Giải toán trực tuyến W | A




Vẽ đồ thị trong Oxyz plot3D(f(x,y),x=..,y=..)
Vẽ đồ thị trong Oxy plot(f(x),x=..,y=..)
Đạo hàm derivative(f(x))
Tích phân Integrate(f(x))


Giải toán trực tuyến W|A

MW

Hiển thị các bài đăng có nhãn Viêt nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Viêt nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 19 tháng 10, 2015

VŨ QUỐC PHÓNG - Nhà toán học xuất sắc của Việt Nam .

Ý kiến của GS Vũ Quốc Phóng, Giáo sư Toán học, Đại học Ohio, Hoa Kỳ

18/08/2011 08:23:43
Đào tạo từ xa đã có từ hàng trăm năm nay qua các phương tiện khác nhau như gửi thư, truyền hình,…, nhưng từ khi có Internet thì phương tiện chủ yếu được áp dụng trong đào tạo từ xa là Internet, qua text, âm thanh, hình ảnh, video, mô phỏng và các phần mềm hỗ trợ trên nền Web (web based learning). Cách học này thường hay được gọi là e-learning. Từ khi xuất hiện vào cuối những năm 90’s, e-learning đã mở ra những kỳ vọng lớn về những thay đổi có tính chất cách mạng trong giáo dục. Nhiều công ty, trường đại học và nhà đầu tư mạo hiểm đã đầu tư hàng chục tỷ đô la Mỹ vào e-learning.
Tuy nhiên, “bong bóng” e-learning đã vỡ, cùng một lúc với bong bóng dot.com. Song điều đó không phủ nhận vai trò và ý nghĩa của e-learning trong giáo dục, cũng như việc bong bóng dot.com vỡ không phủ nhận sự phát triển, ý nghĩa và vai trò của Internet trong cuộc sống hiện tại. Thực tế là đào tạo từ xa và e-learning vẫn tiếp tục phát triển mạnh ở khắp các trường đại học trên thế giới và đặc biệt là ở Mỹ [1]. Hầu hết các trường ĐH ở Mỹ đều có các chương trình dạy qua mạng cho một số môn, và thậm chí có hẳn cả một số chương trình học có thể học được qua mạng hoàn toàn. Nhiều công ty kinh doanh đào tạo qua mạng phất lên khá nhanh, tiêu biểu như Universityof Phoenix Online[2].
Người ta thấy rõ hơn những sai lầm mắc phải trong thời kỳ đầu triển khai e-learning, tìm thấy vị trí của công nghệ như là công cụ hỗ trợ, như là môi trường để tiến hành việc học, nó không thay thế được bản thân việc dạy và học [3].
Khi áp dụng công cụ e-learning để dạy và học, đặc biệt là để học từ xa, người thầy và học sinh cần phải đồng thời thay đổi một số thói quen thường thấy trong các phương pháp dạy và học truyền thống lấy người thầy làm trung tâm, bằng phương pháp học mới lấy học sinh làm trung tâm. Nói cách khác, từ chỗ tiếp thu kiến thức một cách thụ động, học sinh nay sẽ phải chủ động tìm tòi, khai thác các nguồn thông tin từ sách báo, Internet,…, và biến nó thành kiến thức của mình, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo.
Trên thực tế để thực hiện được như trên một cách thường xuyên là một việc khó. Vì thế vẫn còn có nhiều người hoài nghi, một cách có cơ sở, về chất lượng của học từ xa [4]. Bản thân tôi cũng cho rằng học từ xa không phải là cách học tốt nhất. Ví dụ, nếu muốn trở thành một nhà kinh tế học, chắc chắn rằng được học ở một trường nổi tiếng ở Mỹ như đại học Harvard hay Yale, theo tôi, sẽ tốt hơn là theo học bất kỳ một chương trình đào tạo từ xa thuần túy nào. Việc được tiếp xúc trực tiếp với các nhà khoa học lớn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của một cá nhân.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay, cho dù một học sinh có học ở trường lớn đến đâu chăng nữa, kể cả đó là đại học Harvard hay Yale, thì cũng phải biết áp dụng cách học từ xa, áp dụng e-learning. Vì, như Giáo sư Tạ Quang Bửu nói: "Trình độ đại học là trình độ biết tự học”. Trong thời đại Internet, tự học phần lớn là tự học qua mạng: qua google, wikipedia, chats, forums, blogs, v.v…
Nếu biết khai thác những mặt mạnh và triệt để khắc phục những mặt kém, thì đào tạo từ xa bằng e-learning có thể là một phương pháp đào tạo có hiệu quả. Đặc biệt, trong điều kiện như ở Việt Nam hiện tại, khi đội ngũ các giảng viên có trình độ cao ở trong nước chưa nhiều, khi chúng ta muốn sử dụng những giảng viên đại học và chuyên gia người Việt ở nước ngoài để đào tạo cấp đại học và trên đại học, thì đào tạo từ xa và e-learning có thể xem là phương pháp tương đối khả thi.
Trích từ Đề án xây dựng đại học từ xa chất lượng cao của GS Vũ Quốc Phóng, Giáo sư Toán học, Đại học Ohio, Hoa Kỳ (www.ewiu.org)
[1] Xem http://chronicle.com/weekly/v53/i34/34a04901.htm
[2] Universityof Phoenixonline là thành viên của Appolo Group (NQSDQ:APOL).
[3] Xem http://chronicle.com/weekly/v53/i18/18b02001.htm
[4] Xem http://chronicle.com/weekly/v52/i30/30a03801.htm

 

Sơ lược thông tin về giáo sư, tiến sỹ Vũ Quốc Phóng

Bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1978 (ở tuổi 24) tại Đại học (ĐH) Kharkov (Ukraine), sau một thời gian công tác ở Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam (Viện Toán), TS. tiếp tục làm nghiên cứu sinh và đã thành công với luận án tiến sĩ khoa học toán lý – học vị cao nhất của Liên Xô vào năm 1987. Năm 1992, ông “đầu quân” về ĐH Ohio (Hoa Kỳ), được phong phó (1993) và là chính thức từ năm 1999. Ông cũng được nhiều trường đại học của Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Hàn Quốc…mời làm thỉnh giảng. Trong chuyến về nước vừa qua, ông đã dành cho DNSG một cuộc trao đổi về đề tài giáo dục đại học.
634995047773210465 Sơ lược thông tin về giáo sư, tiến sỹ Vũ Quốc Phóng
Ông nhận xét gì về các vấn đề của giáo dục đại học Việt Nam?
Nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là giáo dục đại học, đang thực sự là mối quan tâm lo lắng của công chúng. “Căn bệnh” của nền giáo dục hiện nay, với các biểu hiện và nguyên nhân, đã được nhiều người chỉ ra. Các nhà khoa học đều biết rằng những vấn đề được đặt ra quá sớm, khi các điều kiện khách quan chưa chín muồi để giải quyết, thì sẽ không thực hiện được. Theo đuổi các vấn đề này sẽ làm lãng phí thời gian và công sức mà đáng ra có thể sử dụng để giải quyết các bài toán khác được đặt ra đúng thời điểm, tuy có thể nhỏ hơn.
Giáo dục đại học Việt Nam cũng đang ở trong tình trạng tương tự, khi người ta thích đặt các bài toán thật cao siêu, thích nói đến các mục tiêu cụ thể nhưng rất xa vời. Người ta cũng quên rằng, đặt mục tiêu không quan trọng bằng việc xác định đúng phương hướng. Chúng ta nên xác định hướng đi của đại học Việt Nam, của nền khoa học Việt Nam, tạo mọi điều kiện để các nhà khoa học làm việc, để các trường đại học phát triển, chứ không nên đặt các mục tiêu cụ thể, kiểu như sau 20 năm nữa sẽ có trường đứng trong danh sách 200 trường tốt nhất thế giới, hay có người Việt Nam đoạt giải thưởng Nobel về khoa học…
Hệ quả của việc đề ra mục tiêu nhưng không xác định phương hướng có thể là gì, thưa ông?
Đó là mầm mống của tính cách lề mề, nói mà không làm, vì luôn luôn nghĩ rằng kết quả làm việc của ngày hôm nay cũng không thay đổi được gì đáng kể cho việc đạt được mục tiêu, thôi thì để ngày mai làm luôn một thể. Vả lại, mục tiêu xa vời không thể đạt được qua một nhiệm kỳ, hay một thế hệ, cho nên ta dễ dàng “nhường” việc lại cho người kế tiếp, thế hệ kế tiếp. Có lẽ đó là nguyên nhân mà đã rất nhiều năm trôi đi, giáo dục đại học ở Việt Nam chỉ chủ yếu là hứa hẹn và hô hào chứ chưa thực sự có những hành động quyết liệt để thay đổi thực trạng.
Trong số rất nhiều việc mà đầu óc chúng ta có thể hình dung, tưởng tượng là nếu làm được thì sẽ nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, có những việc rất quan trọng và hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.Tuy không phải là dễ, nhưng chúng nằm trong phạm vi chúng ta có thể giải quyết được. Điều đầu tiên cần làm ngay là xác định những loại bài toán như vậy và giải quyết chúng.
Theo ông, đó là những bài toán nào?
Tôi cho rằng chúng ta có 10 vấn đề cần và giải quyết được. Đó là:
1. Phát triển song song đại học tư thục vì lợi nhuận/phi lợi nhuận, bên cạnh hệ thống trường công lập
2. Xác định phương pháp tuyển sinh hiệu quả;
3. Xây dựng cơ chế học phí đảm bảo quyền lợi hợp lý của cả người dạy và người học,
4. Yêu cầu các trường đại học công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình về mọi hoạt động;
5. Xây dựng quy định hợp lý về độ tuổi nghỉ hưu, nhiệm kỳ lãnh đạo, đảm bảo không bỏ phí tài năng
6. Áp dụng các mô hình và phương pháp quản trị đại học tiên tiến,
7. Nâng lương nhằm góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy;
8. Xây dựng các đại học nghiên cứu có chất lượng, vươn tới đẳng cấp quốc tế;
9. Xây dựng quy chế hội đồng trường;
10. Phát triển hơn nữa và hỗ trợ các kênh đào tạo tiến sĩ chính thức/ không chính thức, chú trọng số lượng, chất lượng
và sự cân bằng giữa các ngành khác nhau của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và công nghệ, kỹ thuật.

Ông có thể nói rõ hơn về cơ chế cùng nhau quản trị trong trường và quy chế hội đồng trường?
Nhiều năm giảng dạy ở Mỹ, tôi thấy các trường đại học ở đây được quản lý theo một mô hình kết hợp của mô hình công ty và cơ chế “cùng nhau quản trị”. Mô hình công ty thể hiện ở chỗ các trường đại học đều có hội đồng trường (hội đồng quản trị) và ban lãnh đạo (chủ tịch trường), với việc giao trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. Cơ chế “cùng nhau quản trị” thể hiện ở chỗ các giảng viên và cán bộ nhà trường tham gia khá tích cực vào công việc quản trị trường. Lãnh đạo trường thường xuyên chuyền tải thông tin đến các giảng viên, gặp gỡ trao đổi ý kiến. Các chủ tịch, hiệu trưởng trường thường xuyên đi đến các khoa để gặp gỡ giảng viên, mở các buổi chiêu đãi (nhẹ nhàng) để tạo môi trường trao đổi cởi mở với giảng viên, và thường xuyên thông báo với giảng viên mọi chuyện liên quan.
Giảng viên phân công nhau tham gia rất nhiều ban khác nhau, từ những ban rất quan trọng về ngân sách, chương trình học, thăng bậc, đến những ban ít quan trọng hơn như “Ban về bãi đậu xe”. Hội đồng trường đại học công lập hay tư thục phi lợi nhuận là một tập hợp những người được các tổ chức chính phủ hay cộng đồng tin cậy giao cho việc trông coi trường, đóng vai trò của một cơ quan giám sát các hoạt động của nhà trường, sao cho nhà trường thực hiện đúng và đầy đủ các nhiệm vụ và kế hoạch đã được thông qua trong hội đồng. Nhiệm vụ của hội đồng trường bao gồm:
–  Cử chức vụ quản trị cao nhất trong trường (chủ tịch, hiệu trưởng hay giám đốc).
–  Thông qua ngân sách hoạt động hằng năm của trường,
–  Thông qua các đầu tư cơ bản để xây dựng cơ sở vật chất của trường.
–  Thông qua các đường lối lớn về phát triển chiến lược của trường trong dài hạn về mọi mặt.
–  Giám sát các hoạt động của ban điều hành của trường, bảo vệ lợi ích của trường trước cộng đồng
–  Làm cầu nối giữa trường, các cơ quan chính phủ, địa phương, các công ty và cộng đồng;
–  Vận động gây quỹ cho trường.

Vai trò của hội đồng trường tương tự như của hội đồng quản trị, cho nên cũng có thể gọi là hội đồng quản trị. Quản trị đại học theo mô hình công ty thể hiện ở nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng trường như là hội đồng quản trị, và của hiệu trưởng, giám đốc hay chủ tịch trường như là CEO của một công ty. Thông thường, hội đồng trường không có giảng viên là nhân viên của trường tham gia, trừ chủ tịch trường (hay hiệu trưởng, giám đốc) luôn luôn là thành viên của hội đồng trường theo điều lệ. Hội đồng trường có thể có đại diện của sinh viên tham gia, nhưng không có quyền bỏ phiếu.
Các thành viên của hội đồng trường (không nhận lương, chỉ được cấp chi phí đi lại, ăn ở để tham gia họp, do một quỹ đặc biệt của nhà trường tài trợ) thường là các nhà hoạt động chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục, doanh nhân… đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu. Từ trước đến nay, chưa có một trường đại học công lập nào của Việt Nam có hội đồng trường như định nghĩa ở trên. Từ đó dẫn đến tình trạng các hoạt động của các trường đại học ở Việt Nam không được giám sát, ban giám hiệu của trường hằng năm tự đề ra các đường lối hoạt động, các chỉ tiêu, tự mình làm được đến đâu thì làm, không cần phải báo cáo, giải trình với ai cả. Theo kinh nghiệm hàng trăm năm nay của nhân loại, các cơ chế quản trị phải là cơ chế đúp, theo nghĩa có bộ phận điều hành và bộ phận kiểm tra, giám sát. Một trường đại học cần hội đồng trường để làm nhiệm vụ ấy. Chỉ có như vậy mọi kế hoạch được vạch ra mới được thi hành đầy đủ và có chất lượng.
Thực ra, phương pháp quản trị đại học nào cũng có những điểm yếu, và những ai muốn phản đối nó đều có thể dễ dàng tìm được lý lẽ. Nhưng thực tế là hầu hết các trường đại học lớn trên thế giới đều áp dụng mô hình quản trị công ty kết hợp với cơ chế cùng nhau quản trị. Trong quá trình vận hành, họ thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh để cho trường đại học của họ vượt qua mọi khó khăn tạm thời và phát triển. Chúng ta nên áp dụng ít nhất là thử nghiệm mô hình quản trị đại học này trong một hoặc một số trường đại học có quy mô tương đối lớn, để rút kinh nghiệm trước khi triển khai rộng rãi.
Trong 10 “bài toán” mà ông nêu ở trên, thứ tự ưu tiên thực hiện như thế nào và những cơ quan chức năng nào phải tham gia vào việc thực hiện ấy?
Mười “bài toán” mà tôi nêu thực chất là kiến nghị về những việc có thể làm được và cần làm ngay, vì thế có thể đồng thời thực hiện. Mỗi công việc đó đều đòi hỏi phải tiến hành với sự kiên trì, quyết tâm lớn và trong một thời gian tương đối dài. Nhưng tôi cho rằng cần phải bắt đầu ngay và phải xác lập lộ trình giải quyết, “thời gian biểu” cho từng việc. Tùy vấn đề cụ thể, cơ quan chức năng trực tiếp có thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo, hay là lãnh đạo các trường đại học và đội ngũ giảng viên. Nhưng để họ có thể làm tốt các chức năng đó thì việc đầu tiên là Chính phủ phải ban hành ngay những chính sách, quy định liên quan về giáo dục đại học.
Chính phủ nên tin tưởng vào một nhóm nhỏ các chuyên gia độc lập, các trí thức uyên bác và am hiểu về giáo dục đại học thế giới và Việt Nam. Nên tránh giao hoàn toàn việc nghiên cứu và đề xuất các chính sách liên quan đến giáo dục đại học cho Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tôi được biết hầu hết những người Việt hiện đang giảng dạy ở nước ngoài đều mong muốn và sẵn sàng tham gia góp sức mình cho sự phát triển giáo dục của đất nước.
Cảm ơn ông (DNSG)

Thứ Hai, ngày 19/10/2015 10:04 AM (GMT+7)

Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng


Bài giảng cuối cùng của GS.TSKH Vũ Quốc Phóng - nhà toán học, niềm tự hào của Ohio University lại không phải về khoa học chuyên ngành cơ bản, chỉ có những vấn đề cốt lõi về y học và câu chuyện của chính ông. 

Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng - 1
GS.TSKH Vũ Quốc Phóng

Bắt bệnh giáo dục Việt Nam: lề mề
Có lẽ đó sẽ là bài giảng cuối cùng của một nhà khoa học lỗi lạc nước Mỹ.
“Buổi lên lớp” cuối cùng của GS.TS Vũ Quốc Phóng - nhà toán học, niềm tự hào của Ohio University lại không phải về những hằng số, đạo hàm hay những gì vốn thuộc chuyên ngành cơ bản.
Những người được vinh hạnh lắng nghe tiếng ngọc cũng chẳng nhiều, vẻn vẹn ba mái đầu xanh tuổi trẻ.
Giờ học đó thật khác lạ. Ông nói về những vấn đề rất cốt lõi của y học. Ông lấy ví dụ từ chính ông, về căn bệnh ung thư quái ác vô phuơng cứu chữa đã sập đến quá nhanh. Bài giảng đó được cất lên bằng một giọng nói yếu ớt nhưng tràn đầy lạc quan, bằng một sự tỉnh táo như hồi quang phản chiếu.  
Một ngày cuối tháng 7.…  
Ở cả bờ tây nước Mỹ, nhắc đến “Thầy Phóng”, đám học sinh cả ta lẫn tây đều “ồ”, “òa” lên tiếng khâm phục. Giảng đường luôn kin đặc chỗ mỗi khi ông lên lớp. Kể cả mấy tháng qua, khi ông đang trải qua những cơn đại phẫu thì lịch giảng online vẫn luôn được học sinh ngóng chờ. Không phải chì vì Giáo sư Phóng có một kiến thức sâu rộng, mà ông truyền cho người học một cảm giác “thèm học”, “muốn học” và “học đến tận cùng”.   
Và kể cả khi nằm dưỡng bệnh, bàn tay gầy guộc đó vẫn níu lấy chiếc bút chì, dọc ngang những ý tưởng trên trang giấy trắng. …  
Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng - 2
GS Phóng vẫn miệt mài làm việc ngay cả khi đang dưỡng bệnh
Giáo sư Phóng có một góc nhìn rất khác về nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là giáo dục đại học, thứ đang thực sự là mối quan tâm lo lắng của công chúng.
Với ông, “căn bệnh” của nền giáo dục hiện nay chẳng có gì là khó hiểu. Đó là mầm mống của tính cách lề mề, nói mà không làm, vì luôn luôn nghĩ rằng kết quả làm việc của ngày hôm nay cũng không thay đổi được gì đáng kể cho việc đạt được mục tiêu, thôi thì để ngày mai làm luôn một thể. Vả lại, mục tiêu xa vời không thể đạt được qua một nhiệm kỳ, hay một thế hệ, cho nên ta dễ dàng “nhường” việc lại cho người kế tiếp, thế hệ kế tiếp. Có lẽ đó là nguyên nhân mà đã rất nhiều năm trôi đi, giáo dục đại học ở Việt Nam chỉ chủ yếu là hứa hẹn và hô hào chứ chưa thực sự có những hành động quyết liệt để thay đổi thực trạng.  
Có gì đâu, khi người ta thích đặt các bài toán thật cao siêu, thích nói đến các mục tiêu cụ thể nhưng rất xa vời, thì chắc chắn người ta cũng quên rằng, đặt mục tiêu không quan trọng bằng việc xác định đúng phương hướng.  
Tấm vé một chiều về nước ...
Đã có lần GS Phóng đăng đàn mạnh mẽ , rằng chúng ta - những người Việt Nam nên xác định hướng đi của đại học Việt Nam, của nền khoa học Việt Nam theo một lối riêng. Hãy tạo mọi điều kiện để các nhà khoa học làm việc, để các trường đại học phát triển, chứ không nên đặt các mục tiêu cụ thể, kiểu như sau 20 năm nữa sẽ có trường đứng trong danh sách 200 trường tốt nhất thế giới, hay có người Việt Nam đoạt giải thưởng Nobel về khoa học…  
Một tiếng nói mạnh mẽ chưa đủ làm nhiều thứ đổi thay, nhưng tiếng nói đó sâu sắc và dám nhìn thẳng vào sự thật. …  
Những người Việt Nam thành đạt trong lĩnh vực khoa học, làm rạng danh tên nước như vậy không nhiều.
Cũng hiếm lắm người có đôi mắt tinh anh như thế, một đôi mắt có thể trao gửi mọi thông điệp mà chẳng cần nói nên lời.
Càng hiếm lắm những người mà chỉ khi gặp một lần đã cho cảm giác thân thuộc, để khâm phục và nhớ mãi.  
Câu chuyện xúc động về bài giảng cuối cùng của GS Vũ Quốc Phóng - 3
Ngôi nhà của ông cùng những vật dụng cuối cùng đang được rao bán
Có lẽ đúng: “Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để lưu lại dấu ấn trên mặt đất, trong trái tim người khác”.
 Ngoài của nhà, tấm biển “Garage sale” đã treo. Ô tô, xe máy đến những đồ vật cuối cùng cũng đều được rao bán. Và cả ngôi nhà mái đỏ xin xắn nằm trên ngọn đồi cao yên bình này nữa, có lẽ cũng phải nói lời chia xa.   
Tấm vé một chiều về nước cũng đã định ngày.   
Giữa tia nắng ấm của mùa hè, bỗng thấy lòng giá lạnh…

GS.TSKH Vũ Quốc Phóng bảo vệ luận án tiến sĩ năm khi mới 24 tuổi tại Đại học Kharkov (Ukraine). Sau một thời gian công tác ở Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam (Viện Toán), TS. Vũ Quốc Phóng tiếp tục làm nghiên cứu sinh và đã thành công với luận án tiến sĩ khoa học toán lý - học vị cao nhất của Liên Xô vào năm 1987. Năm 1992, ông “đầu quân” về ĐH Ohio (Hoa Kỳ), được phong Phó Giáo sư (1993) và là Giáo sư chính thức từ năm 1999. Ông cũng được nhiều trường đại học của Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Hàn Quốc… mời làm giáo sư thỉnh giảng.
TS Bùi Chí Trung

Vĩnh biệt một tài năng toán học xuất sắc của Việt Nam

   Chủ nhật, 18/10/2015, 14:00 (GMT+7)
(Xã hội) - TSKH Vũ Quốc Phóng nằm trên giường bệnh để chống chọi với căn bệnh ung thư giai đoạn cuối. Dù đau đớn vì bệnh tật, nhưng ông vẫn luôn mỉm cười với bạn bè, đồng nghiệp, bà con khi đến thăm. Nắm lấy bàn tay gầy guộc của ông, ai cũng thương xót cho một tài năng toán học Việt Nam, bởi ngày ông từ giã cõi trần được tính bằng giây, bằng phút.


Nguồn :  http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/268174/vinh-biet-mot-tai-nang-toan-hoc-xuat-sac-cua-viet-nam.html  

Và, ông đã ra đi vào ngày định mệnh 27/8 âm lịch (Ất Mùi) trong niềm tiếc thương vô hạn của hàng trăm sinh viên Đại học Ohio (Mỹ) và cán bộ, GS, các nhà toán học (Viện toán học Việt Nam), cùng gia đình, bạn bè, người thân.


http://img.tintuc.vietgiaitri.com/2015/10/19/vinh-biet-mot-tai-nang-toan-hoc-xuat-sac-cua-viet-nam-960703.jpg

GS Vũ Quốc Phóng với gia đình

PGS, Phó Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam Nguyễn Việt Dũng chia sẻ, Vũ Quốc Phóng, đã chọn toàn học và toán học đã chọn ông. Suốt đời mình, từ tuổi niên thiếu cho đến phút cuối cùng ông say mê và gắn bó với toán học. Ông luôn chọn cho mình những đề tài nghiên cứu khó khăn, hóc búa và đạt nhiều két quả có giá trị đối với Giải tích hàm, Lý thuyết toán tử, Lý thuyết nửa nhóm…
“Ông là tác giả của gần 70 bài viết được xuất bản trong các tạp chí chuyên ngành có uy tín. Các kết quả nghiên cứu của ông đã được trích dẫn sử dụng trong nhiều bái báo và hàng chục đầu sách được xuất bản trên thế giới. Ông được mời làm phản biện cho hàng chục tạp chí khoa học uy tín trên thế giới. Với lòng say mê, tân tậm, bền bỉ, tài năng đã giúp ông gặt hái được nhiều thành công trên lĩnh vực toán học. Ông là nhà toán học hàng đầu của Việt Nam”, PGS Dũng khẳng định.
Sinh ra ở miền quê xứ Nghệ, trong một gia đình hiếu học. Vũ Quốc Phóng có tài năng thiên bẩm về toán học từ bé. Tốt nghiệp cấp 3, với kết quả học tập xuất sắc. Vũ Quốc Phóng được Chính phủ gửi sang Liên Xô học đại học. Ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kharkov với tấm bằng đỏ xuất sắc. Ông được trường đề nghị ở lại làm nghiên cứu sinh chuyển tiếp và bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sỹ tại Đại học Kharcov. Ông trở về nước, công tác tại Viện Toán học Việt Nam.



Chỉ vài năm sau, ông được Viện Toán học Việt Nam cử làm thực tập sinh cao cấp ở Liên Xô và năm 1987, ông bảo vệ xuất sắc Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Toán-Lý ở Viện Toán học Kiev. Từ đây, nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới mời ông làm giáo sư thỉnh giảng tại Đức, Pháp, Nhật, Hoa Kỳ, Hồng Kong… Nhiều viện nghiên cứu toán học tại mỹ, châu Âu, Trung tâm vũ trụ Na Sa còn lưu giữ nhiều bài nghiên cứu về toán của ông. Và, năm 1999 ông trở thành GS toán học của Đại học Ohio.
Dù thành công ở đỉnh cao, nhưng ông luôn có lối sống giản dị, tận tụy với công việc và có trách nhiệm giúp đỡ sinh viên có tài năng về môn toán. Ông được Đại học Ohio giao nhiều trọng trách: Chủ nhiệm khoa sau đại học, chủ tịch hội đồng xét tuyển, thi nâng ngạch giáo viên của trường. Ông là người thiết kế khóa học onlne cho Đại học Ohio và một số trường đại học khác của Mỹ và là tác giả của nhiều bài giảng từ xa.

 tài năng, toán học, xuất sắc, Vũ quốc Phóng, vietnamnet, qua đời, ung thư
GS-TSKH Vũ Quốc Phóng

Cả một đời gắn bó với toán học, Vũ Quốc Phóng luôn đau đáu về ngành Toán của Việt Nam. Vì vậy, các kỳ nghỉ hè, nghỉ đông, ông đều tranh thủ về nước dự các hội nghị về toán. Ông tham gia giảng dạy tại các trường đại học trong cả nước, cộng tác chặt chẽ với Viện Toán học Việt Nam, là câu nối giúp sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam đến với khoa Toán Đại hoc Ohio.
Những ngày cuối tháng 7. Căn bệnh ung thư quái ác đang hành hạ ông. Vũ Quốc Phóng vẫn lên lớp giảng dạy sinh viên. Bài dạy cuối cùng của ông không phải là những hàm đẳng thức, không phải là những hằng số, đạo hàm, mà về đạo làm người, về những căn bệnh quái ác mà y học hiện đại còn bó tay. Giọng nói ông cất lên yếu ớt, nhưng ánh mắt ông vẫn tràn đầy nghị lực…
Ở cả bờ tây nước Mỹ, nhắc đến “Thầy Phóng”, đám học sinh cả ta lẫn tây đều khâm phục. Giảng đường luôn kin đặc chỗ mỗi khi ông lên lớp. Kể cả mấy tháng qua, khi ông đang trải qua những cơn đại phẫu thì lịch giảng online vẫn luôn được học sinh ngóng chờ. Không phải chì vì GS Phóng có một kiến thức sâu rộng, mà ông truyền cho người học một cảm giác “thèm học”, “muốn học” và “học đến tận cùng”.
Và kể cả khi nằm dưỡng bệnh, bàn tay gầy guộc đó vẫn níu lấy chiếc bút chì, dọc ngang những ý tưởng trên trang giấy trắng. …
Ông ra đi ở tuổi 62 với nhiều dự định còn dang dở. Với ông, Việt Nam cần phải thay đổi tư duy giáo dục đại học, đừng lề mề nữa, cần phải có những bước đi cụ thể, thích hợp và phải nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Vĩnh biệt ông! Một tài năng toán học xuất sắc của Viêt Nam.
(Theo Vietnamnet)

Monday, October 19, 2015

Gs Vũ Quốc Phóng

Nguồn :  http://tuanvannguyen.blogspot.com/2015/10/gs-vu-quoc-phong.html


Tối nay, đọc một tin rất sốc với cá nhân tôi: Gs Vũ Quốc Phóng qua đời ở tuổi 62! Anh Phóng (xem hình) là một trong những đồng hương Ohio của tôi ngày xưa, và dù ít liên lạc, nhưng chúng tôi rất thân tình. Bẵng đi một thời gian thì nghe hung tin này (1). Tin anh Phóng qua đời làm tôi nhớ lại những kỉ niệm thời xưa ...


Trong "hội" Ohio ngày xưa gồm có các gia đình anh chị LTThành, VQPhóng, PHTiệp, và vài bạn mới qua sau này. Anh Thành là dân Thái Lọ, học ở Anh, sang Mĩ "tị nạn" ở Columbus. Anh Phóng là dân Nghệ An, mà tôi hay gọi đùa là Do Thái của Việt Nam, và cô vợ lúc đó mới sang mà chúng tôi gọi là hoa hậu vì cô ấy rất xinh gái. Tuần nào, chúng tôi cũng tụ tập ở nhà anh Thành tán gẫu và đàm đạo, vì lí do đơn giản là chị Lan (bà xã anh Thành) nấu phở rất ngon. Nhưng cũng có khi chúng tôi lái xe lên Athens chỗ anh Phóng định cư. Tôi gặp anh Phóng và bà xã của anh ở đó rất thường xuyên.
Anh Phóng giảng dạy ở ĐH Ohio (Thành phố Athens), một đại học có khuôn viên rất đẹp, cách Columbus khoảng 2 giờ lái xe (nếu tôi nhớ không lầm). Tôi chỉ biết anh từng học ở Liên Xô cũ, và sau khi khối xã hội chủ nghĩa sụp đổ, anh "trôi dạt" sang Mĩ và được Mĩ trọng dụng, để sau này thành một giáo sư toán của Mĩ. Anh có một trang ResearchGate nhưng tôi chắc chắn rằng anh không cập nhật hóa vì tôi biết thành tích khoa học của anh lẫy lừng hơn cái trang đơn giản này. Anh ít khi nào nói về mình và công việc của anh, nhưng học trò anh đều không tiếc lời khen anh là một người thầy tuyệt vời, người truyền cảm hứng toán mà hiếm thấy một giáo sư Mĩ nào có thể làm được. Không chỉ là một người thầy truyền cảm hứng khoa học, anh còn được học trò mến anh ở cái tính thân thiện, lúc nào cũng cười, và hình như chẳng làm phiền ai.
Anh là người có công giúp đỡ các em nghiên cứu sinh bên nhà sang Mĩ học và ở lại luôn. Chẳng những thế, anh còn "lôi kéo" những người đã thành danh ở VN sang và được bổ nhiệm chức danh giáo sư ở ĐH Ohio. Biết anh rất mê mô hình dạy trực tuyến, dạo đó, tôi có ý định làm một series trực tuyến để hướng dẫn dạy toán cho học sinh trung học, nhưng anh Phóng lắc đầu nói "Ông với status như thế thì làm chi mấy chuyện cỏn con đó". Cái giọng Nghệ An của anh nghe rất thuyết phục. Anh nhắc đi nhắc lại cái ý này mỗi khi tôi bàn về dự án, và quả thật sau này thì tôi không theo đuổi dự án đó nữa.

Anh Phóng là típ người ít nói. Trong các buổi trò chuyện, anh cười cười và lắng nghe người khác nói là chính, nhưng khi đã nói là rất hăng và hùng biện. Nhớ lúc đó bàn chuyện ông Clinton bị vướn vụ Monica Lewinsky, anh Phóng ông Clinton sẽ tại vị vì người Mĩ họ phân biệt cá nhân ông tổng thống và chức vụ tổng thống. Không như các bạn khác, anh Phóng rất ít nói gì về tình hình Việt Nam, vì anh không đánh giá cao những chính sách của chính phủ bên đó.
Thế rồi theo dòng đời, tôi quay về Úc, tạm biệt "Hội Ohio", và không có dịp gặp anh Phóng lần nữa. Chúng tôi chỉ trao đổi qua email để hỏi han công việc. Anh theo dõi đều những bài viết của tôi về giáo dục, và mỗi lần đọc được ý gì tâm đắc anh gửi tôi một email động viên. Tôi hỏi sao anh không đóng góp ý kiến cho bên nhà, vì với vị thế anh, anh có thể làm nhiều hơn nữa cho quê nhà, nhưng anh chỉ khiêm tốn nói rằng "Ông đã nói hết rồi".
Dù không gặp anh, nhưng qua bạn bè và anh Thành, tôi vẫn hỏi và theo dõi công việc của anh. Tôi cũng mừng khi biết anh có duyên mới và hạnh phúc mới, và nghĩ một ngày sẽ quay lại ghé thăm Hội Ohio. Ấy thế mà tôi không thể nào ngờ rằng anh bị bệnh vì anh ấy rất khoẻ mạnh. Tôi càng không ngờ anh bị căn bệnh quái ác ung thư cướp lấy cuộc đời của anh! Sự ra đi của anh là một sự mất mát của cộng đồng toán học Việt Nam, và tôi mất một người bạn mà tôi hằng mến mộ.
Sự ra đi của anh quả thật làm cho tôi thấy cuộc đời này sao quá mong manh. Mới gặp đó rồi chợt vụt biến. Đúng như câu “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, vạn mộc xuân vinh thu hựu khô” của Thiền sư Vạn Hạnh. Tôi xin có lời chia buồn sâu sắc đến gia đình anh Phóng, và cầu mong cho linh hồn anh sớm siêu sanh về cõi lành.
===
(1) http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/268174/vinh-biet-mot-tai-nang-toan-hoc-xuat-sac-cua-viet-nam.html
 

Cán bộ cũ của Viện

Cán bộ nghiên cứu

Nguồn : http://math.ac.vn/


Họ và  tên Học hàm, học vị lúc công tác tại Viện Thời gian làm việc tại Viện Ghi chú
Hà Lê Anh CN 1973-1986  Đã mất
Nguyễn Việt Anh TS 2005-2012 Hiện là TSKH, giảng viên Đại học Paris 11
Trần Thị Lan Anh TS

Phạm Trà Ân PGS TS 1970-2007 Nghỉ hưu
Nguyễn Lương Bách TS 1982-2004
Trần Quốc Bình  Ths 1990-1995
Bùi Công Cường PGS TSKH 1970-2004 Nghỉ hưu
Lê Văn Chóng TS 1978-2009 Đã mất
Nguyễn Ngọc Chu TS 1981-2010
Lê Ngọc Chuyên  TS 1986-1995
Đỗ Ngọc Cường  CN 1982-2005 Đã mất
Lê Hữu Diện  TS

Hoàng Đình Dung PGS TS 1970-2004 Đã mất năm 2014
Nguyễn Việt Dũng (Đại số) TS 1983-2009 Hiện là GS TSKH, giảng dạy ĐH Ohio
Phạm Cảnh Dương TS 1973-2009
Nguyễn Tiến Đại TS 1976-2012 Nghỉ hưu
Bùi Khởi Đàm PGS TS 1978-1999
Vũ Văn Đạt TS 1974-2010 Nghỉ hưu
Lê Văn Điền  TS 1976-1993
Phạm Huy Điển PGS TSKH 1976-2009
Nguyễn Hữu Điển TS 1977-2007 Hiện là PGS, giảng viên ĐH Khoa học tự nhiên Hà Nội 
Chử Văn Đông  TS 1977-1995
Nguyễn Hồng Đức TS 2007-2013
Nguyễn Hữu Đức TS 1976-1984 PGS TSKH, Hiệu trưởng ĐH Đà Lạt. Đã mất
Nguyễn Văn Gia PGS TSKH 1970-1985
Dương Duy Hải  CN       -1982  Đã mất
Đặng Hấn  CN 1966-1985
Phạm Dương Hiển  CN 1974-1977
Trần Vinh Hiển  TS 1970-1983
Lê Hội TS 1978-2002 Nghỉ hưu
Trần Huy Hổ


Đinh Văn Huỳnh GS TSKH 1978-2008 Nghỉ hưu. Hiện giảng dậy ĐH Ohio
Phan Huy Khải PGS TS 1970-2011 Nghỉ hưu
Lê Xuân Lam
1970-1976
Phan Trung Lâm CN  1986-1995
Trần Gia Lịch PGS TS 1970-2006 Nghỉ hưu
Nguyễn Kim Liên


Trần Vĩnh Linh TS 2003 - 2014
Nguyễn Khắc Lộc  CN 1975-1983 Đã mất
Lê Kim Luật CN  1982-1988
Lê Trọng Lục  CN 1970-2012 Nghỉ hưu (năm 2012)
Đinh Thế Lục GS TSKH 1975-2012 Phó Viện trưởng,
1995-1998
Đinh Quang Lưu PGS TSKH 1978-2005 Đã mất
Đỗ Văn Lưu PGS TS 1970-2009 Phó Viện trưởng,
1995-2000, Nghỉ hưu
Nguyễn Sĩ Minh TS 1976-2012 Nghỉ hưu
Nguyễn Hồng Minh CN  1982-1993
Trịnh Ngọc Minh  TS 1983-
Nguyễn Văn Ngọc TS 1975-2009 Nghỉ hưu
Nguyễn Tố Như  PGS TSKH 1982-2005 Hiện là GS, giảng dạy ĐH Ohio
Nguyễn Ngọc Phan Ths 2002-2013
Vũ Quốc Phóng TSKH 1981-2003   GS, giảng dạy ĐH Ohio. Đã mất (năm 2015).
Phạm Hồng Quang TS 1984-2009
Tạ Hồng Quảng


Đỗ Văn Sĩ


Nguyễn Văn Sinh


Hà Huy Tài TS. 2001-2010
Bùi Thế Tâm PGS. TS. 1970-2013 Nghỉ hưu
Đỗ Hồng Tân PGS. TSKH.  1970-2002 Nghỉ hưu
Lê Thanh


Dương Chí Thành
1974-1976
Lê Công Thành TS.
Nghỉ hưu
Lê Văn Thành PGS. TS. 1970-2009 Đã mất
Trần Hùng Thao PGS. TS. 1970-2005 Nghỉ hưu
Lê Văn Thiêm GS 1970-1985 Viện trưởng Viện
Toán học 1970-1980
Đã mất năm 1991,
Lê Quang Thiệp


Trần Vũ Thiệu GS. TS. 1970-2007 Nghỉ hưu
Nguyễn Văn Thoại GS. TS.

Nguyễn Văn Thu GS. TSKH. 1978-2006
Nguyễn Hữu Trợ TS. 1973-1995 và 2001-2003
Hà Thành Trung
2005-2013
Ngô  Anh Tú TS.

Nguyễn Đức Tuấn TS  1983 - 2014  Đã mất năm 2014
Trần Manh Tuấn GS. TS. 1970-2003 Phó viện trưởng
Viện Toán 1985-1990,
Nghỉ hưu
Đào Quang Tuyến TS. 1974-2010
Ngô Đạt Tứ
1970-1987 Đã mất
Đỗ Long Vân GS. TSKH. 1970-2007 Nghỉ hưu
Trần Đức Vân GS. TSKH. 1981-2011 Viện trưởng  1995-2000,
Đã mất năm 2001
Hồ Hữu Việt TS.

Nguyễn Khắc Việt TSKH.

Cán bộ Văn phòng
Họ và  tên Học vị, học hàm Thời gian làm việc Ghi chú
Đào Viết Bồng

Nghỉ hưu
Hà Thị Cận
1979-2004 Nghỉ hưu
Nguyễn Thị Côi
1970-1992 Đã mất
Vương Ngọc Châu
1970-1998 Nghỉ hưu
Đỗ Ngọc Cường

Đã mất
Nguyễn Lan Dân
1979-2015 Nghỉ hưu
Võ Thị Gái
1979-2005 Nghỉ hưu
Văn Thị Xuân Hương

Nghỉ hưu
Trịnh Bá Kiểm
1982-2004 Nghỉ hưu
Trần Thị Kim Khuyến
1970-1992 Đã mất
Phạm Tuấn Mỹ


Phùng Ngọc Nghiêm


Trần Cao Nguyên


Hoàng Minh Phong


Vũ Đình Tích


Nguyễn Văn Tiến


Mai Văn Toan


Lê Khánh Vân



Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

DANH NHÂN VIỆT .


DANH NHÂN VIỆT .


Hai anh em - hai nhà khoa học Việt kiều nổi tiếng

Vietsciences-   Bình Minh                 16/08/2009


Trong cộng đồng người Việt tại Pháp có hai nhà khoa học nổi tiếng cùng sinh ra trong một gia đình. Đó là ông Nguyễn Quang Riệu, nhà thiên văn học, và ông Nguyễn Quý Đạo, nhà hóa học. Cả hai đều là tiến sĩ, Giám đốc nghiên cứu danh dự của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), đã từng có những công trình khoa học được giới chuyên môn đánh giá cao và có nhiều đóng góp cho cả Pháp và Việt Nam.



Ông Nguyễn Quang Riệu và  Nguyễn Quý Đạo

Trong cộng đồng người Việt tại Pháp có hai nhà khoa học nổi tiếng cùng sinh ra trong một gia đình. Đó là ông Nguyễn Quang Riệu, nhà thiên văn học, và ông Nguyễn Quý Đạo, nhà hóa học. Cả hai đều là tiến sĩ, Giám đốc nghiên cứu danh dự của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), đã từng có những công trình khoa học được giới chuyên môn đánh giá cao và có nhiều đóng góp cho cả Pháp và Việt Nam.

Ông Nguyễn Quang Riệu và ông Nguyễn Quý Đạo quê ở Hải Phòng. Hai ông được gia đình gửi sang Pháp du học từ khi còn trẻ. Theo lời ông Nguyễn Quang Riệu, quãng thời gian học đại học là thời kỳ khó khăn nhất đối với hai anh em ông vì lúc đó tại quê nhà đang có chiến tranh, hai ông mất liên lạc với gia đình. Để có tiền giúp hai anh em sinh sống và tiếp tục học tập ông Riệu phải vừa học vừa làm nhiều nghề, trong đó có nghề dạy kèm và trợ giảng. Bằng ý chí quyết tâm và nghị lực của mình, hai anh em ông đã vượt qua giai đoạn khó khăn đó và đã tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, sau đó đoạt bằng tiến sĩ và trở thành các nhà nghiên cứu khoa học nổi tiếng. Ông Nguyễn Quang Riệu làm ở Đài Thiên văn Paris, đã từng công bố hàng trăm công trình khoa học nghiên cứu về các vấn đề của vũ trụ như các tia bức xạ vũ trụ hoặc các nguyên tố hóa học có khả năng dẫn đến sự sống trong dải Ngân Hà. Năm 1972 ông Riệu xác định được vụ nổ trên chòm sao Thiên Nga và đó được coi là một trong những phát hiện quan trọng trong ngành Thiên văn. Viện Hàn lâm khoa học Pháp đánh giá cao các công trình nghiên cứu của ông Nguyễn Quang Riêu. Với đóng góp đó năm 1973 ông được Đài Thiên văn Paris trao giải thưởng. Ông Nguyễn Quý Đạo cũng rất thành công trong nghề nghiệp của mình. Ông là tác giả của hơn 300 tài liệu nghiên cứu khoa học và là chủ nhân của ba bằng sáng chế, được nhiều trường đại học trên thế giới mời thuyết trình.
Có một điều đặc biệt là cả hai anh em ông Nguyễn Quang Riệu và ông Nguyễn Quý Đạo tuy sống nhiều năm ở nước ngoài nhưng vẫn nặng lòng với quê hương, đất nước. Trong các dịp trò chuyện với hai ông, tôi, người viết bài này, đã từng được nghe các ông hào hứng kể về cảm giác vui sướng của mình khi nghe tin Việt Nam chiến thắng ngoại xâm, tái lập hòa bình. Với các ông, hòa bình không chỉ mang lại hạnh phúc cho người dân trong nước mà còn tạo điều kiện để hai anh em ông về quê góp phần cống hiến cho quê hương. Sau ngày đất nước thống nhất, hai ông đều về nước rất sớm. Kể từ đó đến nay hai anh em ông Nguyễn Quang Riệu và Nguyễn Quý Đạo đã về Việt Nam nhiều lần. Ông Nguyễn Quang Riệu thì tham gia các khóa giảng dạy về vật thiên văn tại các trường đại học, nói chuyện về khoa học vũ trụ, làm việc với các cơ quan hữu quan Pháp để xin các xuất học bổng cho sinh viên Việt Nam. Ông còn viết sách về thiên văn bằng tiếng Việt và xuất bản ở trong nước để phổ biến kiến thức về vũ trụ học cho mọi người. Tôi đã từng dự một buổi nói chuyện của ông, thấy ông hào hứng, say sưa nói về vụ nổ bigbang, về vũ trụ thuở sơ khai, về các hành tinh và các thiên hà với các cử tọa mà đa số đều là những người chưa biết gì nhiều về thiên văn học. Điều đó cho thấy ông Riệu say mê công việc của mình như thế nào. Dường như với ông, quan sát các vì sao, nghiên cứu đời sống bí ẩn của chúng là một niềm hạnh phúc và ông muốn chia sẻ niềm hạnh phúc đó cho tất cả mọi người.

Để phổ biến các hiểu biết về khoa học thiên văn và khoa học môi trường tới nhiều người, ông viết một loạt sách khoa học thuộc loại dễ đọc bằng tiếng Việt, trong đó các cuốn như “Phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại”, “Lang thang trên dải Ngân Hà”, “Sông Ngân khi tỏ khi mờ”, “Bầu trời tuổi thơ” và “Con đương đến với những vì sao” để in và xuất bản tại Việt Nam.

Giống như anh mình, ông Nguyễn Quý Đạo cũng luôn quan tâm tới đất nước và tìm cách đóng góp công sức tài năng cho quê hương. Trong những lần về nước ông Đạo đã cùng các nhà khoa học Việt Nam thực hiện nhiều công trình khoa học có giá trị. Ông rất quan tâm đến việc đào tạo các nhân tài cho Việt Nam và đã từng kiến nghị Nhà nước mạnh dạn đầu tư xây dựng cơ sở trang thiết bị nghiên cứu hiện đại nhằm tạo điều kiện làm việc cho các nhà khoa học trong nước, đồng thời góp phần thu hút chất xám của kiều bào cũng như chất xám của các nhà khoa học trên thế giới, mở ra các cơ hội hợp tác quốc tế, đưa đến việc thực hiện các công trình nghiên cứu mang tầm vóc quốc tế ngay tại Việt Nam. Ông Đạo đã được trao danh hiệu “Vinh danh nước Việt 2005”, do có nhiều đóng góp cho đất nước.

http://baodaidoanket.net/ddk/mdNews.ddk?masterId=90&categoryId=218&id=19504



            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org



GS Tạ Quang Bửu, tấm gương và những lời căn dặn

Vietsciences-Nguyễn Lân Dũng              31/03/2010

           Trong những ngày này, khi nói đến những giải pháp giải quyết những bất cập, lạc hậu, bệnh hình thức, giả dối kéo dài trong nền giáo dục nước nhà, nhiều trí thức thường nhắc đến tấm gương và những di huấn của GS Tạ Quang Bửu (1910-1986), Bộ trưởng bộ Quốc phòng thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp và Bộ trưởng bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp đầu tiên, nhà bác học lớn của đất nước, một “Lê Quý Đôn thời đại Hồ Chí Minh". Đó là một nhà trí thức từ hơn 40 năm trước đã kiên tâm phấn đấu cho một nền giáo dục “thực dạy, thực học", "học đi đôi với hành" và đã sớm chỉ ra rằng đất nước không thể tiến lên được nếu không thanh toán được một nền sản xuất không có kỹ thuật và một nền kỹ thuật thiếu cơ sở khoa học, tức là nếu không sớm vươn lên một nền kinh tế tri thức như cách gọi hôm nay. 

            Giáo sư Bửu có sự uyên bác rất kỳ lạ. Tôi chỉ nói một khía cạnh nhỏ, đó là lĩnh vực Sinh học- một lĩnh vực khác hẳn với chuyên ngành Toán học, chuyên ngành mà ông đã lấy bằng Tú tài Toán từ năm 1929, và sau đó là những năm được đào tạo chính quy ở các Đại học Paris, Bordeaux (Pháp) và Oxford (Anh)... 
         Trong kháng chiến chống Pháp, khi bố tôi làm Giám đốc Giáo dục Liên khu X, có lần Cụ đã mang về nhà cuốn sách “Sống” và cuốn “Vui sống” do GS Tạ Quang Bửu viết, được in trên giấy dó. Tôi còn nhỏ quá nên đọc không hiểu. Sau này học đại học chuyên ngành Sinh học tôi mới có điều kiện đọc lại. 
          Phải nói là kỳ lạ vì GS Bửu viết ra những điều rất uyên bác ấy vào năm 1948, nghĩa là 5 năm trước khi J.D. Watson và F.H.C. Crick khám phá ra cấu trúc ADN, mở màn cho thời đại Sinh học phân tử. Thời ấy mà GS Bửu đã viết được: Ngoài chromosome (nay gọi là nhiễm sắc thể- NLD) thì tế bào chỉ chứa những hóa chất không có gì đặc sắc... Nhưng số đặc tính trong một con người lớn hơn số chromosome nhiều, nên các đặc tính ấy chỉ có thể chiếm những phần tử rất bé của chromosome: mỗi đặc tính sẽ chiếm một căn cứ gọi là gen...Một chromosome là một chuỗi gồm 2000 gen và như thế chiều dài của mỗi gen không quá 3/10000mm hay ba trăm Angstrom. Theo đó một gen dài bằng một trăm lần khoảng cách giữa hai nguyên tử trong một khí. Còn bao nhiêu khái niệm hiện đại khác mà GS Bửu ghi bằng tiếng Anh. Bất kỳ nhà Sinh học nào đọc lại cuốn sách mỏng này và nhớ rằng GS Bửu viết ra vào năm 1948 thì chỉ có thể từ ngạc nhiên đến khâm phục.
           Ngày nay, khi các nhà Sinh học trên thế giới bắt đầu chuyển sang nghiên cứu Sinh học lượng tử (Quantum Biology) thì ngay trong cuốn sách rất mỏng kia GS Bửu đã khẳng định được rằng: Gen, phân tử khổng lồ, theo thuyết Delbruck, cũng là một hệ thống phải cắt nghĩa bằng những định luật của Lượng tử học. Tiếc rằng tác phẩm này GS Bửu viết bằng tiếng Việt chứ nếu không chắc hẳn phải được coi là một trong những trước tác kinh điển của giới Sinh học quốc tế, vì trong đó đã có những tiên đoán rất khoa học. 
         Về những uyên bác trong Toán học và Vật lý học của GS Bửu chắc chúng ta đều đã biết rõ. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi biết GS Bửu là người cùng KS. Phạm Quang Lễ (tức GS Trần Đại Nghĩa sau này) đã lên Thái Nguyên thử đạn bazôca của Mỹ ngay sau khi KS Lễ vừa theo Bác Hồ từ Pháp về Hà Nội. Ông không chỉ uyên bác về kiến thức mà rất tài hoa trong việc viết tài liệu phổ biến khoa học. Cái khó mà tôi cố học ở ông là: viết thế nào để ai đọc cũng thấy những cái mới nhưng ai đọc cũng hiểu được, hay ít nhiều hiểu được nội dung chủ yếu.

         Sự uyên bác của GS Bửu gắn liền với tinh thần tự học suốt đời của ông. Ông chỉ có bằng Cử nhân trong tay, cho nên khi có người hỏi bằng cấp nào cao nhất mà ông có thì người ta đồn rằng ông đã trả lời là Bằng bơi lội do Hoàng gia Anh cấp. 
         Ông miệt mài đọc sách và chọn toàn những quyển cốt lõi nhất để đọc. Thí dụ như về Sinh học ông chọn cuốn Was ist leben? của Erwin Schrödinger qua bản dịch tiếng Đức (vì không có nguyên bản tiếng Anh). Ông thông thạo tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga và cả chữ Hán nữa. Khi đã ở cương vị lãnh đạo cao, GS Bửu vẫn đều đặn đến thư viện khoa học để tự chọn sách mượn về đọc. 
       Là người lãnh đạo ngành đại học và trung học chuyên nghiệp trong 11 năm trời, GS Bửu đã đặt nền móng cho sự nghiệp đào tạo không chỉ cho hai ngành này mà cả cho ngành giáo dục phổ thông nữa. 
         Xin nhắc lại một số ý kiến mà GS Bửu đã từng phát biểu: Mục đích phấn đấu của chúng ta là làm cho học sinh tốt nghiệp lớp 10 phải biết làm một số việc như biến đổi đại số, giải một số phương trình đại số, tính được một số đạo hàm, vẽ một số đồ thị; còn về mặt hình học cũng phải biết làm một số động tác cần cho các chứng minh và cho việc dựng hình. Biết làm là chủ yếu còn biết nhiều về toán hoc chỉ là yêu cầu phụ và chúng ta phải làm sao cho học sinh thông qua biết làm mà biết nhiều và biết sâu...Thầy cần tránh nói sai để sau phải cải chính lại, vì cải chính chỉ xóa bỏ cái sai của thầy chứ không xóa được cái sai mà trò đã tiếp thu...Ở bậc phổ thông, bài tập nên theo sát từng đợt các bài giảng để học sinh nắm vững định nghĩa và quy tắc. Rõ ràng không cần nhiều bài tập mà cần một số ít nhưng thật tiêu biểu, nhất định phải làm được... Thần đồng toán học là một quá trình xây dựng chứ không phải là một hiện tượng bẩm sinh... Chúng ta nên kiên quyết tập cho học sinh từ bé cân nhắc trước khi viết, biết quý sự viết ít mà đúng...Hình như chúng ta chưa làm được bao nhiêu so với các lời căn dặn của GS Bửu. 
         Trong gần một thập kỷ phụ trách việc xây dựng và quản lý nền khoa học và công nghệ nước ta, GS Bửu cũng đã có biết bao chính kiến cơ bản và thỏa đáng. Chúng ta không thể quên những lời chỉ bảo của ông, chẳng hạn như: Kỹ thuật là nhập cảng, là bắt chước, rồi cải tiến, sáng tạo trong cái bắt chước... Tất nhiên chúng ta càng phải sáng tạo.Nhưng sáng tạo ở đâu? Sáng tạo thế nào? Sáng tạo để làm gì? Chưa thật rõ ràng lắm. Phải chăng chúng ta phải sáng tạo để nâng cao hiệu suất và chất lượng? Ý thức về chất lượng, kỷ luật và chất lượng của chúng ta còn thấp. Cứ như vậy mãi, sẽ khó mà có tiến bộ kỹ thuật, đừng nói gì đến cách mạng kỹ thuật… Chúng ta phải thanh toán càng nhanh càng tốt hiện tượng sản xuất không có kỹ thuật. Hơn nữa, chúng ta phải tiến đến thanh toán kỹ thuật không có cơ sở khoa học... Trường chúng ta phải là trường vừa học vừa làm để đào tạo ra những người vừa làm vừa học...
         GS Tạ Quang Bửu có một nhân cách hết sức quý giá. Chưa bao giờ ông lo nghĩ cho riêng bản thân mình. Nghe nói ông dùng chiếc TV đen trắng cho mãi đến khi người con rể tặng ông một chiếc TV màu. Ông rất gần gũi với mọi người và biết chọn trong mỗi ngành những người giỏi để trực tiếp giao nhiệm vụ. Ông giao cho những việc rất cụ thể và tận tình hướng dẫn để có thể làm bằng được. Đi công tác địa phương ông kéo những cán bộ này đi theo và chỉ định những nhiệm vụ khoa học cần giải quyết. Càng giỏi càng khiêm tốn và càng biết tin dùng lớp trẻ. Đó là bài học không phải ai cũng có thể học được.


       Giáo sư Tạ Quang Bửu đã chia tay với chúng ta 24 năm rồi, nhưng tấm gương và những lời căn dặn của ông luôn còn mãi trong những người được có dịp làm việc với ông, những học trò của ông và tất cả những ai được biết đến về tài năng và nhân cách của ông.


            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org    Nguyễn Lân Dũng

Tin tức / Việt Nam

Chàng lao công gốc Việt trở thành khoa học gia không gian vũ trụ của Mỹ


Tiến sĩ Phạm Đăng Khánh.

Trà Mi-VOA
27.06.2015

Một thanh niên làm lao công cho các cửa hàng trong những khu mua sắm khi sang Mỹ tỵ nạn trở thành một nhà khoa học không gian vũ trụ của Trung tâm Thí nghiệm Nghiên cứu Không quân Hoa Kỳ sau 25 năm miệt mài vượt khó vươn lên.

Đó là câu chuyện thành công của Tiến sĩ Phạm Đăng Khánh, cháu nội đích tôn của sử gia nổi tiếng Phạm Văn Sơn và là cháu ngoại của nhà thơ lừng danh một thời Bàng Bá Lân.

Đến Mỹ năm 1991 theo diện HO vì bố mẹ là cựu tù nhân chính trị từng làm việc cho chính phủ Mỹ trước năm 1975, chàng thanh niên 19 tuổi quyết tâm theo đuổi ‘giấc mơ Mỹ’, phấn đấu tiến thân bằng con đường học vấn.

Ý chí kiên trì và những nỗ lực không ngừng đã mang về cho anh những thành quả đáng nể. Trong số này phải kể tới hàng trăm bài viết nghiên cứu khoa học cùng hàng chục giải thưởng của Không quân Hoa Kỳ như Huy chương Không quân về Thành tựu dân sự, Giải Kỹ sư Không quân Xuất sắc, Bài nghiên cứu Xuất sắc nhất năm. Anh cũng là thành viên phê bình trong các ủy ban luận án Tiến sĩ và Thạc sĩ tại các trường đại học Mỹ, cố vấn nghiên cứu cho các cơ quan khoa học danh tiếng của Mỹ như Cơ quan Phòng thủ Tên lửa, Cơ quan Dự án Nghiên cứu Quốc phòng cao cấp, Hội Kỹ thuật Khoa học Quốc phòng Hoa Kỳ..v..v..

Tạp chí Thanh niên VOA hôm nay mời các bạn cùng gặp gỡ tấm gương thành công Phạm Đăng Khánh, niềm tự hào của người Việt hải ngoại.

Bấm vào đây để nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn
******************************************************************************


******************************************************************************
TS. Khánh: Khi tôi đến Mỹ, mọi sự đều bỡ ngỡ về văn hóa, lịch sử, phong tục-tập quán. Khó khăn lớn nhất đối với tôi và cả gia đình là không có đủ khả năng đọc hiểu và nói tiếng Anh. Bản thân tôi phải bắt đầu lại con đường học vấn từ lớp 10. Các khó khăn về kinh tế người tỵ nạn nào cũng phải đương đầu, nhưng mình cũng phải cố gắng. Tôi cùng với em trai mỗi sáng sớm phải đi làm thêm. Sáng sớm, chúng tôi đi dọn dẹp, lau chùi các cửa hàng to trong các khu thương mại lớn. Mình làm 2-3 tiếng/ngày, và đi học cho tới 10 giờ đêm. Lên thạc sĩ, mình được học bổng. Mình biết tiết kiệm nên tiền học bổng cũng đủ trang trải các chi phí như đi lại, xe cộ, bảo hiểm.

Trà Mi: Với những cái giá đã trả để có được vị trí hôm nay, nhìn lại, anh nghiệm ra cho mình điều gì?

TS. Khánh: Tôi nghĩ mình lúc nào cũng nên luôn làm việc chăm chỉ, không được hài lòng với những gì đạt được, và con đường đó lúc nào cũng đòi hỏi những hy sinh. Chẳng hạn như vì công việc, thời gian của tôi dành cho gia đình đã bị ít đi.

Trà Mi: Tư chất ham học, nỗ lực, và sự may mắn chiếm tỷ lệ thế nào trong sự thành công của anh?

TS. Khánh: Tinh thần học hỏi và sự nỗ lực, hai tố chất này cộng lại chiếm 90%. Còn lại là do sự may mắn hay do cơ hội chính mình tự tạo nên. Những người tỵ nạn như tôi khi gặp khó khăn mà không biết cách giải quyết vấn đề và đương đầu với khó khăn một cách tích cực thì rất khó khăn. Làm sao để vượt qua và tìm phương hướng tùy thuộc vào bản thân mỗi người kèm theo các yếu tố tác động xung quanh từ gia đình.

Trà Mi: Nếu đặt tất cả những bí quyết thành công anh vừa kể vào môi trường ở Việt Nam, anh nghĩ đích đến của mình có giống ngày hôm nay không?

TS. Khánh: Chị hỏi một câu rất sát thực tế. Những tố chất về nỗ lực, ham học, sự giúp đỡ của những người xung quanh thì ở trong hay ngoài nước mình đều có được, nhưng môi trường nuôi nấng nghiên cứu và các chính sách hay những khuyến khích từ các cơ quan, hội đồng khoa học rất quan trọng. Có thể trong nước đang dần dần có môi trường này nhiều hơn so với những năm trước, nhưng những điều kiện đó không thể nào bằng được bên Mỹ này.

Trà Mi: Có nhiều con đường để thành công, vì sao anh chọn theo đuổi con đường khoa học đầy cam go đòi hỏi rất nhiều kỳ công và chất xám để tiến thân?

TS. Khánh: Lĩnh vực khoa học luôn năng động, thay đổi, biến động nên tôi muốn đóng góp một phần nào đó cho hướng đi này.

Trà Mi: Thành tựu hôm nay đạt được trên đất Mỹ có ý nghĩa thế nào đối với anh, một người tỵ nạn gốc Việt?

TS. Khánh: Tôi vẫn luôn tự hào mình là người Việt Nam và đề ra mục tiêu dài hạn là hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu sáng tạo do người Việt đứng đầu hoặc các chuyên gia người Việt ở đây.

Trà Mi: Vì sao mục tiêu đó chỉ mới giới hạn ở cộng đồng người Việt ở Mỹ? Anh có bao giờ nghĩ tới mình có thể làm gì để đóng góp, giúp đỡ nơi chôn nhau cắt rốn của mình chăng?

TS. Khánh: Câu hỏi này tương đối rất khó. Bất kỳ thể chế nào muốn thu hút nhân tài về giúp nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu đất nước trân trọng sự phát triển về khoa học, thúc đẩy và động viên tinh thần nghiên cứu khoa học thì ai cũng muốn về giúp đỡ cả. Hiện nay, tôi biết vài nhân tài người Việt bên này đang hợp tác với các cơ quan hữu trách ở Việt Nam để nâng cấp giáo dục đại học. Nhân tài người Việt ở nước ngoài đang dần dần trở về hợp tác và giúp đỡ phát triển kinh tế trong nước. Tôi nghĩ nếu môi trường và các điều kiện trong nước thích hợp với các nhân tài bên này và tạo điều kiện cho họ phát triển tài năng và lương bổng gần gần với bên này thì dần dần họ sẽ trở về thôi.

Trà Mi: Theo ý kiến của Tiến sĩ, học vấn cao và vị trí lãnh đạo có phải là thước đo chính xác về sự thành công của người trẻ hay không?

TS. Khánh: Tôi nghĩ học vấn vẫn là một công cụ nhiều tiềm năng. Về tinh thần lãnh đạo, đối với giới trẻ, nếu mình có vị trí cao trong một cơ quan hay tổ chức nào đó, mình nên truyền đạt tinh thần đóng góp tích cực và tinh thần tự nguyện. Tinh thần lãnh đạo và học vấn, hai điều này phải luôn đi đôi với nhau.

Trà Mi: Một lời khuyên cho các bạn trẻ ngưỡng mộ thành quả anh đạt được, anh sẽ nói gì?

TS. Khánh: Tôi muốn gửi đến các bạn trẻ một lời khuyên đơn giản thôi, đó là phải luôn luôn làm việc tích cực, ham học và hướng tới. Đây là những bí quyết đã giúp tôi thành công. Và mình cũng không nên quên nguồn gốc gia đình của mình và bản thân mình là ai.

Trà Mi: Xin cảm ơn Tiến sĩ Khánh rất nhiều về thời gian dành cho cuộc trao đổi hôm nay.


Chùm ảnh GS Bùi Trọng Liễu trong cuốn sách «Học gần Học xa»

Vietsciences        10/03/2010




 

Ảnh 1: Bùi Trọng Liễu (đứng giữa) và hai con, cùng trong lễ phục giáo sư đại học Pháp, 2003.
Ảnh 2 : Vợ chồng thuở chưa cưới, ảnh chụp trước lâu đài Chantilly, 1961.
Ảnh 3 : Với ông bà Tạ Quang Bửu vào dịp tác giả được mời về nước (1970), thí điểm cho việc Việt kiều về nước làm việc ngắn hạn. Lúc đó ông Bửu là bộ trưởng bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (ảnh chụp tại nhà ông bà Bửu phố Hoàng Diệu, Hà Nội).
Ảnh 4: Với GS anh hùng lao động Lương Định Của, khi Bùi Trọng Liễu thăm viện « Nghiên cứu cây lương thực » ở Hải Hưng, trong chuyến về nước làm việc năm 1970.
Ảnh 5 : Với bộ trưởng Nguyễn Văn Hiếu (trưởng đoàn) và bà Nguyễn thị Chơn (đoàn viên), phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tại Hội nghị hiệp thương hai bên miền Nam ở La-Celle-Saint-Cloud, sau Hiệp định Paris, 1973.
Ảnh 6 : Thăm bảo tàng họa sĩ Fernand Léger, với các ông Phạm Ngạc (bên trái trong ảnh) và Đoàn Hựu (bên phải trong ảnh), thuộc phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris. Bảo tàng Fernand Léger là một trong những địa điểm đàm phán bí mật Lê ĐứcThọ-Kissinger. Ảnh chụp 1973.
Ảnh 7 : Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Ban Chấp hành Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam tại Pháp, tại Sứ quán Việt Nam ở Paris, trong chuyến thăm chính thức nước Pháp của Thủ tướng, 1977. Bùi Trọng Liễu, chủ tịch Hiệp hội, là người đứng ngoài cùng (thứ tư phía bên trái Thủ tướng).
Ảnh 8 : Vợ chồng Bùi Trọng Liễu (hàng ghế thứ nhì, phía bên phải tấm ảnh) tại Hội nghị « liên Mỹ » về giảng dạy Toán học, Caracas 1975.
Ảnh 9 : Tại Hội nghị Toán học toàn quốc, Hà Nội 1977. Từ phải sang trái : Phan Đình Diệu (người thứ 4), Lê Văn Thiêm (người thứ 6), bộ truởng Trần Quang Huy, trưởng Ban Việt kiểu Trung ương (người thứ 11), Bùi Trọng Liễu (người thứ 16).
Ảnh 10 : Năm 1981, một Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp về nước theo lời mời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng và Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bùi Trọng Liễu, trưởng Đoàn, tại nhà khách Chính phủ, Hà Nội 1981.
Ảnh 11 : Với Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Thủ tướng, tên gọi thời đó) Phạm Văn Đồng, tại phủ Chủ tịch, Hà Nội 1981.
Ảnh 12 : Ông Hoàng Quốc Việt, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc (người thứ nhất bên trái ảnh), Bộ truởng Xuân thủy (người thứ nhì) và Bùi Trọng Liễu, tại trụ sở của Mặt trận, Hà Nội 1981.
Ảnh 13 : Trong buổi làm việc của Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp với Bộ trưởng Nguyễn Đình Tứ (bên phải tấm ảnh), Bộ Đại học, Hà Nội 1981.
Ảnh 14 : Trưởng Ban Khoa giáo Bùi Thanh Khiết (bên trái tấm ảnh) tiếp Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp. Từ trái sang phải : Phạm Thị Anh Thư (đoàn viên), Bùi Trọng Liễu (trưởng đoàn), thứ trưởng Nguyễn Ngọc Trân và Nguyễn Quang Tiến (thư ký đoàn), Hà Nội 1981.
Ảnh 15 : Trong buổi Bộ trưởng Đặng Thí, trưởng Ban Việt kiều Trung ương (người đứng) tiếp Đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp, Hà Nội 1981.
Ảnh 16 : Khai mạc Đại hội 4 Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam tại Pháp, Paris 1982.
Ảnh 17 : Bia chữ Nôm khắc bài ký về việc thành lập Trung tâm Đại học « dân lập » Thăng Long năm 1988. Bia gắn tại 34 Hàn Thuyên, Hà Nội, trụ sở văn phòng lúc mới thành lập. Bia chữ quốc ngữ cũng gắn tại địa chỉ này.
Ảnh 18 : Bia khắc bài thơ của Bùi Trọng Liễu tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Toàn quốc kháng chiến, 1946-1996.
Ảnh 19 : Từ trái sang phải : Hoàng Tụy, Lê Văn Thiêm, Colette (vợ Bùi Trọng Liễu), Nguyễn Văn Đạo, Henri Van Regemorter (chủ tịch Ủy ban Hợp tác Khoa học và Kỹ thuật vói Việt Nam, Comité pour la Coopération Scientifique et Technique avec le Vietnam). Ảnh chụp tại nhà Bùi Trọng Liễu cuối năm 1981, khi Đoàn các GS Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy, Nguyễn Văn Đạo ghé qua Pháp trong chuyến đi thăm Mỹ.
Ảnh 20 : Bia thứ nhất trong Văn Miếu, trên đó có khắc tên Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ, cụ tổ bên ngoại của Bùi Trọng Liễu. Tên cụ Nguyễn Như Đổ là tên thứ nhì trên bia này.
Ảnh 21 : Tiếp GS Nguyễn Đình Trí (Đại học Bách Khoa Hà Nội) và GS Phan Đình Diệu (lúc đó còn công tác ở Viện Khoa học Việt Nam, sau này mới chuyển sang Đại học Quốc gia Hà Nội) ghé qua Pháp trong chuyến đi thăm Mỹ. Từ phải sang trái : Phan Đình Diệu và Nguyễn Đình Trí. Ảnh chụp tại nhà Bùi Trọng Liễu ở Pháp năm 1980.
Ảnh 22 : Tiếp VS anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa. Ảnh chụp tại nhà Bùi Trọng Liễu ở Pháp năm 1983.
Ảnh 23 : Lễ « Sinh phong » ông bà nội của Bùi Trọng Liễu ở quê Nhuận Ốc, năm 1938 .
Ảnh 24 : Nhà thủy tạ trên hồ bán nguyệt, ở « sinh phần » ông bà nội của Bùi Trọng Liễu ở làng Nhuận Ốc. Các công trình xây dựng này đã bị hủy trong chiến tranh Việt-Pháp và trong thời cải cách ruộng đất.



           http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org 

Bùi Trọng Liễu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bùi Trọng Liễu (sinh 28 tháng 9 năm 1934Ninh BìnhViệt Nam - mất 5 tháng 3 năm 2010 tại Bệnh viện Antony, ngoại ô phía Nam ParisPháp) là Tiến sĩ nhà nước về khoa học, ngành Toán (Docteur d’Etat ès sciences mathématiques), là nghiên cứu viên tại Direction des Etudes et Recherches de l'EDF (1959-1963) và là giáo sư đại học (Lille 1963-1969, Paris 1969-2003).[1]
Ông sinh ra trong một gia đình trí thức ở làng Nhuận Ốc, xã Khánh Cường, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh BìnhViệt Nam. Bố ông là Bùi Văn Thiệp, một nhà tân học, từng học Trường Bưởi và Trường Cao đẳng Pháp chính Hà Nội, ra làm quan đến chức Tuần phủ Thái Nguyên, rồi Tuần phủ Phúc Yên lúc trước Cách mạng Tháng Tám.
Ông sang Pháp học và lập nghiệp tại đây. Vợ ông là Colette, một người Pháp, là tiến sĩ quốc gia về toán học, phó giáo sưĐại học Paris 4. Con trai đầu là Bùi Khảo Mạc, giáo sư Đại học Compiègne. Con trai thứ hai là Bùi A Lanh, phó giáo sư Đại học Picardie (Amiens).[2]
Thuở nhỏ, bên cạnh việc học tiếng Pháp, ông còn học chữ Hán đến mức đọc hiểu bộ tiểu thuyết cổ điển Tam Quốc chí diễn nghĩa. Theo gia đình sang Pháp từ năm 1950, khi mới 15 tuổi, gần cả cuộc đời sống nơi đất khách quê người, ông vẫn sành tiếng Việt, không chỉ trong lời ăn tiếng nói ngày thường, mà cả trong văn chương nghị luận, tranh biện hay trần thuật, hồi ký, tùy bút, tiểu phẩm.[2]
Ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ quốc gia về khoa học toán học năm 28 tuổi. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm giáo sư Đại học Lille (1963-1969), rồi giáo sư Đại học René Descartes (Paris 5) từ năm 1969 cho đến khi về hưu. Ông là một trong số rất ít người Việt sớm được công nhận chức danh giáo sư đại học ngành toán ở Pháp nói riêng, cũng như ở phương Tây nói chung.[2]
Năm 1970 ông đã trở về thăm quê hương, làm việc với Ủy ban Khoa học Nhà nước, đến năm 1981, ông làm trưởng đoàn của đoàn trí thức Việt kiều tại Pháp về nước theo lời mời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.[1]
Ngay từ năm 1988, khi công cuộc Đổi Mới vừa bắt đầu, ông đã đứng ra sáng lập Trường Đại học Thăng Long[3] tại Hà Nội, trường đại học dân lập đầu tiên trong chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không xin tài trợ của Nhà nước, về giảng dạy và quản lý theo quan niệm mới, phù hợp với yêu cầu của xã hội và tình hình quốc tế. Trong những ngày đầu, vợ chồng ông phải dành một phần tiền lương của mình ở Pháp để gửi về nước. Ông bà đã thành lập tại Pháp một Hội Tương trợ Đại học Pháp - Việt (Amitié Universitaire France-Vietnam) để quyên góp tiền bạc, vật dụng từ các cá nhân, đoàn thể bên Pháp gửi về, giúp trường trang trải các chi phí và hỗ trợ các học bổng miễn phí...[4][5].

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Ông là tác giả của 4 cuốn sách đã xuất bản tại Việt Nam[1] gồm:
  • Tự sự của người xa quê hương (tên cũ là Chuyện gia đình và ngoài đời), nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội 2004
  • Chung quanh việc học, nhà xuất bản Thanh niên 2004
  • Học gần, Học xa, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội 2005
  • Học một sàng khôn, nhà xuất bản Tri thức Hà Nội 2007.
Cuốn sách thứ 5 là một tạp ký còn bỏ ngỏ, đó là Hướng về quê cũ lúc chiều tà gồm các bài báo của ông đăng trên báo.[6]
Ông viết hàng trăm bài báo, tiểu luận, góp ý về cải cách giáo dục ở Việt Nam. Bài nào của ông cũng thể hiện tấm lòng dành cho quê hương. Ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục Đại học ở Việt Nam.[7]




 -------------------------------------------------------------------------------------------

 Mục đích cuộc sống càng cao thì đời người càng giá trị. 

 Geothe



*******

Blog Toán Cơ trích đăng các thông tin khoa học tự nhiên của tác giả và nhiều nguồn tham khảo trên Internet .
Blog cũng là nơi chia sẻ các suy nghĩ , ý tưởng về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau .


Chia xẻ

Bài viết được xem nhiều trong tuần

CÁC BÀI VIẾT MỚI VỀ CHỦ ĐỀ TOÁN HỌC

Danh sách Blog

Gặp Cơ tại Researchgate.net

Co Tran