautiful Mind đã từng xem từ mười mấy năm trước, không khỏi thấy sự ra đi của ông là một mất mát quá lớn. Những dòng viết đơn giản này xin dành để tưởng nhớ ông, người cha của ngành khoa học Game Theory hiện đại.

Nguồn VOA
http://www.voatiengviet.com/content/tuong-nho-john-nash/2789639.html



5. 14/03/15: Ngày số Pi trăm năm mới có một lần

Ngày số Pi năm nay sẽ ghi nhận khoảnh khắc đặc biệt trăm năm mới có một lần: 9 giờ 26 phút 53 giây.

Ai cũng biết hôm nay là Valentine trắng, dịp mà các chàng trai tặng quà đáp lễ cho nửa kia của mình sau khi được nhận sô cô la vào ngày 14/02. Nhưng ngoài ra, 14/03 còn mang một ý nghĩa vô cùng đặc biệt khác: đó là ngày số Pi – ngày vinh danh một trong những con số vĩ đại nhất trong lịch sử toán học.


Năm nay, ngày số Pi sẽ trở nên đặc biệt hơn bao giờ hết khi đồng hồ điểm 9 giờ 26 phút 53 giây. Khi đó nếu ghép các số liệu thời gian theo thứ tự tháng, ngày, 2 số cuối cùng của năm, giờ, phút, giây ta sẽ được: 3,141592653. Đây chẳng phải là giá trị gần đúng của số Pi hay sao?

Ngược dòng lịch sử, ta sẽ thấy trong mọi nền văn hóa, số Pi luôn chiếm một vị trí vô cùng đặc biệt. Từ Hy Lạp cổ đại cho tới Ai Cập, Babylon, Trung Quốc, ở đâu các nhà toán học đại tài cũng đều mong muốn tìm ra giá trị thật của Pi (hằng số biểu thị tỉ số giữa chu vi của đường tròn và đường kính). 

Người đầu tiên tính ra gần đúng giá trị của π là Ác-si-mét người Hy Lạp (287 – 222 TCN) sau khi sử dụng hình vẽ đa giác có tới 96 cạnh. Kết quả của ông là 3,1419. 
Ở Trung Quốc, vào thời Ngụy Tấn (khoảng năm 263), nhà toán học Lưu Huy đã chỉ ra được giá trị của π là 3,1416 - một giá trị gần đúng với ngày nay. Đến thời Nam - Bắc Triều (khoảng năm 480), nhà khoa học Tổ Xung Chi đã tìm ra số π = 355/113 hay giá trị của π nằm trong khoảng từ 3,1415926 đến 3,1415927. Đây là số π chính xác nhất trong vòng 900 năm sau đó. 

Tổ Xung Chi, nhà khoa học tính ra gần đúng nhất với giá trị của số Pi ngày nay
Tục lệ kỷ niệm ngày số Pi bắt đầu ra đời tại San Francisco Exploratorium vào năm 1988 theo ý tưởng của Larry Shaw. Nhân viên của Exploratorium và công chúng sẽ cùng nhau tập trung trong sự kiện này, diễu hành rồi sau đó cùng nhau ăn những chiếc bánh trái cây. Kể từ đó, nhiều người bắt đầu coi “Ngày số Pi” như một ngày lễ kỉ niệm đáng nhớ thường niên. Đặc biệt, ngày số Pi cũng chính là sinh nhật của thiên tài khoa học Albert Einstein người Đức.


Nguồn: CNN Tech, The Next Web, Wikipedia

    Trong số những ngày lễ kỉ niệm cấp quốc gia của nước Mỹ, Pi day 14/3 là một dịp đặc biệt để dân mê Toán và dân nghiền bánh nướng cùng tụ họp.

    Sinh ra từ một lối chơi chữ
    Năm 1988, tại Bảo tàng khoa học San Francisco Explotarium, nhà vật lý học Larry Shaw đã cùng với các nhân viên của mình tự tổ chức một ngày lễ vinh danh hằng số Pi. Do “Pi” và “Pie” (bánh nướng) có phát âm giống nhau, trong ngày này, Shaw cùng các cộng sự của mình đã thưởng thức những chiếc Pie trái cây thơm ngon. Ý tưởng về một “Pi day” – vừa vinh danh toán học vừa “măm măm” bánh ngọt – đã được Hạ viện Mỹ quan tâm và hỗ trợ để phát triển thành Ngày số Pi toàn quốc – 14/3 hàng năm.

    Một điều thú vị khác là, sở dĩ 14 tháng 3 được chọn vì trong lịch Mỹ nó sẽ được viết thành 314, khá giống với  con số Pi xấp xỉ 3,14 nổi tiếng. Bên cạnh đó còn có một lí giải thú vị không kém về mối liên hệ giữa số 3,1,4 với bánh pie: Nếu bạn viết 314 và soi qua gương, hình ảnh phản chiếu của nó sẽ gần giống với từ “pie”!

    Dù mang ý nghĩa chính là tôn vinh số Pi, nhưng mục đích này chỉ phổ biến trong giới Toán học. Với đa số dân Mỹ nói chung, 14/3 hàng năm được biết đến như một ngày bánh Pie toàn quốc thứ hai bên cạnh ngày chính thức là 23/1. Thậm chí Hội đồng Bánh nướng uy tín nhất của nước Mỹ - American Pie Council – cũng nhiệt tình tham gia vào công cuộc kỉ niệm Pi day.

    Hàng năm, cứ tới 14/3, người Mỹ đều rộn ràng chuẩn bị những chiếc bánh pie thơm ngon và xinh đẹp, theo sau là hàng loạt các hoạt động thú vị khác xoay quanh số Pi và bánh pie: Lễ hội ném bánh pie, cuộc thi bánh nướng cấp khu vực và toàn quốc, những cuộc họp mặt của câu lạc bộ Toán ở trường trung học và đại học – khi các thành viên cùng quây quần bên một đĩa bánh nướng thơm lừng. Dù ra đời chưa lâu nhưngPi day đã tổ chức thành công suốt chục năm ở Mỹ , và trở thành một trong những dịp lễ lạc được người dân cực kì mong đợi.

    Ăn gì vào Pi day 14/3 ?

    Dĩ nhiên là bánh Pie…

    Tất cả các loại Pie truyền thống của Mỹ sẽ được bán nhanh chóng vào ngày này, và mọi người có thể ăn Pie từ sáng đến tối thay cho ba bữa chính. Tuy nhiên vì đây là loại bánh truyền thống gắn với cuộc sống thường nhật, nên người Mỹ có xu hướng tự nướng Pie ở nhà hơn. Một số loại Pie trái cây đơn giản sẽ là lựa chọn lý tưởng cho ngày 14/3: Apple Pie với lớp táo mọng nước bên trong, Rashberry hoặcBlueberry Pie với vị chua hoa quả hòa quyện cùng phần bánh giòn tan, ngọt ngào,…

    “Hoành tráng” hơn, nhiều gia đình còn khéo léo làm các loại Pie đẹp mắt và phức tạp như Ley Lime Pie – bánh nướng chanh với lớp meringue  từ lòng trắng trứng tuyệt đẹp bên trên, hoặc pie hồ đào, pie bí đỏ, thậm chí pie mang phong vị châu Á với thành phần chính là…khoai lang! Pi day đích thực là một dịp để các đầu bếp Mỹ tại gia được thỏa sức sáng tạo trên công thức bánh nướng truyền thống.

    …và nhiều món ngon khác nữa!

    Một điều thú vị mà dân Mỹ phát hiện ra trong vài năm đầu tổ chức Pi day là, không chỉ đồng âm với bánh pie, “Pi” còn xuất hiện rất nhiều trong các danh từ chỉ món ăn ở Tiếng Anh. Và thế là để hòa quyện toán học với ẩm thực một cách thú vị hơn nữa trong ngày 14/3, người Mỹ sẽ ăn cả những món có cụm “pi” trong đó, ví dụ như pizza, pinnapple, pine nuts,… Danh sách này ngày càng được tăng lên và được thêm vào nhiều cái tên “không ngờ”, nhờ vào óc nhạy cảm ngôn ngữ của người Mỹ.

    Tuy nhiên, ngày 14/3 sẽ không trọn vẹn nếu mọi người chỉ chú trọng vào công thức và hương vị. Để truyền tải tinh thần tôn vinh số Pi vào trong những món ăn thơm ngon, nhiều cách tạo hình độc đáo cho thực phẩm đã được ra đời. Phổ biến nhất là dùng icing sugar  hoặc sốt chocolate để vẽ kí hiệu Pi lên mặt bánh, hoặc tạo hình vỏ bánh theo kí hiệu này.

    Kí hiệu Pi sẽ xuất hiện khắp nơi: Từ hình dáng những chiếc bánh cupcake, chi tiết trang trí trên bánh cupcate, tới cách sắp xếp quả olive và cà chua bi trong đĩa salad cho bữa tối,…Tất cả đều thể hiện tinh thần sáng tạo không ngừng nghỉ và đầy bất ngờ của các đầu bếp tại gia Mỹ.


    Chỉ từ một hiện tượng đồng âm khác nghĩa trong tiếng Anh, người Mỹ đã nghĩ ra cách kết hợp hai hoạt động tưởng chừng không chút liên quan là Toán học và ẩm thực lại với nhau – tạo nên một Pi day độc đáo chỉ có riêng ở đất Mỹ.  Đừng quên rằng vào ngày 14/3 hàng năm, ngoài việc kỉ niệm lễ Valentine Trắng, vẫn có hoạt động không kém để tôn vinh một phát minh quan trọng của Toán học lẫn một công thức ẩm thực lâu đời nhé!
    Theo
     Tsubaki / Trí Thức Trẻ


    6. Tin tức toán học thế giới

    a.Mathematical Reviews kỷ niệm 75 năm ra số đầu tiên.
    Năm 1940 Hội Toán học Mỹ đã thành lập Mathematical Reviews với tổng biên tập đầu tiên là Otto Neugebauer. Kể từ đó, Mathematical Reviews đã trở thành một phần quan trọng của Hội Toán học Mỹ cũng như cộng đồng toán học quốc tế. Số đầu tiên được xuất bản chỉ có 32 trang và 176 bài viết. Ngày nay,
    MathSciNet (phiên bản điện tử) có một cơ sở dữ liệu gồm 3 triệu tài liệu với gần 9 triệu trích dẫn và một cộng đồng gần 17.000 nhà toán học tham gia viết.

    b."Breakout Graduate Fellowships" là tên một quỹ học bổng mới được thành lập bởi các nhà toán học Simon Donaldson, Maxim Kontsevich, Jacob Lurie, Terence Tao và Richard Taylor. Là chủ nhân của các giải thưởng "Mathematics Breakthrough Prize" (Giải thưởng Đột phá Toán học) năm 2014, mỗi nhà toán học đã tặng cho Liên đoàn Toán học Thế giới 100.000 đô la để thành lập quỹ học bổng cho những sinh viên cao học toán ở tại các nước đang phát triển.
    Thông tin thêm xem tại www.mathunion.org/cdc/aboutcdc/news-and-events/

    c.Các nhà toán học Mỹ John F. Nash Jr. và Louis Nirenberg cùng chia giải thưởng Abel năm nay.
    Cả hai ông được trao giải cho những đóng góp nổi bật và có ảnh hưởng sâu xa trong lý thuyết phương trình đạo hàm riêng phi tuyến và những ứng dụng trong giải tích hình học.
    John F. Nash Jr. năm nay 86 tuổi và từng dành cả sự nghiệp tại Đại học Princeton và Viện Công nghệ Massachusetts (MIT).
     Louis Nirenberg nămnay 90 tuổi và từng làm việc tại Viện các khoa học về Toán Courant, Đại học New York. Mặc dù cả hai nhà toán học không chính thức hợp tác trong bài báo nào, trong những năm 1950 họ đã có ảnh hưởng lớn lẫn nhau. Hiện nay, những kết quả của hai ông đang được áp dụng mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

    d.Giải thưởng Wolf cho Toán học là một giải thưởng quan trọng khác trong cộng đồng toán học cũng vừa công bố chủ nhân của giải thưởng năm 2015 là giáo sư James G. Arthur của Đại học Toronto, Canada.
     Arthur được trao giải cho những công trình đồ sộ về công thức vết vànhững đóng góp cơ bản cho lý thuyết biểu diễn automophic của nhóm reductive.

    e.Một số giải thưởng năm 2015 của Hội Toán học Mỹ bao gồm:

    1. Giải thưởng Steele mục Thành tựu trọn đời: Victor Kac (Viện Công nghệ Massachusetts - MIT) cho những đóng góp đột phá của ông cho lý thuyết Lie và ứng dụng trong toán học và vật lý.
    2. Giải thưởng Steele mục Trình bày toán học: Robert Lazarsfeld (Đại học Stony Brook) cho quyển sách "Positivity in Algebraic Geometry I and II", xuất bản năm 2004.
    3. Giải thưởng Steele mục Cống hiến cho nghiên cứu: Rostislav Grigorchuk (Đạihọc Texas A&M) cho bài báo "Degrees of growth of finitely generated groups and the theory of invariant means". Bài báo này đầu tiên được đăng bằng tiếng Nga năm 1984 ở tờ Izvestiya Akademii Nauk SSSR. Seriya Matematicheskaya,một năm sau được dịch sang tiếng Anh. Bài báo là một bước ngoặt đặc biệt trong sự phát triển của lý thuyết nhóm hình học, một lĩnh vực đang phát triển nhanh.
    4. Giải thưởng Satter: Hee Oh (Đại học Yale, Mỹ) cho những nghiên cứu về động lực của không gian thuần nhất, nhóm con rời rạc của nhóm Lie và ứng dụng vào lý thuyết số.
    5. Giải thưởng Cole cho Đại số: Peter Scholze (Đại học Bonn, CHLB Đức) cho các kết quả về các không gian perfectoid, dẫn đến lời giải cho một trường hợp đặc biệt quan trọng của giả thuyết đơn đạo có trọng (Weight-monodromy conjecture) của P. Deligne.
    6. Giải thưởng Birkhoff: Emmanuel Candès (Đại học Stanford, Mỹ) trong lĩnh vực toán ứng dụng. Các công trình của ông về compressed sensing (lấy mẫu nén) đã cách mạng hóa xử lý tín hiệu và nhận dạng hình ảnh y tế. Giải thưởng cũng được trao do những đóng góp của Candès trong giải tích điều hòa tính toán, thống
    kê và tính toán khoa học.
    7. Giải thưởng Whiteman: Umberto Bottazzini (Đại học Milan, Ý), đã được trao giải thưởng cho những công trình về lịch sử toán học, trong đó nổi bật là về sự xuất hiện của toán học hiện đại ở Ý và về giải tích thế kỷ 19 và 20.


    7. Máy gia tốc hạt lớn LHC tái khởi động

    Thứ Tư, 27/05/2015

    Tin tức / Khoa học công nghệ



    Các nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu (CERN) hôm qua tái khởi động Máy Gia tốc hạt lớn LHC "Big Bang", bắt đầu nỗ lực thăm dò vào ‘vũ trụ tối’ mà họ tin là nằm ngoài bầu vũ trụ có thể nhìn thấy.

    CERN cho hay các tia phân tử đã bắn xuyên qua được đường hầm dài 27km của máy gia tốc bên dưới đường biên giới giữa Thụy Sĩ và Pháp, gần Geneva.

    Máy LHC là dụng cụ trong quá trình khám phá các hạt boson Higgs, một hạt hạ nguyên tử đã được giả định từ lâu nhưng mãi tới năm 2013 mới được xác định.

    Cỗ máy này bị đóng hai năm trước cho quá trình nâng cấp khổng lồ được mô tả như nhiệm vụ của Hercule tăng đôi sức mạnh và khả năng vươn tới những gì chưa được biết đến.

    Các khoa học gia hy vọng sẽ nhìn thấy được tất cả các thể loại vật lý mới, kể cả việc lần đầu tiên được trông thấy vật chất tối trong quá trình vận hành 3 năm lần thứ nhì của máy LHC.

    Nguồn VOA


    -------------------------------------------------------------------------------------------

     Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị.

     Geothe

    *******

    Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
    Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


    Chia xẻ

    Bài viết được xem nhiều trong tuần

    CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

    Danh sách Blog

    Gặp Cơ tại Researchgate.net

    Co Tran